Monday, January 29, 2024

Đếm Giọt Tương Tư - Thuyên Huy

Đếm Giọt Tương Tư 




Kịp Đưa Ông Bà Chiều Ba Mươi - Thuyên Huy

KỊP ĐƯA ÔNG BÀ CHIỀU BA MƯƠI

Nhân vật thật, đổi tên, chuyện và bối cảnh tưởng tượng

 

    Hai mươi ba tháng chạp, thiên hạ vừa cúng đưa Ông Táo về trời xong, chưa kịp chuẩn bị đồ đạc về quê thì chú Hiếu nhắn xuống cho biết mẹ tôi đau nặng, hiện nằm trên bệnh viện tỉnh. Ba tôi gởi nhà cửa lại cho vợ chồng anh năm Thương lo liệu, theo lên lo cho bà, hiện đang ở tạm nhà chú Hiếu. Chú Hiếu không nói bệnh gì và hiện ra sao. Chiều tối, tôi đến gặp Chiêu từ giã về Tây Ninh trước, hẹn gặp lại trên đó, vì vài hôm nữa trường học đóng cửa nghỉ ăn Tết rồi. Sáng hôm sau Chiêu nghỉ giờ học đầu, lái xe Honda đến đưa tôi ra bến xe, đón chuyến xe đò sáng sớm. Tôi lầm lủi lên xe quên cả lời từ biệt, Chiêu buồn buồn cũng chẳng giận hờn chi. Xe đò chạy khá xa rồi mà Chiêu vẫn còn ngồi đó nhìn theo. Sương sớm tan dần trên đường, cả thành phố lặng thinh chờ sáng. Ra khỏi khu Bảy Hiền, xe đò dừng lại nhiều lần, nhường đường cho đoàn xe quân xa nối đuôi nhau chở đầy ắp súng ống, lính trận, rầm rập chạy về hướng Củ Chi. Hình như họ từ Long Khánh, Bình Long gì đó về cho nên xe người đều bám đầy bụi đỏ. Hỗm rày chiến trận có vẻ lan rộng và ác liệt hơn trước, nhất là sau vụ Tết Mậu Thân, Bắc quân tổng tấn công các tỉnh lỵ và thành phố của miền Nam, nơi nào cũng tan hoang chết chóc. Đoàn quân xa chầm chậm ngang qua, khách trong xe đò ai nấy lặng im nhìn thơ thẩn. Người lính ngồi thu mình trong cái xe GMC cuối cùng, mui phủ nửa kín nửa hở, hờ hững gật đầu cười, một nụ cười rã mệt.

 *

    Xuống xe, tôi quàng túi xách lên vai, thả bộ lên dốc toà hành chánh về hướng bệnh viện tỉnh. Trời vừa xế trưa, nắng vẫn chang chang nóng. Hơn sáu tháng, thành phố vốn nghèo hình như cứ nghèo. Cái biểu ngữ "Vui xuân không quên Chiến sĩ" bằng vải vàng, treo phất phơ theo chiều gió, trước cổng, không lớn lắm nhưng cũng đủ che khuất lối vào của cái công viên nhỏ nhoi, khiêm nhượng nằm ngay ngã ba qua chợ, may mà ở đó dăm ba cụm hoa vàng nở sớm trên gốc cây mai già, có ở đó từ những ngày tôi còn bé, người ta mới biết là sắp xuân, chớ nếu không, chắc trời ở đây mùa thu muôn thuở. Công viên gì mà chỉ có lá úa và cây khô bao quanh cột trụ đèn sắt thời Tây rong rêu buồn thảm.




 *

    Giờ này bệnh viện vẩn còn đông người, hỏi thăm cô y tá ở phòng chỉ dẩn ngay cổng vào, tôi tìm nơi mẹ tôi nằm không khó lắm. Chú Hiếu đang đứng hút thuốc đầu hành lang dãy phòng, thấy tôi chú mở tròn xoe mắt. Chú bỏ vội tàn thuốc xuống cái thùng thiếc nhỏ đặt trước cửa vào, làm dấu đi trước, chú không nói gì hết, tôi cũng chẳng màng hỏi han gì, hối hả theo sau. Người qua người lại cứ cúi đầu đi không cần ai chào ai hỏi. Trong phòng có năm giường bệnh, mẹ tôi nằm cái cuối sát cạnh tường. Bà thiêm thiếp ngủ, tôi ngồi xuống cạnh mép giường nhìn. Mặt bà trông xanh xao và ốm hẳn, hình như tóc bà bạc nhiều hơn. Chú Hiếu ngồi trên ghế sát tường, bên cạnh cái bàn nhỏ đầu giường bệnh, trên có năm sáu trái cam và nãi chuối cao vàng tươi. Chú nhìn tôi nói nhỏ:

- Chú cũng mới vào, không biết ba con đi đâu, chắc bỏ ra ngoài kiếm cà phê rồi.

Chú đứng dậy nói tiếp:

- Thôi để mẹ con ngủ một chút, mình thả ra mấy cái quán ngoài cổng xem có ba con đó không.

Tôi bỏ túi xách xuống dưới giường bệnh, lặng im theo chú Hiếu đi ra.

 *

    Ba tôi ngồi uống cà phê trong cái quán cốc bên kia đường, không xa cổng bệnh viện mấy. Ông vò đầu tôi cười như thường lệ. Tôi ngồi bên cạnh ông, chú Hiếu gọi cho tôi ly nước đá chanh rồi ngồi xuống cái băng cây đối diện. Ba tôi giờ cũng già đi lắm rồi, nhìn ông, tuy nói nói cười cười đó nhưng tôi nhận ra được có cái gì đó buồn buồn trên mặt. Ông hỏi tôi chuyện ăn ở học hành dưới Sài gòn ra sao, tiền bạc đủ xài không, rồi cũng dặn dò thêm như ngày nào trong mỗi lần đưa tôi ra bến tàu Bến Cầu lên tỉnh. Đợi ông nói xong, tôi mới hỏi:

- Mẹ sao rồi, mẹ khỏe không ba, bệnh gì mà phải nằm lâu vậy?

Như để tôi yên tâm, ba tôi vừa nhìn chú Hiếu vừa nhìn tôi:

- Không sao đâu con, phổi mẹ con có nước hơi nặng, nhưng êm rồi, chỉ kẹt là phải nằm lại bệnh viện hơi lâu, mẹ con hỏi thăm con hoài.

Chú Hiếu nghe ba tôi nói vậy, chú cũng gật đầu theo. Ba tôi nhìn mông lung ra đường:

- Chắc mình không về ăn Tết kịp rồi.

 *

    Cả ba người không ai nói thêm lời nào. Phía bên Quân y viện, cái cổng sắt mở rộng kêu ken két, hai ba cái xe cứu thương quân y chạy nhanh vào trong chở lính trận bị thương về từ một chiến trường nào đó. Chúng tôi quày quả trở vào bệnh viện, một vài chiếc lá bàng vàng úa rơi dật dờ ở cuối đường bên trong sân. Chiều hôm đó, tôi kể lại chuyện Sài Gòn như tôi đã nói với ba hồi xế trưa cho mẹ tôi nghe, bà gục gặt đầu, không nói nhiều được nhưng tôi thấy có một chút niềm vui đâu đây, trong ánh mắt dịu dàng của bà, cái ánh mắt hiền từ mà tôi không làm sao quên được, hôm bà cùng ba tôi lên tỉnh, đứng chờ trước cửa trường đón tôi về Bến Cầu chiều thứ sáu tan học tuần lễ đầu tiên của năm tôi học lớp đệ thất. Đêm đó, tôi theo chú Hiếu về nhà trước, ba tôi ở lại trễ như mấy hôm. Tiếng đại bác cứ ì đùng xa xa vào lúc nửa khuya, ở một góc trời, hỏa châu lơ lửng đỏ, có tiếng gà gáy sáng bên nhà ai đâu đó, tôi còn thao thức.

*

    Trưa thứ sáu, sau giờ ăn trưa của bệnh viện, tôi thả bộ xuống nhà trọ của cô Quyên và cô Thu trong hy vọng là hai cô chưa về Sài Gòn ăn Tết. Trên đường học trò lưa thưa từng tốp ra về, hỏi ra mới biết hôm nay là ngày cuối, học trò được về sớm, trường đóng cửa nghỉ Tết. Lâu rồi, sau bữa cơm chia tay tại quán ăn chợ cũ, tôi chưa lần gặp lại hai cô trừ lần nhờ Chiêu báo cho họ biết tin tôi thi đậu. Căn biệt thự vẫn cái cổng khép hờ, lối vào rụng đầy hoa giấy đỏ, mấy gốc cây thanh trà trong khu vườn sau, phủ đầy lá úa mặc dù thu đã tàn từ lâu.

Cô Quyên từ trong nhà bước ra mở cửa, mở tròn mắt ngạc nhiên nhìn tôi từ đầu đến chân :

- Ủa Ngữ về hồi nào vậy?

Tôi vừa theo sau cô vào nhà vừa trả lời :

- Em về hôm thứ tư, hai bữa rồi cô, cô khỏe không?

    Cô Quyên gật đầu cười. Tôi ngồi xuống cái ghế sa-lông sát cạnh cửa sổ ngó ra đường, cái ghế mà tôi đã ngồi trong hồi hộp khi mở gói quà mà Chiêu đã tặng hôm ăn mừng cái sinh nhật đầu đời của mình. Nắng loáng thoáng xuyên qua tấm màn hồng che vào phòng khách. Chậu hoa móng tay trên kệ sách gỗ nâu vẫn nhiều hoa như xưa. Cô Thu từ vườn sau trở vào, tôi đứng dậy chào. Cả hai ngồi đối diện tôi một hồi lâu, quanh phòng khách có vài túi xách trông đầy ắp.

Cô Thu nhìn mấy cái túi xách rồi ngó tôi :

- Ngày mai, hai cô về Sài gòn ăn Tết.

Tôi gật đầu làm dấu biết chuyện này :

- May mà quyết định đến thăm hai cô hôm nay, chứ để ngày mai thì không gặp rồi.

- Ngữ về Bến Cầu hả? Cô Quyên hỏi nhẹ.

Tôi buồn buồn nhìn ra đường :

- Chắc là không cô ạ, mà có lẽ năm nay không có ăn Tết.

Cô Thu nhanh miệng:

- Chuyện gì đây, có gì hờn giận rồi phải không?

Tôi lắc đầu:

- Nếu là giận với hờn thì có gì phải bỏ ăn Tết cô.

    Cả hai cô ngồi lặng thinh, nhìn tôi chờ đợi. Tôi cho biết chuyện mẹ tôi bệnh nặng đang nằm trong bệnh viện tỉnh một thời gian, cho nên năm nay gia đình tôi không có Tết. Chiều hôm đó, hai cô theo vào thăm mẹ tôi trong bệnh viện. Không nói gì mẹ tôi, cả ba tôi khi có hai cô vào thăm, ai nấy đều có vẻ vui hơn ngày thường. Tôi ở lại chơi với hai cô tới khuya mới về lại nhà chú Hiếu. Sáng thứ bảy, mẹ tôi lên cơn sốt, tôi không có dịp đưa hai cô ra bến xe. Chuyến xe sớm đầu ngày lặng lẽ rời tỉnh lỵ trong cơn mưa bụi sáng cuối đông, thành phố buồn thiu theo tiếng chuông nhà thờ chầm chậm đổ.

 *

    Chiêu về Tây Ninh chiều chủ nhật với Thảo Ly và Xưa mang theo thư của Tùng gởi thăm hỏi sức khoẻ của mẹ tôi.  Hai ngày nữa là tới Tết. Đâu đây có tiếng trống tập múa lân đì đùng trong sân chùa Thiên Ấn Tự. Mấy gốc cây mai già trước cổng chùa thi nhau nở sớm, vàng hực cả một trời xuân mới. Chiêu cùng Thảo Ly và Xưa vào bệnh viện thăm mẹ tôi, mang theo đủ thứ bánh trái. Cả bọn quây quầng hỏi han trăm thứ chuyện. Ba tôi lấy đó làm vui, lăng xăng lời thương lời mến. Chú Hiếu đứng bên ngoài, đi tới đi lui nhìn tôi cười tũm tĩm. Bệnh viện vắng người đi trong mấy ngày cận Tết. Cái bến xe bỏ túi bên cổng vào giờ này chỉ còn lèo tèo vài chiếc xe lôi máy cũ, hàng quán lộ thiên bên kia đường đã nghỉ bán hơn phân nửa. Mấy tấm bạt làm mái che giờ mặc tình phất phơ theo chiều gió cuối đông, dù xuân sắp về tới nơi rồi vẫn còn lành lạnh. Chiêu vào thăm mẹ tôi rất thường, thỉnh thoảng tôi về nhà Chiêu ăn cơm chiều, rồi đi lòng vòng trên phố. Trong phòng bệnh, mấy người nằm bên cạnh đã được xuất viện về nhà từ hai ba ngày nay, chỉ còn lại mẹ tôi nằm một mình mặc tình mà nhớ vườn cau gốc trầu và cái ao bèo đầy cá lìm kìm xanh biếc.

 *

    Trưa ba mươi, sau giờ ăn trưa của bệnh viện, buồn quá tôi thả bộ dọc lên xuống dọc theo con đường bên hông, nhìn phố xá vắng tanh chợt thấy lòng cô quạnh. Chuyến bay vận tải quân sự không thấy cất cánh như hàng ngày bên kia phi trường tỉnh, phía quân Việt Cộng cho tin họ đồng ý ngưng bắn mấy ngày để dân chúng ăn Tết. Đường phố quanh đây, không thấy lính trận ngược xuôi, cánh cổng sắt nặng nề của quân y viện tỉnh cũng im lìm đóng kín. Tiếng nhạc mừng xuân vang lên rộn ràng trên mấy cái loa đầu chợ. Trở lại bệnh viện, ba tôi không có đó, chú Hiếu đứng ngoài cửa nhìn vào, thấy tôi chú làm dấu bảo tôi lẹ lên. Trong phòng, mẹ Chiêu đang ngồi gần giuờng mẹ tôi, bà nói nói cười gì đó. Chiêu, Thảo Ly và Xưa đứng vây quanh. Tôi cúi chào bà, mẹ tôi cười nhìn, mặt mẹ tôi vẫn còn xanh xao quá. Bọn tôi bỏ ra ngồi ngoài bực thềm, chú Hiếu vẫn đứng đó.

 *

     Đêm ba mươi, gia đình tôi ba người, chờ giao thừa tới trong phòng bệnh vắng tanh, không chén cơm đón ông bà và không có mùi nhang thơm như khói lam chiều sau vườn, hai cha con ngồi trong cái bóng đêm trừ tịch trước cửa phòng, không ai bảo ai, dưới ánh đèn điện lờ mờ trên sân, mấy cô y tá trực đêm lẳng lặng lại qua lên xuống. Ngoài phố pháo đón giao thừa đì đùng nổ giòn giả mặc cho hỏa châu bập bùng sáng ở góc trời biên giới. Đã bắt đầu năm mới, tôi và ba tôi tiếp tục ngồi đó, có tiếng mẹ tôi ho nhẹ trong phòng, ba tôi thở dài đứng lên.

 *

    Sáng sớm mùng ba, cô y tá trực phòng đến báo tin bác sĩ quyết định cho mẹ tôi được xuất viện vì bệnh tình mẹ tôi không có gì nguy hiểm nữa. Mẹ tôi mùng quá, xuống giuờng đi qua đi lại trong phòng, tôi quơ vội đồ đạc mà ba mẹ tôi mang theo bỏ vào hai cái túi xách, ba tôi lên văn phòng làm thủ tục. Như thường lệ, chú Hiếu lúc nào cũng vào thăm mẹ tôi thật sớm, chú lăng xăng chạy ra cổng đón sẳn xe lôi máy. Trời đã bắt đầu có nắng, qua mùng ba rồi mà đường phố vẫn vắng tanh, xác pháo đỏ cuốn theo chiều gió đầu xuân bay lả tả khắp nơi. Ra khỏi bệnh viện, ba  mẹ tôi ngồi xe lôi máy, tôi ngồi Honda với chú Hiếu về nhà. Chú Hiếu nằng nặc bảo ba mẹ tôi ở lại với vợ chồng chú vài ngày rồi hãy về, trước sau gì Tết cũng qua rồi. Ba mẹ tôi từ chối vì nhớ nhà quá, chú thiếm Hiếu buồn buồn không dám nói thêm gì. Tôi muợn xe Honda chạy qua nhà Chiêu báo tin, Chiêu lấy xe theo tôi trở lại nhà chú Hiếu, chờ đưa ba mẹ tôi ra bến xe về Cẩm Giang.




*

     Cũng như mọi lần, chú Hiếu, Chiêu đứng chờ chiếc xe đò lớn ra khỏi đầu cầu Quan rồi mới bỏ đi. Nắng sớm xuyên qua khung cửa xe, mặt mẹ tôi ưng ửng đỏ. Chắc là bà mừng sẽ về Bến Cầu kịp cúng bữa cơm đưa ông bà chiều nay.

 

Thuyên Huy

Từ tập truyện “Bất Chợt Thu Về Đầu Hạ”

  

Chiều Nay Thấy Hoa Cười Chơt Nhớ Một Người * - Huyền Chiêu

CHIỀU NAY THẤY HOA CƯỜI CHỢT NHỚ MỘT NGƯỜI (*)

 

Sau Tết, lòng người miền Nam  chùng xuống khi  nghe tin nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông qua đời tại Sài Gòn (11 tháng giêng âm lịch).

Huyền Chiêu

 


Nguyễn Văn  Đông là nhạc sĩ được yêu mến, ít tai tiếng và thân quen vô cùng với người dân miền Nam thuở ấy qua tiếng hát Trần Văn Trạch với bài “Chiều Mưa Biên Giới”

Thuở ấy là thuở 20 năm chinh chiến, bất an của miền Nam nước Việt. Thuở ấy là thuở những tác phẩm thơ văn, âm nhạc  mang hơi thở của người lính, cho đến muôn thu vẫn sống mãi trong  tâm hồn người miền Nam mất nước .

Thật không thể tưởng tượng được chỉ trong  20 năm,  những nhạc sĩ miền Nam đã để lại hàng ngàn ca khúc tuyệt đẹp,  trong đó hầu hết chứa đựng cảm xúc về thân phận người trai thời chiến. Những cảm xúc ấy không  đồng phục như bộ đồ lính mà họ mang trên người, không bị trói buộc bởi một thế lực chính trị nào, không làm nô dịch cho một định hướng của chủ nghĩa nào.

Hãy nghe  tiếng sóng dạt dào trong tâm hồn chàng trai Minh Kỳ trước giờ ra lính:
“Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi

Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi”

Trần Thiện Thanh  đi lính  nhưng không  “Nhắm thẳng quân thù mà bắn” mà chỉ nhìn đâu đâu:

Từ máy thu thanh cô nàng vừa ca
“Trọn kiếp yêu anh lính khổ xa nhà”
Giữa rừng già vang tiếng hát thật cao
Nhưng giữa già tôi có thấy gì đâu?

                          (Trần Thiện Thanh – Rừng Lá Thấp)

Người lính của Trúc Phương  tả thực  và vô cùng tuyệt vọng:

“Đơn vị  thường khi nằm trên đất giặc

Thèm trong hãi hùng

Tiếng hát môi em tiếng hát ngọt mềm”

(Trúc Phương – Kẻ Ở Miền Xa)

Nguyễn Văn Đông  cũng mô tả  tâm trạng cô đơn của người lính  đêm giao thừa ngồi gác một mình nơi tiền đồn xa xôi, nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ em, nhưng   ca khúc của ông  đối với cảm nhận của riêng tôi không mang vẻ  sầu thảm.

Có lẽ vì nhạc của ông luôn có giai điệu hướng về vần trắc. Câu hát của ông lúc nào cũng lên cao phơi phới như cánh diều trong gió.

“Chiều mưa biên GIỚI anh đi về đâu?

Sao còn đứng NGÓNG nơi giang đầu

Kìa rừng chiều  âm u  RÉT MƯỚT

Chờ người về vui trong GIÁ BUỐT

Người về bơ vơ”

(Nguyễn Văn Đông – Chiều Mưa Biên Giới)

Trong Về Mái Nhà Xưa chúng ta nghe tiếng ca cứ vút dần lên cao:

“Về đây NGƠ NGÁc chim bay tìm đàn

Về đây  HOANG VẮNG LẠNH BUỐT cung đàn”

(Nguyễn Văn Đông – Về Mái Nhà Xưa)

Thật dễ hiểu khi  chất giọng soprano rất trong trẻo, rất nhẹ nhàng nhưng vô cùng đầy đặn của Hà Thanh  như sinh ra để hát nhạc Nguyễn Văn Đông.

Ngay cả tựa đề  của ông cũng ít khi thiếu dấu sắc:

“Sắc Hoa Màu Nhớ”, “Phiên Gác Đêm Xuân”, “Mấy Dặm Sơn Khê”

“Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp”…

Trong một bài phỏng vấn  trước 1975,, nhạc sĩ cho biết ông rất thích nhạc Pháp và yêu mến ca khúc “La Vie En Rose”

Và Mùa Xuân hiện diện rất nhiều trong nhạc  Nguyễn Văn Đông :

“Nhớ Một Chiều Xuân” “Phiên Gác Đêm Xuân” “Dáng Xuân Xưa”, “Khúc Xuân Ca”  cho chúng ta biết nhạc sĩ là người lạc quan, yêu người, yêu đời và yêu…nước.

Ta không tìm thấy hận thù  trong người lính Nguyễn Văn Đông chỉ thấy ước mơ của ông thật cảm động:

“Mong sao nước Việt đời đời

Anh dũng oai hùng  chen chân thế giới”

(Nguyễn Văn Đông – Hải Ngoại Thương Ca)

Nhưng đời không là màu hồng.

Một tâm hồn đẹp đẽ như thế, một con người đáng yêu, đáng sống như thế  sau 1975 đã bị khổ sai mười năm trong tù.

Sau ngày ông qua đời chúng ta  bàng hoàng đọc được lời ông Chu Tất Tiến, người  bạn tù  của  Nguyễn Văn Đông mô tả hình ảnh nhạc sĩ lừng danh Nguyễn Văn Đông trong những ngày tù đày, ốm đau, bệnh tật và đói rét:

. . . anh chỉ có thể nằm trên một miếng ván nhỏ có gắn bánh xe do anh em cùng tù làm cho anh, để anh lấy tay đẩy miếng ván trôi đi, y như một người bị què cụt sắp chết. Nhìn hình ảnh đó, anh em đều sa lệ. Còn đâu người hùng năm xưa? Còn đâu hình dáng người nhạc sĩ với cây đàn và những bản nhạc tuyệt vời, hát mãi không chán?”(**).

Chúng ta cũng đau xót đọc được trong bài viết  “Viếng Tang Lễ Giản Dị Của Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông” của Trần Tiến Dũng trên báo Người Việt:

“Hầu chuyện phu nhân của nhạc sĩ, bà cho biết: Lúc ông từ nhà tù của chế độ Hà Nội về, bệnh tật khiến ông không đi, đứng được, ông chỉ nằm đó như một cái xác, không người thân nào tin ông có thể sống. Hàng xóm ai cũng thương cảm. Nhưng rồi bằng nghị lực phi thường và sự chăm sóc của gia đình ông vượt qua tình trạng bạo bệnh mắc phải trong thời gian 10 năm chịu lao tù”

Nguyễn Văn Đông cũng như nhiều thanh niên  miền Nam đi lính như một bổn  phận vì:
“Đi quân dịch là thương nòi giống”
(Bức tâm Thư-Lam Phương)

Khi trận chiến trở nên khốc liệt, phi lý, họ chịu đựng như tai trời ách nước, không oán thù, trách móc,  chỉ biết:

“Người đi khu chiến thương người hậu phương”

 (Nguyễn Văn Đông – Chiều Mưa Biên Giới)

Tâm hồn trong sáng, trái tim nhân hậu của Đại Tá, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông xứng đáng để chúng ta đưa tay lên trán chào vĩnh biệt.

Huyền Chiêu

304Đen – llttm- sgtc

  

Nhớ Thời Tiểu Học - Nguyễn Đắc Thịnh

 

NHỚ THỜI TIỂU HỌC

 

Vào cổng trường, qua hai hàng dàn chào là mấy anh lớp nhì, lớp nhất với chốt chặn là thùng sữa nóng thật to (mẹ tôi nói đó là sữa bột viện trợ của Mỹ), uống hết một ly mới được đi vô sân trường rồi đến lớp.

Nguyễn Đắc Thịnh

 


Ký ức của tôi vẫn còn hằn một vệt trẻ thơ về thành phố Sài Gòn yên bình, vắng vẻ.

Sau khi qua hai năm mẫu giáo tại trường Mạnh Mẫu, số 96 Lý Trần Quán và trường mẫu giáo Michelet, số 30 Lý Trần Quán thuộc khu Tân Định – Sài Gòn.

Tôi vào học lớp năm (lớp một) niên học 1965-1966 tại trường Tiểu học Con Trai Tân Định, số 12 Huỳnh Tịnh Của.

Những ngày đầu nhập học, mẹ dẫn tôi đi bộ, đường từ nhà đến trường phải qua bưu cục Tân Định thấp bé với sân đất khá lớn có cây mận, cây trứng cá, quả rơi đầy sân cũng là nơi bọn lau nhau xóm Mayer thường vào chơi nhảy dây, bắn bi, … thêm mấy chục bước bên kia đường là nhà thờ Tân Định cao chót vót, tiếp đến là trường Thiên Phước, qua đường Đinh Công Tráng, Trần Văn Thạch gặp chợ Tân Định, tại đây qua đường rồi quẹo trái, đến giữa đường Nguyễn Đình Chiểu (ngang trường Đổ Chiểu) có lò bánh mì, được mẹ mua cho một khúc bánh mì bơ đường (hoặc bánh mì móng ngựa để ăn giờ ra chơi), lại qua đường đi tiếp đến trường Tân Định.

Sau này khi đã quen, mẹ tôi chỉ dẫn đến tiệm mua bánh mì rồi đưa tôi qua đường và tự đi đến trường. Mẹ tôi cũng chỉ đi đón tôi ít ngày đầu rồi sau đó tôi tự đi về nhà khi tan trường, lúc cần qua đường thì nhờ người lớn giúp.

Vào cổng trường, qua hai hàng dàn chào là mấy anh lớp nhì, lớp nhất với chốt chặn là thùng sữa nóng thật to (mẹ tôi nói đó là sữa bột viện trợ của Mỹ), uống hết một ly mới được đi vô sân trường rồi đến lớp. Một số bạn không quen uống sữa thì rất ngại, luôn tìm cớ để tránh nhưng với các bạn thích sữa như tôi thì giờ ra chơi lại đến uống thêm ly nữa.

Lúc đấy, mình bé xíu nên nhìn dãy lớp học sao mà sừng sững khổng lồ, sân trường rộng và dịu mát với các cây thấp. Đến vị trí lớp đứng xếp hàng, hướng về cột cờ để thượng cờ và hát quốc ca mỗi ngày thứ hai, bài hát với giai điệu và lời ca hùng tráng khiến học sinh chúng tôi vô cùng yêu thích và nhanh chóng thuộc nằm lòng, đến chết cũng không thể nào quên.

Đã năm mươi sáu năm rồi, có những việc gần đây lại không thể nhớ, nhưng những bài học vỡ lòng ở lớp năm, sao chẳng thể quên, như hai bài sau:

Sách quốc ngữ

Sách quốc ngữ

Chữ nước ta

Con cái nhà

Đều phải học

Miệng thì đọc

Tai thì nghe

Đừng ngủ nhè

Chớ láu táu

Em lên sáu

Đang vỡ lòng

Học cho thông

Thầy khỏi mắng.

Hè về

Ngày nghỉ hè

Ta về quê

Nhà ta ở

Mé bờ đê

Ở nhà có

Mẹ cha ta

Ông và bà

Quý ta quá.

Các bài đọc còn được minh họa bằng những hình vẽ chân chất, dễ thương làm cho học sinh mau thuộc và nhớ lâu bài học.

Và bài Trận túc cầu quốc tế (năm học lớp nhì – lớp 4) 

Bóng vừa xế, cổng thao trường rộng mở

Cả hai đoàn cầu thủ bước ra sân

Tiếng hoan hô vang dội khắp xa gần

Để cổ vũ cho trận cầu quốc tế

Đoàn tuyển thủ nước nhà tuy nhỏ bé

Vẫn xông pha tranh bóng khắp cầu trường

Thủ môn khách cũng nhiều pha vất vả

Bốn khán đài hò reo như sấm dậy

Thủng lưới rồi, đội khách dẫn 1-0

Chí không nản, cầu thủ nhà dấn bước

Rê dắt bóng về cầu môn đối diện

Dù đuối sức quyết cân bằng tỷ số

Đem niềm vui đến toàn thể đồng bào.

Thời gian thấm thoắt trôi, thế hệ chúng tôi được ươm mầm, dạy dỗ trong một nền giáo dục thật sự vì tri thức, thuận tự nhiên, không khiên cưỡng. Trong đó môn công dân giáo dục là một môn khá quan trọng, chính nó kết hợp với nền tảng gia đình đã hình thành nên tính cách của từng học sinh thế hệ chúng tôi, rèn luyện mỗi học sinh thành một người tử tế, có hành xử nhân văn, một công dân tốt của quốc gia trong tương lai.

Ở trường học, thầy cô, giám thị giám sát chặt, rèn dũa mỗi ngày. Dặn dò nơi đám đông đừng nên cà rà. Không tụ tập bát nháo ồn ào. Việc đi đứng (như đi phải nhấc chân không được kéo lê giày dép), chào hỏi, ăn nói nơi công cộng chúng tôi đều được dạy bảo cẩn thận từ trong gia đình trước khi bước ra khỏi nhà.

Ở gia đình thì ông bà, cha mẹ luôn nhắc nhở cháu con tránh xa những suy nghĩ bất lương, bỉ ổi, những toan tính hèn hạ, lưu manh phải tránh xa không được nghĩ đến dù nó có đem lại hiệu quả nhất thời, nhưng hậu quả là khôn lường được, đừng nghĩ như vậy là hay là thành công.

Một triết gia đã nói: ‘‘Giáo dục là khởi nguồn của mọi điều, là gốc rễ sự hưng thịnh của một quốc gia, là nền móng của mọi sự phát triển, ở bất kỳ một quốc gia hay một xã hội nào, bất kỳ người nào cũng có thể trở nên xấu xa tuy nhiên có ba loại người không được trở nên xấu xa, đó là: giáo viên, bác sỹ và thẩm phán. Giáo viên trở nên xấu xa sẽ khiến các thế hệ học trò lầm lỡ. Bác sĩ trở nên xấu xa sẽ coi mạng người như cỏ rác. Thẩm phán xấu xa sẽ làm mất đi sự công bằng của pháp luật. Nếu ba kiểu người này trở nên xấu xa, xã hội sẽ đảo lộn, đạo đức luân thường về cơ bản là chẳng còn’’.

Đọc, suy ngẫm phát biểu trên cho thấy có lẽ nền giáo dục xưa đã thực hiện đúng con đường phải đi, phải nghiêm túc, thực tế, thuận tự nhiên, không có những giáo điều, ý thức hệ cũ rích vô bổ, từ đó sản sinh ra những con người hữu ích cho xã hội.

Đối với thế hệ chúng tôi thời ấy, Người Thầy (Cô) luôn được trân trọng, là tấm gương của học sinh, thầy giáo là một nghề cao quý. Bác sỹ là một nghề được trọng vọng mà học sinh cũng như phụ huynh luôn hướng đến vì có chức trách cứu người. Thẩm phán, có lẽ rất ít người nghĩ sẽ đảm đương công việc cao quý là giữ sự công bằng của pháp luật.

Vài dòng ghi vội để ngậm ngùi, để nhớ một thời xưa ấy./.

Nguyễn Đắc Thịnh, Sài Gòn, ngày 05 tháng 8 năm 2021