Sunday, October 20, 2024

Người Đứng Lại Chiều Thôi Đi - Thuyên Huy

 Người Đứng Lại Chiều Thôi Đi




Tội Tình - Thuyên Huy

 

Tội Tình

Viết cho chị, hơn phân nửa đời người ở đợ nơi quê xưa, đã không còn trên đời này

 

    Vào Đệ Thất, anh lên tỉnh trọ học, nhà nghèo, ở tận một xã xa dưới quê, ba mẹ làm ruộng mướn, không quen biết ai, cũng may, hôm xuống dưới quận tính chuyện trả tiền trả lúa cho chủ, gặp một ông bác cũng tới trả nợ, người bên xã trong, hỏi han hoàn cảnh nhau, bác có người cháu bà con, đang học lớp Đệ Tứ trên đó, bác chỉ chỗ anh này ở, nhờ vậy, mừng quá, mừng đến nổi ba anh cứ run run cầm tay bác cám ơn không biết bao nhiêu lần. Trước ngày khai trường mấy ngày, hai cha con đón xe đò thật sớm lên tỉnh, chỗ ông bác chỉ cũng dễ tìm, ngay mặt đường lộ, đi bộ tới trường trung học chừng hơn hai ba trăm thước.

*

    Nhà trọ, chỗ anh ở, một căn nhà lợp tôn, tường ván còn tốt, khang trang, nằm cách lề bởi cái mương dài chạy dọc theo đường, có khoảng sân đất cát trắng, phía sau là khu vườn cây vú sữa, bao quanh cái nhà ngói lớn, mái âm dương, bề thế của bà Bảy Hiền, tuổi già, sống một mình, tu tại gia, cất cho đám học trò quê xa lên ở trọ nhiều năm rồi, không lấy tiền, hết lớp này tới lớp kia. Trong nhà, có bốn người, người nào cũng học trên nhiều lớp, có anh sắp thi Tú Tài Một năm này, anh là thằng nhỏ nhỏ nhất, nhà có điện hẳn hoi, sáng hơn cây đèn dầu leo lét dưới nhà quê , thấy thương anh một mình, tội nghiệp, mấy anh lớn an ủi, vỗ về chút chút vậy thôi, chứ không biết làm gì hơn, họ cũng nghèo, cơm bữa chao bữa tương, dưa leo dưa chuột, chia nhau miếng khô miếng tép, ba mẹ anh cũng lên thăm, đón về năm ba lần, chắt chiu mang lên mớ cá mớ tôm kho quẹt, anh em chia nhau, rồi dần dà quen, thứ bảy chủ nhật, anh theo mấy anh lớn, đón xe về nhà, may mà cả đám đều cùng một đường dưới đó, chỉ khác là người xuống trước xuống sau nên anh không còn lo còn sợ nữa.




    Chị ba Thắm, người ở cho bà Bảy Hiền, chắc cũng hai mươi, dễ thương, vui tính, chị hiền lắm, ăn nói nhỏ nhẹ, mỗi sáng đi chợ, ngang qua sân nhà, thấy anh đứng loanh quanh chờ tới trường, đều tới hỏi đủ chuyện, từ chuyện nhớ nhà, chuyện đi học tới chuyện ăn uống, một hai ân cần dặn, nếu cần gì thì vào nhà trong kêu chị, chị giúp cho, cứ hai ba bữa, chiều chờ mấy anh em đi học về, chị mang ra cho thêm mấy cái hột vịt, hủ chao hủ tương, cải chua dưa muối, đôi khi cái bánh, miếng kẹo. Riết rồi thân, rồi mến, thấy anh nhỏ, trọ học xa nhà tội nghiệp, chị giặt cả quần áo cho luôn, chiều chiều anh vào nhà trong, hai chị em ngồi bên nhau, cười đùa luôn miệng, cứ vậy mà về nghỉ hè bải trường, xa chị, nhiều lần  nhớ anh khóc.

    Mấy anh lớn ở nhà trọ, những năm sau lần lượt bỏ đi thì hai ba anh khác đến, căn nhà vẫn vậy, anh lên lớp, anh lớn hơn nhưng chị Thắm cứ lo cho  y hệt như ngày mới lên tỉnh học, anh thương chị không ít, cũng phải vì thiếu tình thương người chị. Cuối năm Đệ Tứ, nghe lời ba mẹ, anh chuyển về dưới trường trung học quận mới mở hơn một năm nay, gần nhà, đi về cũng tiện, ông bà đở lo tiền nong gạo thóc.

*

    Hôm từ giã chị Thắm, cũng là ngày cuối năm học, vào Hè, bải trường, buổi sáng hai chị em dắt nhau ra chợ tỉnh, chị đãi anh ăn một bữa hủ tiếu tôm thịt, ly chè sâm bổ lượng đầy ém, dặn nhớ ráng học, “khi nào rảnh lên thăm chị nếu còn nhớ”. Buổi trưa, chị ra đứng bên đường, chờ xe đưa anh đi, cho anh gói quà, bộ đồng phục nam sinh, quần xanh dương áo trắng, chị may vài tháng trước, định để dành tặng anh năm tới, anh cầm mà rươm rướm nước mắt, xe tới, anh lên xe nhìn xuống, đứng dưới ngó lên vẫy tay, chị che mặt khóc.

    Mấy năm sau, cảnh nhà ngày thêm chật vật, ba anh già yếu, mẹ anh cũng không khá hơn, sức người mòi mỏn chuyện cày sâu cuốc bẩm, đi học thì thôi, về nhà anh cũng dầm mưa dãi nắng, theo ông ra ruộng ra sông, cắm câu giăng lưới, bất kể ngày nghỉ ngày hè, nhiều lần muốn lên tỉnh, hẹn lần hẹn lựa  nhưng vẫn chưa được dù cho có muốn lắm, anh nhớ nhưng chưa lần nào trở lại tỉnh từ dạo đó.

*

   Từ căn cứ Đồng Tâm, sau khi xuống thăm người bạn Hải quân về, trời còn sớm, nắng rưng rức nóng, từ mấy cánh đồng trơ xác rạ xa cuối làng đứng gió, tới ngã ba Trung Lương, chỗ sạp quán, người bán người buôn đủ loại trái cây dọc hai bên, thì xe đò xe hàng nối đuôi, kẹt cứng ngay ngả đường vào Mỹ Tho, mấy chị, mấy bà bán hàng từ phía đầu trên chạy xuống, hớt hơ hớt hãi la lớn “xe đụng chết người”, cả khu nhốn nháo chỉ chỏ nói qua nói lại, chật cứng trên đường, tấp xe vào đậu phía sau, người tài xế ngồi yên, lấy thuốc ra hút, anh bỏ xuống, len vào đám đông tới phía trước, chỗ xảy ra tai nạn.




    Một chị bán hàng xem ra rành chuyện, cho biết, người bị xe đụng là chị có sạp bán mận, bán chôm chôm gần bên sạp mình, chưa có chồng, lúc vội chạy theo chiếc xe đò lớn về Mỹ Tho, đưa túi đụng mấy ký mận cho người khách ngồi trên xe chờ, bên kia lề, lấy tiền, xong lẹ băng qua đường lại, không nhìn trước nhìn sau, chiếc xe đò nhỏ cũng về hướng Mỹ Tho, chạy giành đám đông khách đứng chờ phía trên xa, phóng vụt vượt qua bên hông, thắng không kịp, đụng chị ngã sấp xuống, máu me tùm lum, may nhờ có mấy người lính chạy  Honda về dưới tỉnh, gọi xe cứu thương giùm, đang chờ họ lên, bạn hàng không biết làm gì, đứng chung quanh nhìn, than trời trách đất, không dám động đậy.

   Tới nơi, chiếc xe đò loại nhỏ đậu chắn ngang giữa đường, anh chen đám đông bu quanh, đi lên xem thử, anh chết trân, nghẹn ngào, ngồi quỵ xuống “trời ơi, chị Thắm, chị Thắm ơi”, trên vũng máu đọng tím bầm, chưa khô, chị nằm cong queo, mắt nhắm nghiền, thân người không động đậy, xe cứu thương, xe cảnh sát từ Mỹ Tho lên tới, nhận ra anh, họ vội vàng chào, anh nói với họ gì đó, họ gật đầu đứng chờ, hai người y tá khiêng chị lên xe, anh lên theo. Hụ còi lớn, xe cứu thương vụt chạy đi, anh ngồi bên cạnh, cầm tay chị, nước mắt lăn dài trên má.

*

    Chừng hơn hai năm, sau ngày anh về dưới trường quận, bà Bảy Hiền mất, người cháu bà con trên Đà Lạt về lo đám tang, họ đem hỏa thiêu rồi mang tro cốt vào gởi trong cái chùa cỗ xưa ngoài xa ngoại ô tỉnh, họ bàn và chị Thắm, phận người ăn người ở, không muốn cũng phải chịu, họ bán căn nhà ngói và cái nhà tôn ngoài đường mà bà cho đám học trò ở trọ. Chị rời tỉnh về lại quê cũ, gần Long Định, cũng như chị đám học trò tản mác, lo thân đi ở đâu đó. Với chị, hôm bỏ tỉnh đi, đã không còn nghĩ tới chuyện gặp lại anh như lời chị dặn “lên thăm chị nếu còn nhớ” trong buổi sáng ngày đó đưa anh đi bên lề đường.

    Về Long Định, với số tiền dành dụm từ những năm ở với bà Bảy Hiền, nghe lời người dì họ, cũng già lắm rồi, chị sang lại cái sạp nhỏ bán trái cây trên ngã ba Trung Lương, mới đầu chưa quen nhưng dần dà khá hơn, khách qua đường, khách đi xe lên xuống tới mua cũng khá đông, chị vui mà quên chuyện cũ, chuyện vui buồn của kiếp đời ở đợ. Người bán hàng chung quanh, kế bên đều thương đều mến vì chị ăn nói nhỏ nhẹ, nhường khách nhường phần, tiếp tay sạp hàng kế bên, túi nhẹ túi nặng, ngay cả mấy anh tài xế, lơ xe đò đều ngắm nghía, chọc ghẹo luôn miệng, chị cười trừ, dù chị không còn trẻ nữa.




    Từ đó, chị kiếm đươc đồng vô đồng ra, nhà hai dì cháu giờ có thêm cái bàn cái ghế, cái chén cái nồi, người quen trong ấp, bạn hàng ngoài Trung Lương, tỏ ý gợi chuyện muốn làm mai cho người quen, con cháu nhưng chị vui vẻ từ chối, cứ bảo là để thủng thẳng rồi tính. Ngày qua tháng lại, chị vẫn bương chải một mình, ngày hai buổi đi về Long Định, không buồn không tiếc gì hết nhưng không ai biết là chị cũng đã có một lần thương, trong những ngày còn ở với bà Bảy Hiền, chỉ một lần thương mà không trọn vì thân phận “con ở đợ”.

*

    Chắc cũng hơn tám chín năm, không gặp lại từ ngày anh về học trường quận nhưng vẫn còn nhớ rõ như in gương mặt của chị Thắm, giờ ngồi nhìn không khác nhiều hơn trước, hôm theo xe cứu thương chở chị về bênh viện Mỹ Tho, anh ở bên cạnh, đi qua đi lại, phụ mấy chị y tá lấy ống chích cây kim, giữ kéo dây chuyền nước biển, chị vẫn nằm bất động, máu đọng bên khóe miệng đã đặc khô cứng màu bầm, miệng thầm gọi “chị ơi, chị ơi”, ở lại đó cho tới giờ đổi ca trực đêm, giữa khuya, chị y tá sau cùng, quen biết anh, kéo lại tấm vải đắp trên mình chị Thắm, xếp mấy thứ lặt vặt trên cái bàn kê ở đầu giường bệnh, ra ngoài đứng chờ, anh đi tới, cúi xuống gần nhìn mặt chị thì thầm “chị ơi chị ơi”, mắt chị vẫn nhắm nghiền, rồi bước ra theo, chị y tá nhẹ tay khép cửa, gật đầu chào, lặng thinh bỏ đi, anh nấn ná ở lại đôi phút, hành lang bệnh viện vắng tanh, không bóng người, rồi cũng bỏ đi, dưới ánh đèn vàng mù mờ trong phòng bệnh, giọt từng giọt vẫn đếm từng cái một rớt xuống trong cái chai nước biển treo ngay đầu giường.

*

     Sáng sớm, mặt trời chưa hé, sương mù mờ, chập chờn cả đêm không ngủ, cứ nhớ ray nhớ rứt những năm đầu học trường tỉnh, nhớ căn nhà tôn trên cái sân cát rộng sát bên đường lộ, nhớ nụ cười nhớ lời dặn dò của chị, nhớ quay quắt, nhất là lời chị nhắc “lên thăm chị nếu còn nhớ”, nhớ mà muốn khóc, anh lái xe chạy một mạch tới bệnh viện, người cảnh sát gát đêm trên đường về, mệt mỏi nhưng cũng dừng lại, đứng bên lề, vẫy tay chào, anh hững hờ cười chào lại.

    Bỏ xe đậu đại đâu đó trong sân dãy phòng bệnh, đi vội đi vàng về hướng cuối hành lang chỗ chị Thắm chưa được nửa đường, anh giựt thót người, hớt hãi, một nhóm nhiều chị y tá đứng trước cửa phòng mặt mài buồn xo, nhìn vào, nói qua nói lại gì đó, anh chạy nhanh tới, chị y tá quen anh, người rời phòng bệnh cuối cùng đêm qua cũng vừa bước ra, nhìn anh rồi nhìn vào trong, anh nhìn theo, trên giường tấm khăn trắng phủ toàn thân người chị Thắm, không chừa đầu như hôm qua, chai nước biển cũng đã gở xuống, đèn trong phòng mù mờ như cái mù mờ như vậy từ chiều qua, chị chờ anh quay ra, thở dài “chị đã mất chừng nửa giờ trước đây”.

*

   Anh đẩy cửa vào, mấy chị y tá tránh qua một bên, họ nói nhau gì đó rồi lẳng lặng bỏ đi, một mình người chị quen anh, ở lại bên ngoài, kiên nhẩn chờ như đã chờ anh để khép cửa hồi khuya đêm qua, anh cúi xuống, tay run run kéo tấm vải phủ xuống khỏi đầu, mặt chị đã đổi màu, nhưng vẫn là gương mặt đó, gương mặt của những buổi chiều, hai chị em ngồi nói chuyện với nhau, trước mái hiên căn nhà ngói mái âm dương  bà bác Bảy Hiền của hơn tám năm trước, đầm đìa nước mắt.

    Lảo đảo quỵ người xuống, đưa tay vuốt mặt chị trước khi kéo tấm vải lên khỏi đầu, trời bắt đầu có chút nắng sáng, bên ngoài trước phòng, mấy chị y tá hồi nảy trở lại, có đẩy thêm chiếc băng ca, anh thẩn thờ nói nhỏ “vĩnh biệt chị của tôi”, rồi ôm đầu nức nở khóc.

 

Thuyên Huy

Cũng là những ngày đầu đông 2020

 

   

 

Nước Chảy Chân Cầu - Hồ Dzếnh

 Nước Chảy Chân Cầu




Cà Phê Nước Phèn & Cà Phê Ngó - Phạm Công Luận

 

CÀ PHÊ NƯỚC PHÈN VÀ CÀ PHÊ NGÓ

Cà phê không chỉ là thức uống mà còn là thói quen, là thú vui, là đam mê, là phương tiện giao tiếp, là phong cách sống, ít ra ở Sài Gòn là như vậy từ trăm năm qua.

Người Sài Gòn ngày xưa sáng mở mắt ra là muốn đến “tiệm nước”, sau gọi là quán cà phê – không quan trọng là quán cóc vỉa hè hay quán lịch sự trong nhà. Góc nhìn về cà phê mỗi người mỗi khác. Khác với người cố cựu ở Sài Gòn, những người gốc Bắc chứng kiến sự thay đổi của gia đình và chính mình trong việc thưởng thức thú vui này. Họ ở tuổi hơn 60, đủ từng trải để nhìn lại.

Từ cà phê vợt đến cà phê nước phèn

Người miền Bắc vào, nhất là những gia đình không phải ở Hà Nội thường xem nước trà, mà họ gọi nước chè, mới là thức uống căn bản. Gia đình anh Lương Tấn Thành, giáo viên dạy toán một trường quốc tế ở Kuala Lumpur cho biết tuy ba mẹ anh vào Sài Gòn từ 1930 để mở tiệm may nhưng vẫn thích nước trà hoặc nước vối pha trong ấm ủ cho nóng để uống dần.

Tuy nhiên, trên đất Sài Gòn, thức uống cà phê đã len lỏi vào cuộc sống gia đình anh từ hồi nào không hay, lấn át cả nước trà (chỉ còn ba mẹ anh thích uống). Một phần là nhà có nuôi một số thợ may, họ thích uống cà phê hơn trà. Mẹ anh thấy vậy, lấy vải vụn may vài cái túi rồi mắc vô vòng kẽm, làm vợt cà phê. Buổi sáng, chú Đãi (là thợ may sống trong nhà) dùng vợt lược cà phê vào ly cho riêng mình, rồi thêm sữa đặc có đường để uống. Sau đó chú rót cà phê vào siêu gốm để những người lớn trong tiệm may uống dần. Mẹ anh mua cà phê rang xay sẵn ở tiệm J.Martin nằm trên đường Hai Bà Trưng.

Công việc may mặc khá bận rộn, nhất là dịp cuối năm khách cần quần áo diện Noel hay Tết tây, Tết ta. Có nhiều ngày thợ làm không nghỉ trưa và thức khuya để làm. Để chống cơn buồn ngủ, cả đàn ông và phụ nữ trong nhà đều phải uống cà phê. Nên không chắc họ có ý “thưởng thức” cà phê như thời bây giờ.

Ý nghĩa của thức uống cà phê như vậy nên trước 1975, trong cộng đồng người Bắc với nhau ít khi dùng cà phê làm quà tặng dịp lễ tết, mà là các loại bánh mứt, hoặc trà sen, mua ở tiệm Bảo Hiên Rồng Vàng trên đường Gia Long. Cà phê lúc đó dùng để uống, không phải để tặng.

Anh Thành nhớ khi mới ra trường đi làm cách nay gần bốn mươi năm, đang thời bao cấp cực khổ. Anh ít uống cà phê vì không có tiền và cũng vì không quá mê thức uống này, có lẽ ảnh hưởng từ bố mẹ. Gần nhà anh có quán cà phê Givral, Brodard, La Pagode đã quá nổi tiếng và trở thành dấu ấn của Sài Gòn xưa nhưng anh chưa bao giờ đặt chân đến. Lần đầu anh vào cà phê Givral là năm 2013, nhưng quán không còn giữ được phong cách ngày xưa nữa.

 


Anh vẫn nhớ vài ngày sau năm 1975 khi chiến tranh kết thúc, các đường chính ở Sài Gòn, đặc biệt là đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) mọc lên nhiều quán cà phê dã chiến, che chắn tạm bợ. Ấn tượng nhất là dãy quán cóc dựng san sát trên lề đường Đồng Khởi ngay trước công viên Chi Lăng, thanh niên Sài Gòn với phong cách hippy tụ tập ở những quán này để nghe ngóng xem nên sống sao đây trong tình hình mới hay tìm đường ra nước ngoài. Một trong những quán đó do cầu thủ Cù Sinh làm “chủ”. Vì có “máu ghiền” đá banh nên anh và đám bạn con nít thường tới nhìn lén thần tượng bóng đá này.

Lúc sang học ở Pháp, xứ sở của nhiều quán cà phê nổi tiếng, khi anh đã thích uống cà phê thì giá ở đó lại đắt, chỉ có thể uống ké các bạn trong lớp mang từ Việt Nam sang. Hiện nay, đang dạy học ở một trường quốc tế Malaysia, anh cũng chỉ uống cà phê “chợ” Nestle dạng bột pha sẵn nhằm mục đích giữ tỉnh táo. Vài năm trước, một ngày anh uống 6-7 ly do áp lực công việc, nay chỉ còn 1-2 ly vì sợ ảnh hưởng sức khỏe.

Dù không hoàn toàn theo “đạo cà phê”, anh cũng có kỷ niệm đáng nhớ về nó. Năm 1985, cả lớp sư phạm của anh đi lao động ở Tân Uyên (Sông Bé). Vùng này dùng nước giếng có mùi phèn và đục ngầu, cả lớp phải hùn tiền mua nước sạch – nước phông tên – để ưu tiên cho nữ sinh dùng. Do nước nôi như vậy, dân địa phương đem nấu sôi rồi pha cà phê để át mùi và át màu. Cà phê đựng trong ấm nhôm lớn để uống dần. Học sinh, sinh viên khi xin nước uống mới “tá hỏa” vì cà phê rất đậm, uống xong tim đập mạnh và khó ngủ. Bài học kinh nghiệm ở đây là cà phê nguyên chất không tẩm ướp hương liệu thì chỉ có vị đắng, rất khó uống, có thể gây say. Liệu đây có phải là “thú” uống cà phê không hay chỉ là “thú đau thương” trong hoàn cảnh nghiệt ngã của thời gian khó?

La cà với cà phê cả thời tuổi trẻ

Anh Hoàng Anh Tuấn, sinh năm 1958 sống ở Úc từ 1980, gia đình di cư vào Sài Gòn từ năm 1954. Ra nước ngoài từ sớm, anh vẫn có nhiều kỷ niệm với cà phê. Phải kể những lần “window shopping” – cà phê “ngó”, đứng dưới lề đường ngó lên lầu kính Brodard góc đường Tự Do, ngó vào quán La Pagode, quán của khách sạn Continental, quán cà phê Eden cạnh rạp Eden.

Kế đến là những lần theo bạn bè vào các quán cóc trên đường từ nhà đến trường: từ đường Trương Minh Giảng (nay là Trần Quốc Thảo) qua Yên Đỗ (Lý Chính Thắng), quẹo Hai Bà Trưng, ngoặt lên Trần Quang Khải, qua cầu Xa lộ, đổi sang Phạm Đăng Hưng vào quận Nhất, đến Trường Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, nơi có những quán cà phê dọc Tự Đức (Nguyễn Văn Thủ), Đinh Tiên Hoàng, Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu)…


Ký ức về những quán cóc, ghế đẩu tương đối giống nhau, gần gũi nhất với đám học trò kỹ thuật là quán cóc trên đường Phan Đình Phùng, gần cổng vào Sở Thiết kế Đô thị, trông qua bên kia đường là ngõ vào tư dinh ông Chung Tấn Cang, Đề đốc Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Hoặc, sang hơn, đi ăn kem và uống cà phê với các bạn gái ở quán cà phê Văn Hoa, sát bên trái rạp Văn Hoa Đa Kao trên đường Trần Quang Khải, gần cầu Bông.

Cũng có lần, sau khi thi lên đai, đám bạn bè võ sinh của anh theo các thầy Vovinam như thầy Danh, thầy Quyền (không có thầy Phó Chưởng môn Trần Huy Phong vì thầy nghiêm vô cùng) quá bộ sang uống thứ nước nâu này, nghe Khánh Ly và Elvis Phương hát nhạc Trịnh Công Sơn ở hội quán Cây Tre đối diện võ đường Hoa Lư, cùng nằm trong khuôn viên Trung tâm CPS. Trung tâm sinh hoạt thanh niên này được USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ) tài trợ xây dựng sát bên sân vận động Hoa Lư, nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng nơi có những hàng me và phượng vĩ cao vút, bóng mát đổ dài xuống Đại học Dược khoa và Văn khoa. Quay trở lại khúc Đinh Tiên Hoàng và sân Hoa Lư, gần đó là quán cà phê Duyên Anh (hình như có thời tên là quán Nhà Tôi cũng của nhà văn Duyên Anh, lấy tên tác phẩm vui nhộn ông viết về bà xã là chị Phượng).

La cà ở các quán cà phê Sài Gòn, thỉnh thoảng anh gặp các tên tuổi thời đó như giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc Dương Thiệu Tước, ba anh em giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Ngọc Phách. Có khi là ông Nguyễn Hiến Lê, ông hề Thanh Việt, ông hề Phi Thoàn – thỉnh thoảng ra quán Phở Quyền ăn sáng uống cà phê trên đường Võ Tánh – Phú Nhuận. Trong tất cả các nhân vật nổi tiếng ấy, chỉ có mấy ông hề là được đám trẻ con nhận diện, hò la chạy theo chào.

Anh Tuấn nhớ có lần uống cà phê và tập hút thuốc điếu trong cái quán cóc gần trường Nguyễn Trường Tộ (số 55 bis Tự Đức, quận 1). Anh hút thử một hơi điếu Caravel Con mèo, ho gắt cổ phải giải ho bằng… cà phê. Cảm giác tê mê khắp mười đầu ngón tay quả thật không “tuyệt cú mèo” tí nào như nhà văn Duyên Anh tả trong nhiều truyện thơ mộng hóa thế giới du đãng Sài Gòn thời đó.

 


Có điều lạ là khi nhắc đến cà phê, luôn làm dậy lên một cảm xúc, hay một kỷ niệm nào đó của thời tuổi trẻ, một thời yêu đương, một thời khắc khoải tìm hướng đi cho cuộc đời. Qua tuổi sáu mươi, cà phê lại giúp người thưởng thức nó giữ được sự bình yên trong tâm hồn, làn khói nhẹ từ ly cà phê nóng tỏa ra là lớp màn sương giúp chúng ta kết nối với người thân yêu trước mặt và ngăn cách với những bụi bặm cuộc đời.

Phạm Công Luận

Nguồn: Người Đô Thị

 

 

Thursday, October 17, 2024

Đoản Khúc Tình Thu - Nguyễn Cang

 ĐOẢN KHÚC TÌNH THU

                    (ngũ độ thanh)













Đêm tàn giá lạnh những vì sao

Lặng lẽ người đi khoảng cách nào

Tóc xõa vai gầy thơm dạ thảo

Mày cong mũi thẳng đẹp dường bao

Vầng trăng trước cổng treo lờ lững

Bão biển trong lòng gợi xuyến xao

 Lệ đổ dần phai đời bất hạnh

 Thân nầy rã rượi biết làm sao

                       

 Thân nầy rã rượi biết làm sao

 Lãng mạn rừng thu sắc đổi màu

 Nhớ cảnh hoa tàn chan lệ đẫm

 Thương người lỡ vận thấm niềm đau

 Tình sâu đổ vỡ nào ai biết

 Vận rũi an bày hỏi thế nao

 Quận Chúa Huyền Trân tình vĩnh cửu

 Chung Trần* khổ lụy mãi nghìn sau !

              

 Nguyễn Cang (Oct, 10, 2024)

 Chung Trần*: Trần Khắc Chung (陳克終, 1247 – 1330), một danh tướng đời Trần, bị nghi vấn có tình cảm với Huyền Trân khi giải cứu nàng khỏi đất Chiêm Thành lúc vua Chiêm băng hà.

 

              

 

Đêm Vô Tận & Tình Đầu Tình Cuối - Nguyễn Thị Châu

 ĐÊM VÔ TẬN

 













Đêm khuya canh vắng một mình

Trở trăn, trăn trở chỉ mình với ta

Chợt buồn, chợt nhớ người xa

Canh thâu, vắng lặng lòng da diết buồn

Đêm nằm nghe giọt lệ tuôn

Khóc đời cô phụ trên đường lẻ loi

Sao không đi hết cuộc đời?

Bỏ tôi ở lại, đầy vơi lệ nhoà

Cuộc đời tuy lắm phong ba

Bão giông có bạn có ta vững lòng

Bây giờ cuộc sống long đong

Đêm đêm chỉ có Thạch Sùng ủi an

Tiếng gà đầu xóm vang vang

Nhắc ta nhớ đến thời gian tới gần

Đêm khuya, sáng, tối, dần dần

Kẻ đi, người ở một lần mà thôi…!!!

 

 16-10-2024

  Nguyễn thị Châu

 

TÌNH ĐẦU TÌNH CUỐI

 

Thu qua Đông lại trở về

Heo may se lạnh, não nề nhớ ai?

Nhớ về thuở nắm bàn tay

Rụt rè, e thẹn em quay sang nhìn

Tóc em bối rối lung linh

Má em ửng đỏ, hoa tình lên môi

Kể từ hôm ấy thành đôi

Không còn len lén nhìn đôi môi hồng

Đôi ta ấm áp tình nồng

Dạo chung từng bước phố hồng nở hoa

Những ngày hạnh phúc đã qua

Anh đi để lại, người tha thiết buồn

Chiến tranh chia cách lệ tuôn

Anh tôi nằm xuống, gió sương lạnh lùng

Mỗi chiều lại nhớ mong lung

Nhớ bàn tay nắm cùng chung bước đường

Bây giờ sao lại vấn vương

Người đi, đi mãi con đường thiên thu

Chợt nhìn chiếc lá đu đưa

Cứ rơi, rơi mãi, lưa thưa, héo tàn…!!!

 

16-10-2024

Nguyễn thị Châu

 

Thăm Lại Trường Xưa - Vườn Thơ Mới Xướng Họa

 THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 156_VƯỜN THƠ MỚI

 

Xướng:

Thăm lại trường xưa




 











Hôm nay trở lại viếng trường xưa

Lối cũ quanh co mất dấu ưa

Hoa phượng cành nho đang nở rộ

Tường vôi mái ngói đã hoang sơ

Thương màu áo trắng tung tăng giỡn

Nhớ mảnh vai gầy yểu điệu đưa

Cổng khép im lìm treo bảng hiệu

Thầy cô bạn hữu bóng xa mờ!

 

Nguyễn Cang

Oct. 01, 2024

 

Họa 1:

 

Nhớ trường xưa

 

Nhớ mãi trường quê một thuở xưa,
Chứa chan kỷ niệm suốt đời ưa,
Thương sân ngập nước cơn mưa lớn,
Yêu tiếng ráp vần buổi học sơ.
Nắng giọi trưa hè ve rả rích,
Gió lay cành phượng bóng đong đưa.
Đêm đêm hồn mộng về nơi ấy,
Ký ức bao năm vẫn chẳng mờ.

 

Minh Tâm

 

Họa 2:

 

Trường xưa bạn cũ.

 

Mấy chục năm rồi biệt chốn xưa,

Thăm ngôi trường cũ thấy mà ưa,

Sân trong gốc phượng hoa rơi ngập,

Cửa trước đường mòn sỏi phủ sơ

Những mái tóc huyền bờ vai thả,

Đôi tà áo trắng gót hài đưa.

Tan hàng tản mát đi trăm nẻo,

Cảnh đấy người đâu mắt lệ mờ.

 

Mỹ Ngọc.

Nov. 1, 2024.

 

Họa 3:

 

Ngoại  tôi

 

Ngồi nghe ngoại kể chuyện đời xưa

Chăm chú say mê quá đỗi ưa

Thích thú  đoạn nào con khoái trá

Cho dù cốt truyện thật đơn sơ

Ngoại đi xa thẳm, ai đùa giỡn

Con thẫn thờ ngồi, ngóng gió đưa

Bài học ngụ ngôn còn hữu hiệu

Bóng hình của Ngoại chẳng phai mờ

 

THT

 

Họa 4:

 

Trường xưa

 

Nhớ đến ngôi trường của thuở xưa

Đồng không mong quạnh chẳng ai ưa

Học trò nhẫn nại theo ngày tháng

Ký ức mơ hồ buổi tối sơ

Về lại nơi này sao chạnh nhớ

Cuộc đời trầm bổng tựa đu đưa

Thời gian đi mãi không quay ngược

Hình ảnh trên sân khó xóa mờ

 

PTL

Oct. 2024

tối sơ 最初: ban đầu

 

Họa 5:

 

Trường Xưa



Trở lại ngôi trường một thuở xưa

Con đường ngày ấy đã quen ưa

Không gian thay đổi buồn da diết

Tiếc nuối thời gian buổi gặp sơ

Thầm kín thơ ngây đầy quyến luyến

Mơ hồ sâu lắng mãi đong đưa

Tiếc thay kỷ niệm thời niên thiếu

Thoáng chốc trôi nhanh đã nhạt mờ 

 

Hương Lệ Oanh VA

 

Họa 6:

 

Cảnh cũ người xưa   

 

Trở lại quê nhà nhớ dấu xưa

Nhìn quanh lối cũ thấy càng ưa

Bến ngang rộn rã giăng hoa cưới

Thuyền dọc lững lờ ánh nguyệt sơ

Người đã bao lâu về chốn ấy

Cảnh còn đậm nét luyến ngày đưa

Mùa hè cuối cấp anh xa xứ

Em cũng lên xe. Kỷ niệm mờ?

 

TQ