Bên con đường sắt
Đường
từ huyện Sơn-hải về làng Mỹ-lý có hai ba ngả. Ngả tiện và gần nhất là con đường
mòn đi băng qua làng Thanh-ý. Con đường này đi qua một cánh đồng ruộng mênh
mông rồi lẩn lút trong đám tre xanh chừng nửa dặm trước khi vươn mình qua sông
Phù Mỹ.
Thanh
Tịnh
Qua khỏi sông thì gặp ngay con đường sắt chắn ngang nên con đường mòn
lại nhập với con đường lớn đi thẳng về làng Mỹ-lý.
Bên con đường mòn, dưới bóng một cây bàng cao lớn, một cái quán tranh đã
điểm một chấm đen bên lưng đồi sỏi trắng. Cái quán ấy trở mặt nhìn con đường
sắt cách xa đấy không đầy một trăm thước.
Ba năm về trước, người ta có dựng lên ở vùng này một cái ga tạm. Nhưng
sau nhận thấy khách lên xuống ở ga ấy ít quá nên lại bỏ đi. Thật ra lúc mới
dựng ga thì quang cảnh chung quanh không đến nổi lạnh lùng quá.
Lúc nào khách bộ hành cũng qua lại tấp nập, và bao nhiêu đường ở làng
Mỹ-lý đều quay đầu về ga ấy hết.
Dân trong làng thấy ở địa phận mình có cái ga ấy thì vui thích lắm. Họ
thường lên xuống để xem tàu chạy và để nhìn những dân mấy làng bên cạnh qua lại
ở làng mình. Được thấy những người lạ mặt ấy họ vui mừng và sung sướng vì họ
cho là điềm thịnh vượng của dân cư và sự vẻ vang của làng nước.
Hồi ấy trong làng có một cô gái bán gạo trông xinh tươi và thùy mị. Cô
ta ở một mình với người em trai vì cha mẹ cô qua đời lúc cô mới mười bốn tuổi,
cô ta bán gạo để nuôi em đi học và để trả những món nợ của cha mẹ để lại. Thấy
cách bán gạo kiếm tiền không được mấy, nên cô ta dọn một cái quán gần bên
ga.
Nghỉ bán gạo ba hôm, cô Duyên – cô ấy tên Duyên – đã dời được cái nhà
của cô đem ở khít bên đồi sỏi trắng. Mấy tháng đầu, cô ta buôn bán thịnh vượng
lắm. Cô chỉ chuyên bán cơm quán cho những khách lên xuống tàu nên quán cô ta
lúc nào cũng tấp nập người ra kẻ vào.
Tiếng mõ đầu làng mới trở canh ba, cô Duyên đã phải dậy nấu cơm để cho
những người đi chuyến tàu bốn giờ sáng. Ngày đêm cô ta chỉ lấy những chuyến tàu
qua lại để làm chừng.
Cô ta tiếp đón khách qua đường vui vẻ và chân thật nên ai cũng bằng
lòng. Riêng các cô gái trong làng thì không ai ưa tính tình thẳng thắn của cô
Duyên. Họ quen ra vào trong những nếp nhà nghi lễ gắt gao nên họ cho lối tiếp
khách của cô Duyên trông không được đứng đắn lắm. Gặp nhau trên con đường đi
xuống chợ hay giữa quãng đồng lúa chín, họ thường khúc khích cười rồi bảo thầm
với nhau những câu rất khó chịu:
– Được duyên số như cô Duyên thì thà chịu phận hẫm duyên hờn còn
hơn.
Một cô khác lấy nón che miệng cười, nói tiếp:
– Các chị em chớ nói đùa! Trong chị em mình chị nào ế chồng thì lên quán
cô Duyên cô sẽ chia bớt chồng cho. Vì quán cô Duyên thì đa nhân duyên lắm
đấy!
Mỗi lần những tiếng ấy đến tai cô Duyên thì cô chỉ mỉm cười rồi lật đật
đi tìm việc để làm chứ không bao giờ cô chịu bận lòng để ý đến.
Một hôm trời chưa tảng sáng, ở trước quán cô có người gọi cửa. Cô lật
đật ngồi nhỏm dậy rồi đưa hai chân xuống giường sờ soạng tìm đôi guốc. Tiếng gõ
cửa càng nghe càng manh hơn trước. Cô Duyên vừa lấy diêm thắp đèn vừa tươi cười
hỏi bỡn:
– Quí khách nào đấy?
Ở bên ngoài có tiếng đáp:
– Quí khách đến mở hàng cho cô đây.
– Vâng cháu sắp mở cửa. Ngài cần dùng gì?
Tiếng ở ngoài nghe the thé và có vẻ gắt gỏng khó chịu:
– Cần dùng ngủ lại với chủ quán một đêm.
Nhận được tiếng cô Lân, một người bạn gái xưa kia cùng ở một xóm, cô
Duyên mừng lắm:
– Cô Lân đấy phải không? Đi đâu mà khuya thế?
Tiếng bên ngoài lần này đổi ra giọng mỉa mai:
-Vâng, con Lân đây, nhưng làm trò gì ở trong lại để tôi phải gọi rát cả
cổ. Hay chị bảo tôi là khách đàn bà… nên chị không tiếp.
Dứt tìếng nói thì tiếp đến tiếng guốc kéo thiệt nhanh đi về phía ga rồi
im bặt sau hàng thông cao vút.
Cô Duyên biết cô Lân nói mỉa mình nhưng cô cũng không buồn cãi lại. Vì
cô chán biết không ai muốn tin đến tấm lòng nhi nữ đã ẩn được thanh bạch trong
túp lều tranh mục nát. Nhưng lúc cô vừa đặt mình xuống giường thì tự nhiên hai
mắt cô lại chan hoà cả nước mắt. Lần này cô tủi vì đời cô không có người che
chở.
Người thường đi lại quán cô ta nhiều bận nhất là thầy xếp ga. Thầy này
cứ ngày hai buổi đến ăn cơm ở quán cô Duyên, còn đêm thì ngủ lại trong ga tạm.
Thầy ta tên Trưu, tính tình lúc nào cũng vui vẻ và hiền từ. Đến mấy bận ở quán
cô Duyên, thầy đã đem lại cho cô quán trẻ tuổi lắm ý kiến hay và sáng suốt.
Thày Trưu khuyên cô Duyên nên cho người em trai đi học chữ Pháp vì Hán-văn đã
mất hết vẻ thông dụng của thời xưa rồi. Cô Duyên lúc nào cũng sẵn sàng nghe lời
thầy Trưu vì những ý kiến tươi sáng của thầy ta lúc nào cũng kèm theo những ý
kiến xa xuôi về cuộc nhân duyên tình ái.
Lửa ái ân của hai ngựời mới bắt đầu nhóm thì một chuyện không hay bất
ngờ xảy ra.
Cách ga tạm ở làng Mỹ-lý ba cây số, có một cái ga lớn ở chính giữa làng
Kỳ-lâm. Dân vùng quê thường tính lợi hại từng li từng tí nên họ không chịu lên
tầu ở ga Mỹ-lý nữa. Vì chịu khó đi đến ga Kỳ Lâm thì họ được lợi bốn xu. Vì vậy
mà ga tạm ở làng Mỹ-lý trở nên hẻo lánh và quang cảnh chung quanh cũng mất vẻ
sầm uất. Một vài cái quán nước gần ga đã bắt dầu dời đi nơi khác.
Qua mùa đông năm ấy, thầy Trưu được giấy bổ vào Nha-trang. Nhà ga tạm
Mỹ-lý từ đấy trở nên chỗ trú ngụ của bọn dân nghèo khổ. Quán cơm cô Duyên cũng
vì thế mà trở nên buồn tẻ.
Nhưng cô Duyên nhứt định không chịu giỡ quán đem về làng. Cô ta đoán
biết trước những vẻ mặt khinh khỉnh, những lời nói mỉa mai của lắm người không
ưa cô ta ngày trước.
Khách bộ hành càng ngày càng thưa thớt dần, nhưng cũng may những người
làm ruộng thường ghé lại quán mua nước hay khoai nên nghề buôn bán của cô Duyên
cũng tạm gọi là sống được. Rồi ngày hai buổi, lúc nghe tiếng còi tàu văng vẳng
bên đồng xa, cô Duyên lại lững thững đi lên trước sân ga tạm cũ để nhìn tàu
chạy. Tiếng máy chạy đều đều của con tàu từ phương xa đi lại đã hoà nhịp với
tiếng đập mạah của quả tim cô. Lần nào cô ta cũng hy vọng thầy Trưu sẽ trở về
với cô, với cái quán tranh tựa bên đồi sỏi trắng. Nhưng lúc không nhận thấy một
mặt nào quen trên chiếc tàu đang vùn vụt chay, cô ta lại buồn rầu nhìn xuống
đất để âm thầm tự hứa sẽ lên ga đón chiếc tàu sắp đến. Trong lúc ấy thì sau lũy
tre già, con tàu ngạo nghễ phụt vài lớp khói lên không và thét lên một chuỗi
tiếng dài để ra oai với quãng đường muôn dặm.
Qua mùa đông năm sau, giữa một đêm mưa gió dầm dề, cô Duyên chợt tỉnh
nghe bên ngoài có tiếng gọi. Cô ta đưa hai tay dụi mắt rồi sờ soạng trong bóng
tối để tìm lối đi.
– Cô Duyên ơi! Cô còn thức hay ngủ?
Nhận được tiếng thầy Trưu, cô Duyên mừng quá run cả người. Cô ta phải
vịn vào cột để giữ hơi thở mạnh và để lấy giọng điềm nhiên trả lời:
– Thày Trưu đấy phải không?
Bên ngoài tiếng thầy Trưu đáp lại hơi run run:
– Phải tôi đây, cô mở cửa nhanh cho tôi vào với.
Tấm cửa tranh vừa mới hé mở thì thầy Trưu nhanh nhẹn bước chân vào. Một
luồng gió tràn vào mạnh đã làm tắt cây đèn để trên ngựa. Cô Duyên loay loay đi
tìm diêm để thắp lại. Cây diêm đã kề ngọn lửa bên bấc, nhưng vì tay cô Dayên
run quá nên cây đèn vẫn chưa chịu đỏ.
Lúc ánh sáng lù mù đã toả ra khắp nhà, thầy Trưu mới đến vắt cái áo tơi
trên lưng ghế, rồi đăm đăm đứng nhìn cô Duyên không chớp mắt. Gương mặt cô
Duyên tuy không tươi bằng trước, nhưng cái duyên xưa, cái duyên mộc mạc trên
đôi môi hồng thắm, trên cặp má núng đồng liền vẫn còn mơn mởn như đoá hoa hồng
buổi sáng. Thấy đồ đạc trong nhà ngổn ngang và đầy bụi bặm, thầy Trưu cũng đủ
biết cảnh nhà cô Duyên ra thế nào rồi. Biết cô Duyên ngượng vì mình đứng nhìn
quá lâu, thầy Trưu đưa tay phủi bụi mưa trên cái mũ dạ để tìm vài câu
hỏi.
Sau một lúc đứng yên, thầy Trưu ngập ngừng lên tiếng trước:
– Độ này cô làm ăn có khá không?
Được dịp ngẫng đầu lên, cô Duyên đưa cặp mắt nhung nhìn thầy Trưu từ đầu
xuống chân, rồi e dè sẽ đáp:
– Làm gì mà khá bằng trước được.
Thầy Trưu cũng biết mình đã hỏi một câu thừa nên đứng yên không hỏi nữa.
Thấy bút nghiên chữ Hán để bên cây đèn, thầy Trưu sực nhớ đến người em trai của
cô Duyên nên vội hỏi:
– Em Nhàn năm nay lên lớp mấy rồi?
– Em Nhàn đã trở lại học chữ Hán mấy tháng nay.
Ngạc nhiên thầy Trưu hỏi dằn từng tiếng:
– Học chữ Hán?
– Vâng, vì sách học chữ Pháp bán đắt tiền quá, nhà nghèo em mua không
nổi.
Nhận thấy cảnh túng bấn của cô Duyên, thầy Trưu ngậm ngùi thở dài, yên
lặng.
Biết mình vô tình để thầy Trưu đứng lâu quá, cô Duyên xoa tay tươi cười
nói:
– Mời thầy ghé ngồi tạm đã.
Như người tỉnh mộng, thầy Trưu giật mình đưa trái cánh tay nhìn đồng hồ
rồi nhìn cô Duyên nói khẽ:
– Cô Duyên ạ, tôi cũng không ngờ đêm hôm nay lại gặp được cô. Vì hôm qua
được giấy đổi ra Vinh, tôi phải đáp chuyến tàu suốt đi liền. Nhưng gần đến
trước ga tạm Mỹ-lý, con tàu lại bị chết máy. Thừa dịp ấy tôi vội vàng xuống
thăm cô. Thật tôi không ngờ quán của cô lại còn ở đây.
Cô Duyên nghẹn ngào nhìn thầy Trưu. Cô đang thầm cảm ơn Trời Đất đã bắt
con tàu chết máy, thì văng vẳng ở bên đồng xa, tiếng còi tàu lại thét lên trong
đêm vắng.
Thầy Trưu giật mình cúi xuống vớ cái áo tơi rồi tiến đến nắm tay cô
Duyên cúi đầu sẽ nói:
– Máy tàu họ đã chữa được rồi. Thôi xin chào cô, ngày gặp gỡ trăm năm
xin chờ hôm khác.
Nói xong thầy Trưu quay lưng đi ra cửa thật nhanh để dấu hai hàng lệ đã
tràn trề trên má, trong lúc cô Duyên đứng chơi vơi nhìn theo với cặp mắt đẫm lệ
và với tấm lòng tan nát.
Ngoài trời hạt mưa đêm vẫn còn rì rào trong bụi tre gần bên quán.
Từ đấy về sau, mỗi lần chuyến tầu đêm đi qua trước sân ga Mỹ lý, cô
Duyên lại tưởng trái tim cô ngừng đập. Vì lúc nào cô ta cũng tưởng tượng đến ở
máy tàu ngừng kêu, và bên ngoài có tiếng người gọi cửa.
Nhưng sự thật thì con tàu vẫn vùn vụt đi qua giữa những cảnh đồng hoang
vắng, giữa những đêm mưa gió dầm dề, lạnh lùng và mãnh liệt.
Thanh
Tịnh
Nguồn: Thanh Tịnh, Quê Mẹ, NXB Bút Việt, 1975.
304Đen – llttm -sgtc