Thương Sầu Vọng
Tuesday, July 23, 2024
Có Khi Lòng Ta - Rêu
CÓ KHI LÒNG TA
Có khi lòng buồn như giòng sông
Trôi lang
thang theo những nhánh rong
Bập bềnh trên
nước không hạn định
Cùng những
xuyến xao thả xuôi dòng
Có khi lòng mềm như trời không
Mây bâng
khuâng năm sắc cầu vồng
Bềnh bồng
trên phiến đời hoang vắng
Thương nhớ ơ
hờ cõi mênh mông
Có khi lòng hiền như ánh trăng
Đêm sâu bàng
bạc, giọt thuỷ ngân
Long lanh mặt
nước ngàn ánh bạc
Ta khóc niềm
riêng, trăng vỡ tan
Có khi lòng chùng nghe thương thân
Đời yêu hạnh
ngộ được mấy lần
Hò hẹn, yêu
đương rồi tiễn biệt
Tình động,
bước đi không than van
Có khi lòng mềm như cơn mưa
Dạt dào mờ
trắng lối tình xưa
Dang tay…
nghe nước là thác đổ
Hỡi những
ngày xưa, có tình cờ..
Và có khi lòng như chim quyên
Hoài yêu
người … ngoan giấc cô miên
Dùm ta giữ
chút hương tình nhé
Một chút rồi
thôi, chẳng muộn phiền.
Rêu
Nguồn :Tương Tri
Vạn Giã Mưa Núi - Trần Công Khanh
VẠN GIÃ
MƯA NÚI
Mùa bắp đầu đời, đầu tiên, đầu
tay mà tôi vừa học vừa tập trồng là mùa bắp năm 1976. Nỗi nhớ đọng lại, gắn
liền với đoạn ca mà thằng em ruột, đã cỡi hạc, lảm nhảm suốt con đường leo núi
hái củi: “Lội bùn nhơ băng lau lách xuyên đêm. Sương trắng rơi vai tôi ướt
lạnh mềm. Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu. Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau…”
Trần Công Khanh
Nó ca bản Sương trắng miền quê ngoại này suốt lúc băng rừng
vượt suối đi hái củi khi rẫy nhàn – mới trỉa bắp. Mùa bắp ấy khởi đầu từ cơn
mưa tháng bảy âm lịch. Đất ướt, đủ để trỉa bắp và nuôi bắp con. Mùa hè năm
trước – năm 1975, tôi vừa hoàn thành năm thứ nhất Đại học Cộng đồng (college)
Duyên Hải, ban Sư phạm, ngành Pháp văn. Cuối hè 1975, trở lại trường không thấy
tên mình đâu. Biết là số phận của thằng con một sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng
Hoà.
*
* *
Ngẫm lại đời mình, số mạng không
cho học cái gì tới nơi tới bến. Học trường dòng thì ngày 19.3.1973 bị đuổi khỏi
trường vì tội làm báo học trò và in nhạc phản chiến chui. Học đại học mới năm
thứ nhất, sau 1975, bị đuổi. Rồi học đại học lại lần hai, hết năm thứ tư tới
1997 bị cấm thi. Hồi đó, tôi đóng tiền đi học chớ không theo ân sủng từ hệ công
lập nhà nước ban xuống; nhưng cấm thi mà không có lấy một cái thông báo chánh
thức gởi cho đương sự. Đó là tà trị chớ chánh trị gì!
Từ đấy tôi “bị” ở lại quê nhà
Vạn Giã. Nói Vạn Giã là nói ăn theo thuở ở theo thì một cách nào đó. Chứ ngay
tại nhà tôi, xứ quê nội mới của tôi chỉ là xứ Giã. Xác định địa danh như thế vì
nhà tôi nằm xế đối diện với sân “Ga Giã” trên hệ thống thiết lộ xuyên Việt.
Thiết lộ là từ hành chánh dùng trước năm 1975, sau đó đổi thành đường sắt, lấy
lẽ là làm “trong sáng tiếng Việt”. Kiểu trong sáng này rơi vào trường hợp tỉnh
lộ đổi thành đường tỉnh, nhưng sang đến quốc lộ không dịch thành “đường nước” –
đớ lưỡi vẫn giữ là “quốc lộ” thành ra nguyên tắc thống nhất trong ngôn ngữ bị
hiếp dâm.
Ga Giã được xây dựng đâu khoảng
vài năm trước ngày vua Bảo Đại và Toàn quyền René Robin dự lễ hợp long đường
sắt tại Hảo Sơn ngày 2.9.1936. Trước đó một, hai năm gì đó hỏa xa được cho chạy
thử từ Nha Trang ra Đại Lãnh rồi quay đầu lại. Trang web của Ga Giã viết rằng:
“Ga Giã được xây dựng vào năm 1903, cùng thời điểm với tuyến đường sắt Bắc Nam.
Ga có quy mô vừa phải, với diện tích khoảng một hectare gồm nhà ga hành khách,
nhà ga hàng hóa”.
Về sau, cái xứ huyện lỵ của
huyện Vạn Ninh nằm gọn ở xã Tân Mỹ rộng lên tới thiết lộ giáp ranh xã Vạn Phú,
lại đèo thêm chữ “Vạn” vào tên. Ông Quách Tấn giải thích, sở dĩ đặt tên Vạn Giã
là do cái xứ nằm kẹp giữa cửa Vạn và cửa Giã. Cửa Vạn, Pháp gọi là Port Royal ở
tại Đầm Môn, dưới chân bán đảo Bàn Sơn. Trước cửa có một hòn đảo lớn, tục gọi
là Hòn Lớn, tên chữ là Ðại Dự, đứng che. Cho nên cửa rất kín đáo. Đây chính là
nơi tàu bè núp bão tố. Vào ra cửa có hai lạch ở giữa Hòn Lớn và hai nhánh núi
của bán đảo Bàn Sơn. Lạch phía Ðông gọi là Lạch Cửa Bé, lạch phía Tây gọi là
Lạch Cửa Lớn hay Lạch Cổ Cò. Cửa Giã nằm tại Vạn Giã. Nước sông Hậu chảy ra cửa
này. Cửa Giã là nơi ghe thuyền buôn bán ra vào. Cá tôm ở các vũng phần nhiều
cũng dồn về Cửa để phân phối đi các nơi nên dân cư đông đúc. Tên Vạn Giã là do
tên hai cửa biển ghép lại.
Ông bạn chuyên nghiên cứu về sử
học cho rằng Quách Tấn nói tào lao. Vạn Giã không phải từ nguyên của thị trấn
Vạn Giã. Vạn tiếng Việt còn có nghĩa là một xóm làm nghề sông biển nào đó. Đã
từng có những từ “vạn chài”, “vạn đò”… Huyện lỵ của Vạn Ninh từng có trụ sở
huyện nằm ở ngay lối vào thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng. Cây cầu sát ủy ban từ đó
mới có tên cầu Huyện còn tồn tại đến nay. Cùng với thôn Phú Hội, hai nơi này là
hai xóm chuyên làm nghề lưới dã cào. Có thuyết nói rằng huyện lỵ Vạn Ninh từ đó
thành tên Vạn Giã. Tên này có sau tên Giã – địa danh mà Pháp dùng đặt tên nhà
ga ở đây, khá lâu.
Trước mùa mưa năm 1975, tôi được
một người bạn cà phê, lính Việt Nam Cộng Hoà, dạy cho học cưa cây. Bấy giờ cách
cưa cây của người miền Nam khá là phức tạp. Cưa xẻ. Khúc súc hay pi gỗ được đặt
lên ngựa/giàn sao cho một đầu nằm dưới đất, một đầu nhổng lên trời. Một thợ
đứng trên cao, một thợ đứng dưới đất. Cưa quá nửa khúc súc/pi, phải bấy cho đầu
cây còn lại nhổng lên trời. Cách cưa cây của miền Bắc tiện hơn. Họ chuyển lực
trên xuống thành lực ngang. Không phải làm giàn. Hai thợ ngồi hai bên khúc súc,
trên mặt đất, chếch nhau, cưa cho đến khi bứt khúc súc/pi cây. Gọi là cưa líu.
Là kẻ đi học cưa, kẻ chịu ơn, vì
ông thầy Hải cưa chia đều tiền công, tôi luôn luôn bị bắt đứng trên. Đứng trên
mệt hơn ngồi ở dưới nhiều, do phải làm công việc ngược với trọng lực trái đất –
kéo lưỡi cưa lên. Kẻ dưới đất chỉ việc trì lưỡi cưa xuống… Nó luôn miệng nói:
“Ông học việc, phải đứng trên mới mau thạo việc”. Sức thư sinh, kéo hết một
đường cưa, thở hồng hộc như heo. Đành phải chửi thề trong bụng. Giờ thầy Hải,
cựu lính quèn thủy quân lục chiến đã chết mất xác giữa muôn trùng biển khơi.
Xin lỗi người đã khuất.
Khi đã rành cưa “sáu câu” rồi,
tôi được rủ lên núi Hòn Chảo cưa huỳnh đàn. Ban đầu, huỳnh đàn không được đánh
giá ngang gỗ hương nhưng về sau quý hơn gỗ hương nhiều. Loại gỗ này dân thợ
rừng sau 1975 nói với tôi chỉ có Hòn Chảo có thôi. Hòn Chảo là ngọn núi cao có
khi mây phủ nằm phía sau nhà tôi. Huỳnh đàn lại chỉ mọc ở sau lưng hòn núi này.
Muốn đi lên núi, từ ba giờ sáng phải đi theo đường xe lửa, bọc qua cánh đồng
lớn của xã Vạn Lương, đi hết đồng mới tới chân núi. Có nhiều lối vào núi. Chúng
tôi những con ma ngơ ngác, kẻ từ giã lính về, kẻ thì giã trường về. Phải có một
đàn anh thợ rừng làm bầu trưởng và đồng ý cho theo, mới có cơ mà lên tới đỉnh
Hòn Chảo. Khi vào núi, bầu trưởng dặn theo sát ông, khi nào qua cầu Huỳnh là
sắp tới. Đến cầu Huỳnh, tôi mới biết đó là một khe núi, thợ rừng đi trước dùng
một súc huỳnh đàn bị tét đầu bắc qua.
Trong khi đó gỗ hương ở núi nào
cũng có. Huỳnh đàn sau 1975, thợ rừng nhiều quá, khai thác nhiều quá, cạn kiệt
rất nhanh. Thời gian này, thất nghiệp về quê đầy dẫy, họ chỉ có một chọn lựa
duy nhất là phá sơn lâm, vì không cần vốn gì lớn. Chỉ cần một cái rìu để hạ
cây, dọn lối đi. Một cái cưa lớn hai người hùn. Thêm đá mài, dũa lưỡi cưa, là
xong.
Hồi trước hương hiếm hơn huỳnh
đàn, vì những người có tiền xây nhà đều chọn hương. Ông nội tôi khi xây nhà ở
Diêm Điền, cách Vạn Giã chừng bảy, tám cây số về hướng Bắc, thợ tìm gỗ hương
không có, bí quá thay bằng huỳnh đàn mà ông không hay biết. Đến thời bác tôi
thừa kế, có một chiến dịch săn lùng huỳnh đàn. Thế là ông tháo cửa ra bán, thâu
bộn tiền. Cả một tài sản nho nhỏ. Sau đợt săn lùng này, bộ bàn mặt tám mươi và
sáu chiếc ghế bằng gỗ huỳnh đàn một ngày tôi về quê mới hay đã biến thành bàn
inox. Buồn cho nhiều chuyện xưa lận vào bộ bàn cũng ra đi!
Những chuyến đi cưa huỳnh đàn
của tôi hay lâm vào những chiều mưa núi. Con đường mòn, thợ rừng lên xuống
nhiều, mặt đường nhão nhoét. Đàn anh dặn, muốn khỏi trợt, khi bước tới phải dậm
gót chân xuống trước thật mạnh rồi bấm ngón chân theo sau. Thử tưởng tượng
những chiếc gót thư sanh vừa bỏ giày dép đi chân trần làm sao chịu nổi những cú
dậm gót suốt đường núi đằng đẵng cả vài cây số.
Đã vậy hễ trợt là phải hy sanh
thân mà giữ lấy cái súc như “quả pháo ơi sao mà yêu như đứa trẻ…” kẻo tuột tay
súc rơi xuống dốc tét đầu, là coi như chỉ còn nước làm củi. Mới thấy lấp ló cái
ác của giới tiểu tư sản đầu nậu chèn ép người thợ rừng như thế nào, vì rằng súc
tét đầu thì bớt giá dùng vào chuyện đóng tủ table de nuit như
các ông từng đóng loại tủ này bằng rễ cây huỳnh. Nhưng không! Họ ra vẻ ông nội
thợ rừng!
Gót chân không cứng đất mềm mà
vẫn đau thốn. Ngày đầu tôi ngồi tuột xuống dốc kiểu tuột cầu tuột thời học ấu
trĩ viên. Cái quần treillis chỉ một chyến đi núi là mông te tua như những tàu lá
chuối bị gió Vạn Ninh cuối năm dập vùi.
Lần sau, xổ dốc bằng cách chạy
lúp xúp. Gia tốc tăng lên thì thắng gấp bằng cách nắm lấy một thân cây nhỏ mọc
ven đường. Trời mưa núi mịt mùng, bóng tối trùm lên như lính Đại Hàn trùm
poncho cho thằng bạn làm ngựa. Số là họ thường đi hành quân cặp đôi lên núi,
lấy cớ trời mưa, người này cõng người kia trùm poncho kín mít ông lính làm
ngựa. Phe ta trên núi đếm số lính hành quân lên để lúc địch về ta dễ tính sổ.
Không ngờ địch về quân số tăng gấp đôi. Mèo nào cắn mỉu nào biết liền.
Cái ác độc của việc thắng gấp là
trời tối, nắm phải cây có gai. Ráng chịu! Thả thì coi như rơi dốc gần tự do. Mà
thứ tự do này chẳng ai thưởng thức cho đặng như thứ tự do vốn được hô hào là
quý không thua gì độc lập. Được hai chuyến, tôi không dám đi huỳnh đàn nữa dầu
rằng một súc huỳnh giá mười sáu đồng so với một gánh củi giá một đồng.
* *
Làm thợ rừng sáng đi chiều về,
núi thì gần, chỉ cần một rìu, một rựa; cưa giấu trong núi với hai mo cau cơm.
Có ông thợ rừng tên Mô cùng xóm, tướng to con, mặt vuông, vai u. Một hôm, có lẽ
do nhà cạn gạo, ông xách mo cơm ra đến sân, cằn nhằn với vợ: “Cái mo bi lớn đây
tao ăn sao đủ hử?” Bà vợ trong nhà nói vọng ra: “Ăn cơm chớ ăn mo hay sao mà đủ
hay thiếu!” Ông Mô ngậm đắng lên núi.
Ngày đó luật rừng còn tôn nghiêm
lắm. Luật đó những thằng bạch diện thư sinh như tôi phải học. Đầu năm muốn lên
núi, phải chờ cúng mở rừng, mới được đi. Không ai vi phạm. Từ xưa mãi tới 1975,
luật mới bắt đầu bị chà đạp dần, lấy cớ là dị đoan. Đi lạc trong núi, khi tìm
thấy đường ra, đói quá, thấy mo cơm của ai treo, chỉ được ăn một nửa. Khúc súc
cây hoặc thân cột của ai để dưới đất dựng đứng dựa vào một cây còn sống khác,
không được lấy, vì chủ nó chưa kịp chuyển về. Cây bỏ nằm dưới đất được lấy. Vậy
nên, người dân Vạn Giã xưa dùng từ rất “môi trường”: đi hái củi. Nghĩa là chỉ
“hái” những nhánh cây bị bỏ lâu ngày đã khô, những nhánh cây chết khô trên
cành. Củi tươi không gánh nổi.
Sau 1975, đói quá, nên “tiều
phu” bắt đắc dĩ không còn hái củi nữa mà chặt tàn chặt mạt. Kẻ chặt cây to bằng
cái đầu đốt than. Kẻ chặt củi thì lựa cây nhẹ bằng bắp tay. Kẻ vừa đốt than vừa
chặt củi v.v… cả tuần mới chín. Củi ngày nào cũng phải có một gánh để về nhà
đong gạo.
Trần Công Khanh
304Đen – Llttm - sgtc
Giang Đoàn Xung Kích Và Con Kinh Vĩnh Tế - Hạnh Võ
GIANG ĐOÀN XUNG KÍCH
VÀ CON KINH VĨNH TẾ
Hồi tưởng lại chuyện năm xưa tính đến nay đã hơn 50 năm rồi ,với gần hơn
nửa thế kỷ. Sao mà hình ảnh từ ngày vào HẢI QUÂN CÔNG XƯỞNG để được nhận quân
trang cá nhân ,khom thân người , vác nó về ,qua sân túc cầu ĐA KAO về đến
nhà trên đường HAI BÀ TRƯNG.....nó hiện ra rõ ràng trong tâm tưởng...
Những ngày nghỉ phép sau khi ra trường đã hêt...Sáng nay phải có
mặt tại Câu Lạc Bộ nổi để chọn đơn vị phục vụ...,khi đến lượt mình ,nhìn vào
bảng Danh sách các đon vị ,thì thấy rằng các vị trí tên các Chiến hạm đã đủ
người chọn lưa..,chỉ còn 1 danh sách dài tên các đơn vị Giang Đòan.,Duyên
Đòan....Oh.! Thấy tên 1 Giang Đoàn có vẻ ngoại quốc ,đó là Giang Đoàn
K.S.B ( B.C.H BÌNH THŨY) kế cạnh tôi bấy giờ là anh KỲ, và 2 anh
cùng tên và cùng HỌ.là PHƯỚC TRÂN...,tôi giải thích : BÌNH THỦY là TÂY ĐÔ
,nghĩa là thủ đô của miền TÂY.,nơi đây là vùng sông nước cá tôm
nhiều.,thoải mái lai rai nhen bây..Thế là cả nhóm đồng ý vào ghi tên...
Vài ngày hôm sau ,anh em đã hiện diện tại Bộ Chỉ Huy Lực Lượng
TUẦN THÁM..để trình diện cấp trên và để được hướng dẩn..lúc đó mới biết , qua
lời ông Th/tá rằng là các anh không có làm việc nơi đây (CẦN THƠ)..mà phải về
CHÂU ĐỐC trình diện Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn XUNG KÍCH.tôi tự hỏi mình sao bây
giớ lại có cái tên nầy?...nghe thấy máu lửa quá trời
Trên chuyến xe DODGE nhỏ của B.C Huy..cùng xe là các anh em thũy
thủ đi phép trở về các đon vị và với 1 ông Thượng sĩ già..Tôi hỏi thăm về đơn
vị mới nây thì anh em cho biết các giang đỉnh khá nhỏ.,chạy nhanh và
không có mui che mưa nắng...Ông Th/sĩ già góp thêm ý kiên...và cho đó là không
đúng..mà đơn vị là chiếc tàu lớn bề thế.., một anh khác thì tỏ vẽ thán phục nói
rằng các ông chịu chơi quá..sao mới ra trường mà chọn ngay về đợn vị dử dằn
nây...Tôi im lặng thầm ngán ngẩm....ôi! mộng hải hồ....Mình tính sai rồi..câu
than thở từ thuở bị Brimade trong quân trường lại hiện về...ôi! nó giết chết
đời trai....
Châu Đốc đây rồi.....Từ công viên thành phố đứng nhìn ra dòng sông HẬU...Một
chiếc Hobo nhỏ lướt vào bờ để rước anh em...nó trực chỉ thẳng đến 1 chiếc hạm
Y. R.M 20 của HOA KY..,đang neo giửa sông lớn.,có 1 chiếc trực
thăng bên trên sàn bãi đáp..và nhìn thấy khoảng 25 chiếc Hobo cùng loại , được
cột nối với nhau sát vào 1 cái ponton....trên đây có dựng 2 dãy nhà tiền chế
,phân chia thành các khu phòng nhò làm Văn phòng đơn vi.,và làm các phòng tạm
trú cho nhân viên....Ngay lúc đó ,thì thấy từ dưới sông một tay lội sải nhanh
vào..,với chiếc quần đùi Nylon đỏ,một thân mình lực lưởng ,đen bóng ,anh bước
đến và hỏi cười với hàm răng đều và trắng sáng như ông HYNOS kem đánh
răng..rằng mấy đứa 19 mới xuống.,phải không?..Thôi sắp xếp lại ,rồi đi tắm.tôi
sẽ đưa đi bờ chơi cho biết Châu Đôc.Đó là lần đầu tiên tụi tôi biết đến
Niên Trưởng NGUYỄN thành PHƯỚC (Người nhái /Ụ.S.A/K.17 SQHQ/N.T) ,ông đang xử
lý thường vụ C.H.Phó Giang Đoàn XUNG KÍCH K.S.B.....(1970)...
Buổi chiều vê..giờ điểm danh cho nhân viên 5 giang đinh của
tôi..không thấy các bộ quân phục thũy thủ thường ngày mà thay vào đó là
các bộ đồ đen ,rằn sọc của các chủ lục quân.,có các anh dùng các sợi dây màu
đen ,đỏ vòng qua trán cột tóc...nhìn chung là 1 nhóm lính tráng ô hợp ,những
gương mặt bình thản chịu đựng....
Đoàn giang đỉnh bắt đầu nhẹ lướt trên dòng sông Hâu.,chạy sát bờ .ô kìa
! một nhóm mấy cô đang đùa giởn ,tắm giặt các chiếc SARONG..,thì ra mấy cô nầy
từ 1 làng trên bờ..,làng CHÂU GIANG ,nơi sinh sống của các gia đình CHAMPA mà
bao nhiêu đời tổ tiên họ đã từ miền TRUNG chạy nạn chiến tranh ,khi làn sóng di
dân người VIỆT từ miền Bắc,TRUNG tiến về phương NAM..,về miền TÂY tìm đất ruộng
,khai khẩn..
Toán Giang đỉnh vào tới đầu kinh VĨNH TÊ.,Mặt trời chiều hoàng
hôn.,đã bắt đầu sẩm tối...Tôi bắt đầu cho chạy vào kinh..vì mọi giang đỉnh đều
biết trước các tọa độ ,bờ kinh của điểm phục kich.,nên khi đến nơi là họ tự ủi
bờ. ,rồi đem súng đại liên M 60,,M 79 lên ,dọn sơ bãi và nằm phục kích ,còn các
giang đỉnh khác thì cứ tiếp tuc hành trình để đến điểm của mình...Vùng nầy rất
nhiều muỗi.,anh em rất khổ sở vì chúng, , nếu thiếu dầu bôi da..
Con kinh VĨNH TẾ nầy là một con kinh đào tay ,đươc phối hợp của những
người dân và quân người VIỆT lẫn MIÊN.,họ đã đổ biết bao mồ hôi,xương máu để
đào từng chặng kinh ,nhắm hướng của 1 cây cọc cắm từ xa có treo một ngọn đèn
cao.,họ đào miệt mài hơn 5 năm trơi..(Đèn nào cao cho bằng đèn Châu đôc...Gái
nào đẹp cho bằng gái CHÂU GIANG)...con kinh nầy dài khoãng 84km ,đào dài đến
Giang Thành.(HÀ TIÊN)....với các vị quan chỉ huy cho việc đào kinh ngày đó là
Ông TÃ QUÂN LÊ văn DUYÊT..,Ông quan THOẠI ngọc HẦU Nguyễn văn THOAI..xét lại
công ơn nầy ,vua Minh MẠNG cho đặt lấy tên VĨNH TẾ (tên vợ của ông quan THOẠI
ngọc HẦU)..,câu chuyện đào kinh là vào các năm của thế kỷ thứ 18....và đây cũng
là con đường thũy tiện lợi giao thông ,buôn bán ,nối liền với bờ biển qua con
sông Giang Thành (HÀ TIÊN) về đến CHÂU ĐỐC) sông HẬU....
Con kinh VĨNH TẾ được đào chạy dọc theo vùng biên giới với CAM BỐT
....,ngày đó vào những năm loạn lạc ,,vùng nấy đã xảy ra các vụ người dân 2 bên
bờ ranh giới xăm nhập qua lai chiếm các đàn bò,heo.,mà các vùng như VĨNH
GIA.,VĨNH ĐIỀU,GIANG THÀNH hứng chịu nhiều tai họa...
Giang đỉnh HOBO của Giang đoàn Xung Kích là một loại xuồng giống
như loại mà dân Hoa Kỳ dùng săn,bắn Chim ,vịt trời..,tuy nhiên nó đươc tạo
thành bởi loai FIBER GLASS rất nhẹ ,loại mìn từ tính không bị ảnh hưỡng.và động
cơ là loai máy 2 chân vịt (THUNDER BALL)..,xử dụng bằng xăng Supper..,phần phía
sau là chổ ngồi lái (bộ phận tiến hay lùi bởi hai cần trục giống như của
P.B.R...,Ở phần đầu mủi là 1 trụ cho đại liên M.60...,chạy rất nhanh với vận
tốc lướt trên mặt nước từ 25 đến 35 knots....
Trước khi đi công tac.,chúng tôi vào gặp Cố vấn để ký giấy nhận ống kính
nhìn đêm.,về thì hoàn trã.,nhờ vào ống kính nầy mà tôi đã một lần trong một đêm
phục kích , đã thấy đươc đoàn người tiến vào lảnh thổ.,thường là các nhóm kinh
tài,đem theo vũ khí ,tìm đường vào để rồi biến dạng ở các vùng U MINH HẠ hay U
MINH THƯƠNG..
Tôi đã dùng máy P.C.R 25 ,gọi về phòng Hành quân trên chiếc hạm 20
,trong chiến dịch TRẦN hưng ĐẠO cover cho vùng biên giơi..Trưởng phòng nầy là
HQ TH.TÁ Đinh vĩnh GIẠNG,và với các nhân viên thuộc K.19 SQ/HQ/NT ,các anh
TRƯƠNG văn CHỤNG và NGUYỄN văn TÀI..,các anh đã liên lạc với nhóm Pilot trực
thăngHoa KỲ.., rồi sau đó 1 chiếc trực thăng COBRA bay lên..,tôi đã dùng đạn
lửa cho đại liên M 60 tác xạ về hướng nhóm người đang di chuyên..chiếc
COBRA nầy đã tác xạ quần nát khu vực.....Sáng hôm sau..lực lượng địa phương
quân của tỉnh đã vào lục soát và thu nhiều loại vũ khí....
Trên dòng kinh VĨNH TẾ..,vào những năm chúng tôi còn trong Quân
trường thụ huấn..,thì con kinh nầy đã có tên là kinh Vĩnh biệt ,rất nguy
hiêm.,quân du kích đã xử dụng ngôi chùa Ngọc Hoàng (hay dân địa phương thường
gọi là chùa BÀ BÀI ,vì nó nằm trong phạm vi xã BÀ BÀI) để ẩn nập,đào công
sự,chứa vủ khí từ vùng biên giới ,để rồi bắn phá các giang đỉnh qua lại tuần
tiêu..,từ chợ trung tâm của tỉnh nếu muốn đến đây thì phải băng qua 1 cánh đồng
ruộng lớn..quân số Nghĩa quân ,Địa phương quân không thể thường xuyên hành quân
vào khu vực nây....cho nên mọi chuyện đều phải do anh em Giang đoàn XUNG KÍCH
,tạo ra các cuộc phục kích mỗi đêm.,chúng tôi công tác như vậy liên tiếp 3 đêm
mới nghỉ được 1 đêm.,phân chia để mỗi đêm đều có các toán giang đỉnh hiện diện
trên vùng kinh nây..Đời sống chúng tôi vào năm mới ra trường NHA TRANG...đã hội
nhập vào vòng lửa đạn của vùng Biên giới MIÊN VIÊT.....Bài viết nầy được viết
nên qua cùng hình ảnh của Niên Trưởng Nguyễn thành Phước ,người đàn anh đầu
tiên đã hướng dẩn các kinh nghiệm trên bờ kinh ,cũng như trên các nẻo đường
trong thành phố CHÂU ĐỐC ,thành phố nhỏ nhưng đầy các bước chân của chúng
tôi trong những ngày nghỉ bến không công tác...........Tạm biệt các ban.....
HẠNH VÕ
(SQHQ/K 19)
Sanjose
july 15, 2024
Ghi chú;
Bài được
tác giả viết và chuyển tới, 304Đen giữ nguyên gốc hình thức trình bày, không chỉnh sửa như thường lệ.
Saturday, July 20, 2024
Tương Lai Cho Chúng Ta - Tâm Quả
TƯƠNG LAI CHO CHÚNG TA
Lặng lẽ thời
gian cứ nhẩn nha
Rộn ràng
chính trị vẫn như là
Hô hào bêu
xấu chừng chưa đã
Căm ghét hận
thù nguy hiểm đa
Vận nước cơ
trời ai biết hã
Số phần trăm
họ đứng đầu mà
Đầu năm tới
liệu ai vào há
Bầu cử chọn
người cho đúng nha
Jul 14, 2024
Tâm Quã
Thursday, July 18, 2024
Em Bỏ Làng Đi - Thuyên Huy
Em Bỏ Làng Đi
Viết cho em gái làng Long Chữ
Em
bỏ làng đi chiều thu muộn
Chiếc
xuồng ba lá không ai chèo
Xác xơ gốc ra khô ngoài ruộng
Sông
quê từ đó cũng buồn theo
Đầu
vàm quạnh hiu bông Súng úa
Nhấp
nhô theo sóng nước chờ người
Hàng
Trâm bầu sầu vàng lá nhớ
Đôi
bờ ray rứt tím Mua rơi
Cầu
ván ngày nao giờ lạnh vắng
Ngoài
truông bìm bịp cũng thôi kêu
Lối
mòn quen đường về im lắng
Vườn
sau chuối mấy bụi tiêu điều
Chợ
sớm đầu làng thưa người nhóm
Nhà
quen không còn khói bếp chiều
Em
đi quên mối tình vừa chớm
Bỏ
người nắng ngã mái tranh xiêu
Thuyên
Huy
Toowoomba
2024
Còn chăng - Nguyễn Cang
CÒN CHĂNG
(Ngũ độ thanh)
Đêm nằm chợt nghĩ thuở ngày
xưa
Buổi tối vừa qua mộng cũng
chừa
Bãi cạn sương mờ dong ruổi
nhớ
Ven đồi ngõ vắng hẹn hò đưa
Dương trần gột rữa bao tàn
tích
Vẫn bụi vần xoay mấy ảnh thừa
Hạnh phúc vùi chôn ngoài cửa
ngõ
Bây chừ tự hỏi lá vàng chưa?
Nguyện Cang (Jul. 17, 2024)
Mưa Chiều Nhớ Ai - Nguyễn Thị Châu
MƯA CHIỀU NHỚ AI?
Mưa rơi lác đác chiều
nay
U hoài tựa cửa chờ ai
trở về
Người đi mấy dặm sơn
khê
Mưa rơi ngoài ngõ não
nề lòng ta
Nhỏ to tâm sự phương
xa
Nhớ ai khoé mắt lệ
nhoà rơi rơi!
Bây giờ mình ở hai
nơi
Thiết tha đến mấy
cũng rời xa nhau
Để rồi ôm lấy chữ sầu
Buông tay như nước
qua cầu trôi nhanh
Thăng trầm thế sự vây quanh
Trả về quá khứ đã
dành cho tôi
Không chờ, không đợi
người ơi!
Thời gian liều thuốc
cho đời nở hoa
Không còn thương nhớ
người ta
Ngoài trời có hạt mưa
sa không sờn
Hôm nay vẫn sống cô
đơn
Mưa rơi ngoài ngõ
không còn vấn vương
Cũng đành tim héo đau
thương
Không than, không
trách , phải thương chính mình…!!!
17-7-2024
Nguyễn thị Châu
Tình Nghèo - Ngọc Ánh & Kiếp Tha Hương - Nguyễn Cang
TÌNH NGHÈO
(Ngũ độ
thanh, bát vỹ đồng âm)
Cưới hỏi
vừa xong sẽ tậu nhà
Cho gần
ruộng rẫy khỏi về xa
Nuôi bèo
dưỡng lợn xây cầu cá
Trĩa lúa
trồng rau thả vịt gà
Vợ giỏi nề
chi giường chiếu rã
Chồng
siêng chẳng ngại muối dưa cà
Đầu năm
được trẻ mừng vui nhá
Bởi vậy lều tranh cũng sướng m
Ngọc Ánh Nguoideplongyen :
Bài họa (Ngũ độ thanh độc vận)
KIẾP THA
HƯƠNG
Vừa
xong giỗ chạp sớm ra nhà
Chuẩn bị
lên đường tới chỗ xa
Lễ hội ăn
mừng mâm chả cá
Ngày xuân
thưởng thức mẫu xương gà
Năm dài họng
cứng thân mòn rã
Lẫu cạn
khô dầu cổ khó qua
Những tưởng sang giàu vui đậm nhá
Ngờ đâu khổ
cực quá cơ mà !
Nguyễn
Cang ( Jul. 6, 2024)
Bàn Tay Năm Ngón - Bình Nguyên Lộc
Thầy
giáo dò tên trong sổ rồi lại liếc học trò như để bắt mạch chúng, coi đứa nào
xanh mặt vì không thuộc bài. Không thấy đứa nào tỏ vẻ lo sợ, thầy nhắm mắt chấm
đùa thì trúng tên trò Kinh.
-Kinh,
lên bảng trả bài ám độc.
Trò
Kinh vừa đứng dậy, vừa nói lên cử động của mình, bằng tiếng Pháp:
-Tôi
đứng dậy, tôi ra khỏi bàn, tôi lên bảng và tôi đọc. Rồi tôi trả bài cũng bằng
tiếng Pháp: “Đây là bàn tay của tôi, nó có năm ngón.”
-Sáu…
-Sáu…
-Sáu
chớ…
Cả
lớp cười rộ lên một cái rần. Kinh giựt mình, ngưng đọc. Thoạt tiên anh không
hiểu gì hết. Nhưng chợt nhớ thì bàn tay mặt anh có sáu ngón, mặt, tai anh ửng
đỏ. Anh vội giấu bàn tay mặt dưới cùi chỏ tay trái đương khoanh trước ngực.
Thầy
giáo đập thước rầm rầm lên bàn và la:
-Cười
cái gì. Trò nào còn cười bị phạt chép năm chục trương bài nầy. Trò Quang, ta
không nên… làm sao ?
Trò
Ouang đứng dậy. Sợ sệt đọc: ” Ta không nên nhạo báng người tàn tật “.
-Tốt,
giỏi, ngồi xuống !
Kinh
lăn qua, trở lại mãi, không sao nhấm mắt được. Anh nhớ rõ từng chi tiết buổi
học trên đây, mười sáu năm về trước và thương hại cậu bé tội nghiệp, thuở ấy đã
chịu biết bao khổ nhục giữa đám trẻ tàn ác, cũng vì cái ngón thứ sáu nầy.
Anh
giơ bàn tay lên xem. Cái ngón dư đó, mọc từ bên hông ngón cái, cong quát vô như
càng tôm, càng cua. Da nó non, mịn, hơi ửng hồng. Đầu ngón, một móng tay nhỏ
xíu, nhọn hoắc, cong như ngói ống lợp chùa.
Thật
là dị kỳ, không giống anh em nó chút nào, y như là ai mới nghịch gắn nó vào đó,
và nó làm bằng những chất gì khác hơn là thịt và da.
Hèn
chi trẻ nhỏ hồi đó và người lớn bây giờ không đùa sao được. Phải chi ai cũng có
sáu ngón, thì anh sẽ được coi như người thường, đàng nầy…
-Ờ,
Kinh nghĩ, tại sao người đời cứ muốn cái gì cũng giống nhau hết, khác một chút
là họ không tha. Mình mặc một bộ đồ mốt xưa họ cũng cười, mình dạy con theo
phương pháp riêng của mình, họ cũng công kích. Mình có một tư tưởng nào hơi
bạo, hơi đi trước họ, họ không khỏi nhìn mình như nhìn một người điên.
Kinh
bật cười, nghĩ đến một người kia bỗng dưng mọc đuôi dài. Chàng thấy trong trí
đám người đi theo thằng cha có đuôi, mặc sức mà bàn tán mà chế giễu. Rồi chàng
nhớ đến bọn đầu cơ, luôn luôn rình một dịp tốt để hốt tiền. Bọn nầy không khỏi
thương thuyết với người có đuôi, nhốt va lại trong một cái lều bằng bố, giữa
chợ đông, rồi thì lùng tùng xòa, lùng tùng xoèn mại vô, mại vô, người có đuôi,
năm cắc vô cửa nè !
Kinh
lại nhớ đến những bức tranh khôi hài ở một tờ báo ngoại quốc kia. Tranh vẽ một
nhà thông thái chế ra một hỏa tiễn rồi bắn mình lên sao Mars. Tới nơi thấy
người sao Mars có ba chơn, mũi dài như vòi voi, không trái tai. Những người nầy
bu quanh nhà thông thái và nói với nhau: “Các anh coi, thằng người dưới quả địa
cầu mới dị tướng, xấu xí làm sao !”
Thì
ra óc loài người rất hủ lậu. Cái người thượng cổ đã dựng lên một cái chòi để ở,
không thích ở lỗ nữa, không biết đã bị đồng loại rầy rà, làm tình, làm tội đến
bao nhiêu.
Kinh
thở ra dài: Loài người cứ muốn giống nhau, lại muốn cái gì cũng giống loài
người. Họ bày ra đấng Tạo Hóa, đấng Cứu Thế với hình ảnh giống hình ảnh họ, với
tư tưởng và tình cảm gần gần họ, hơi khoáng đạt, trong sạch hơn một chút, một
chút thôi. Còn cái anh chàng nào đã tạo ra Tiên đó, thì lại càng giản dị hơn
nữa. Va cho Tiên là người phàm tu thành và vẫn còn giữ rất nhiều phàm tánh.
Phải
chăng vì tánh đó, thâu hẹp lại, mà thuở nhỏ anh đọc truyện Tàu cứ tưởng tượng
Trương Phi, Tiết Nhơn Quí là người Việt Nam, rồi đến mười lăm mười sáu tuổi,
khi biết rõ lại họ là người Tàu, anh tức mình sao những nhơn vật anh yêu lại
không phải người đồng chủng.
Kinh
rờ ngón tay dư. Nó mềm mụp như bằng bột. Tuy ngón tay đó cũng nghe được xúc
giác, nhưng anh cảm thấy sự đụng chạm đó không giống khi anh rờ những ngón
khác. Như là ngón thứ sáu đó không thuộc vào thân thể anh.
Kinh
có tiếng người lập dị. Đó là lời xét đoán của người chung quanh anh. Thật ra
những cái dị ấy, anh tự nhiên mà có, chớ không cố ý lập ra, và không cần dư
luận, anh không thèm sửa đổi cho giống người ta.
Nhưng
cái dị của ngón tay nầy thật là để không được nữa.
Anh
làm ở Bưu điện. Mấy năm nay anh ngồi phòng bút toán ở trong. Năm nay anh đổi ra
“ghi-sê”.
Thật
là phiền. Mỗi khi anh bán ra một con cò, là có cả chục con mắt ở ngoài dòm cái
ngón tay chướng ấy. Chắc ngoài họ bảo nhau: “Ở sở Bưu điện có thầy sáu ngón”.
Khi họ sai thằng nhỏ đi mua cò, chắc họ dặn: “Mầy cứ lại chỗ thầy sáu ngón tay
là đúng chỗ bán cò.”
Kinh
khổ sở tưởng như nội Sài Gòn người ta cứ ăn no rồi bàn nhau về cái ngón dư của
anh.
Ra
đường, anh đoán ai cũng nhận ra anh, và luôn luôn anh nhét tay vào túi quần.
Phiền
nhứt là phải thối tiền cho phụ nữ. Hễ thối tiền thì phải chưng bày cái bàn tay
(khổ, lại là bàn tay mặt là bàn tay làm việc) có tật ấy ra lâu hơn khi bán cò.
Những cái mỉm cười kín đáo của những cô gái đẹp trước cục thịt dư sao mà nó mỉa
mai, hỗn láo đến thế ?
Một
hôm một bà đầm già thân mật hỏi: “Sao thầy không cắt nó đi ?” Mà lại hỏi trước
một công chúng phụ nữ đông đảo. Anh muốn hụp xuống phía sau ghi-sê mà trốn
những nụ cười tàn ác kia.
À,
cái mụ đầm mới vô lễ chưa. Mắc mớ gì đến mụ chớ ?
Kinh
thầm oán mụ đầm đó, nhưng từ ngày ấy anh mới sực nhớ ra là có thể loại cái khó
chịu nầy ra khỏi thân thể anh.
“Ờ,
ờ, tại sao thuở giờ mình không nghĩ đến. Có gì đâu, phụp một cái là mình được
như người thường. Mình không đến đỗi xấu trai. Nếu không có cục nợ ấy thì cũng
là người dễ coi như ai. Ờ, mà có đau đớn lắm không nè ?” Anh đi hỏi thăm một
bác sĩ hẹn ngày giờ cẩn thận.
-Không,
không đau đớn gì đâu, bác sĩ nói, như con kiến cắn é mà !
Kinh
yên lòng. Nhưng đêm nay, cái đêm trước ngày “long trọng” ấy, anh nghe ngài
ngại. Không biết nó sẽ đau đến bực nào. Không, mà mình sẽ bậm môi rán chịu,
không rên la chi cho bác sĩ cười. Làm trai mà ! Anh nghĩ cái ý làm trai một
cách trịnh trọng như là một chiến sĩ sắp ra trận ngày mai.
Kinh
cầm ngón tay lúc lắc, bụng bùi ngùi:
-Mấy
mươi năm rồi, mầy ở với tao. Thôi mai nầy vĩnh biệt nhé !
Kinh
ngạc nhiên vì chợt nghe mình thành thật buồn vì sự chia ly nầy.
-Mình
đa cảm đến thế à ?
oOo
-Lại
chích lần nữa à, thưa ông ?
Bác
sĩ cười hì hì đáp:
-Nhiều
lần nữa chớ. Thứ thuốc tê nầy, chích đâu thì có hiệu quả đó, chỉ ở đó thôi.
Thành ra tôi phải chích ít lắm là bốn phát chung quanh gốc ngón tay.
Bác
sĩ rút kim ra, lụi phía bên kia, Kinh đau điếng.
-Phải
dè đau như vầy, tôi không đòi thuốc tê. Để vậy cắt có lẽ ít đau hơn.
-Phải
có thuốc tê vì còn đốt.
-Đốt
?
Bác
sĩ không trả lời, cắt sực một cái, ngón tay đã rớt xuống mâm.
Ông
tiếp lấy cái sắt trắng nướng đỏ mà thầy khán hộ vừa trao tới.
Kinh
nghe lạnh cả mình. Nhưng không sao. Chỉ nóng vừa thôi khi cây sắt lửa ấy rà lên
vết thương.
Trên
đường về, Kinh nghe nhẹ người, tuy cái ngón dư ấy chỉ cân nặng độ hai chục
gơ-ram.
Chỉ
nửa phút thôi là anh biến ra một người thường, sung sướng y như người khác. Bắt
tay ai họ không còn nhìn xuống nữa. Thôi, từ đây tha hồ mà thối tiền nhé.
Kinh
lấy làm lạ sao người đời thương hại sự thiếu, như là nhường nhịn người cụt tay
chẳng hạn, mà không ưa sự dư. Có ông Phán trong sở chỉ vì dư tiền nhiều mà bị
anh em ghét. Còn cái thằng cha Quân, thua xiểng liểng, nợ tứ giáng lại được họ
thành thật thương xót.
Được
sống như người thường ? Ý nghĩ đó cứ trở lại làm anh hớn hở như mới được của
quí. Tâm trạng anh là tâm trạng của một người tù mới mãn hạn. Anh nhìn mọi
người qua đường tự hào rằng ta đây cũng như ai.
oOo
Nhưng
từ đó, Kinh thấy đời mình thật là nhỏ nhoi, tầm thường như những cái tầm thường
khác.
Ở
ghi-sê không có lấy một cô gái đẹp nào tỏ vẻ thán phục bàn tay năm ngón của anh
hết. Anh cố ý xỉa tiền chầm chậm, và chỉ làm cho người ta bực mình. Cho đến cái
cô má lún đồng tiền thường lui tới Bưu điện, cái cô mà nụ cười tinh quái hơn ai
hết trước kia, bây giờ hình như cũng quên rằng có một thời anh đã mang một bàn
tay khác phàm.
Mà
nghĩ cũng phải. Bàn tay của anh chỉ là một bàn tay thường thôi, có gì đâu mà
người ta phải chú ý đến ? Và chủ nó chỉ là một anh thơ ký thường như muôn ngàn
anh thơ ký thường khác.
Kinh
thở dài:
-Được
yên thân lại không thú bằng bị quấy rầy !
Anh
cảm thấy đã hiểu tầm hạnh phúc. Hạnh phúc của anh là ở những khi ao ước được
như người thường, ở những lúc tưởng tượng mình chỉ có năm ngón như ai. Anh
triết lý: “Hạnh phúc ở chỗ muốn, chớ không phải ở chỗ được”.
Bỗng
anh nhớ ra một điều, thành thật và thấm thía hơn ý tưởng trên: “Bây giờ mình
mới biết sợ sự tầm thường !”.
Bình
Nguyên Lộc
Ebook truyện ngắn