KÉP TƯ BỀN
Các
ngài thích xem hát bội, hẳn chẳng ai là không biết tên Kép Tư Bền. Ấy anh ta
chỉ nổi tiếng về cái tài bông lơn, lắm lúc ra sân khấu, chẳng cần nói một câu
khôi hài nào, nhưng chỉ nhìn một cái điệu bộ cỏn con của anh ta, các khán quan cũng
đủ phải ôm bụng mà cười, vỗ tay đôm đốp.
Anh ta ở Sài Gòn ra hát ở Hà Nội đã ba năm nay. Vì
anh ta có tài riêng mà tính lại thích tự do, nên anh chẳng chịu làm chuyên cho
một rạp nào. Nhưng hễ rạp nào khéo dùng anh một độ, là cũng đông khách. Cho
nên, tối nào bà con Hà thành đọc chương trình hay xem báo, thấy kép Tư Bền đóng
vai giễu là cũng nô nức đi xem. Lắm người đến chậm, phải mang tiền về không,
phàn nàn rằng rạp chật quá!
Cho nên những tối hát có anh giúp, thì các hý viện
đều trưng lên là buổi hát đặc biệt.
Nhưng đã hơn một tháng nay, anh không diễn ở đâu cả.
Vì đã hơn một tháng nay, cha anh ta ốm. Đã hơn một tháng nay, lúc nào trong cái
gác tối om ở gian nhà ngay đầu ngõ Sầm Công, cái tiếng rền rĩ của ông cụ cũng
hòa lẫn với tiếng rầu rĩ của siêu thuốc mà làm anh Tư Bền phải rầu gan nát
ruột, chẳng thiết đến sự làm ăn. Bệnh cha anh càng ngày càng nặng, thuốc thang
chữa chạy, nào anh có quản ngại gì. Nhưng cái số tiền để dành của một vai kép
dần dần cũng đi bài tẩu mã, đến nỗi anh phải đi vay trước của các ông chủ rạp
hát ít nhiều.
Một hôm, ông chủ rạp Kịch trường đến nhà anh ta
chơi. Sau một vài câu hỏi thăm chiếu lệ, ông ta nghiêm sắc mặt, nhắc đến món
nợ:
- Sao? Cái số tiền đó, cậu đã có để trả tôi chưa?
- Thưa ngài, xin ngài hãy thư cho ít bữa, khi nào
thư thả, tôi sẽ đi làm và nộp sau.
Ông chủ bĩu môi, nói:
- Thôi, biết bao lần rồi! Cậu không trả, tôi sẽ đem
ra tòa đó.
Anh Tư Bền cười lạt cho xong chuyện, nhưng lại thấy
ông chủ ngọt ngào dỗ:
Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp, khách nhắc nhở luôn
đấy. Vậy cậu liệu liệu mà đi làm ăn chứ?
- Vâng, tôi định thế...
- Tôi mới nhờ một nhà văn sĩ đại danh soạn cho một
vở hài kịch theo lối tuồng cổ. Vậy cậu ra giúp tôi vai chính. Vì phi cậu, không
còn ai xứng đáng.
- Diễn vở mới thì phải học, thưa ngài?
- Phải, phải học và tập diễn trong độ nửa tháng.
- Trong nửa tháng! Chà!
Anh Tư Bền nhắc lại ba tiếng đó, nhưng trong anh lẩn
vẩn nghĩ ngợi biết bao nhiêu điều: Trong nửa tháng, trong mười lăm hôm trời,
mỗi ngày anh phải xa cách cha mấy tiếng đồng hồ để đi học diễn. Cha anh ốm.
Trong khi anh vắng nhà, ai trông nom săn sóc thay anh? Nghĩ vậy anh đáp phắt:
- Thôi, xin lỗi ông, tôi bận quá mà!
Rồi anh trỏ vào màn và nói tiếp:
- Cha tôi yếu, tôi phải ở nhà.
Lúc ấy, ở trên giường bệnh, ông cụ ho sù sụ, rồi thò
tay ra cái ghế đẩu kê cạnh, để với lấy cái ống nhổ. Nhưng lật bật cầm không
vững, cụ đánh rơi ngay xuống sàn gác, đờm rãi nổi lềnh bềnh.
Anh Tư Bền giật mình, chạy lại đỡ cha:
- Sao ông không gọi con?
Rồi anh đỡ lấy chổi quét chỗ nước lênh láng đi, đoạn
nét mặt rầu rầu, anh nói.
- Đó, ông coi, vắng tôi sao đặng.
- Không, cậu cứ nhận lời giúp tôi, tôi sẽ sai người
đến trông nom hộ cậu.
- Đa tạ ông, nhưng tôi không yên tâm.
Lúc ấy, trong màn có tiếng keng keng của chiếc đũa
đập vào bát sứ. Đó là hiệu gọi. Anh Tư Bền lật đật chạy lại gần cha. Giọng khàn
khàn của ông cụ sai anh rót chén nước.
Nhân muốn gây cảm tình, ông chủ rạp Kịch trường lại
gần giường, mở màn, rồi hỏi:
- Chào cụ, cụ có biết tôi là ai không.
Ông già giương hai mắt lên. Rồi như đã nhận biết,
bèn nhăn bộ răng ra cười, cái cười khó đăm đăm, và gật gật mấy cái, rồi run lẩy
bẩy, giơ tay ra bắt.
Các ngài đừng tưởng rằng ông cụ quen gọi lối tây,
nên mới bắt tay đâu. Đến phải nhăn bộ răng ra cười còn là sự bất đắc dĩ nữa là.
Nay sở dĩ ông cụ phải bắt tay, vì là tiếp khách theo lối lịch sự của những
người mà con mình có nhờ vả.
- Cụ cũng không yếu lắm nhỉ. Sao cậu Tư Bền không
nhận lời cho tôi?
Ông cụ hất hàm, có ý hỏi.
- Tôi sắp cho tập vở mới, định nhờ cậu ấy sắm vai
chính.
Ông cụ lại nhăn răng ra cười và gật, nhưng anh Tư
Bền nói ngay với cha.
- Ông mệt lắm, con phải ở nhà.
Ông cụ cau mặt. Chỉ có anh Tư Bền hiểu. Bởi vì ông
cụ chẳng muốn vì mình mà con làm trái lòng người chủ nợ. Ông chủ dỗ dành, nói:
- Cậu cứ giúp tôi đi. Cậu mà nhận lời, thì món tiền
ấy, cậu để đến bao giờ cũng được. Còn tiền hỏa hồng khi diễn tấn "Ông
huyện ba phải" này, cậu cứ lấy cả để thuốc thang cho ông cụ.
Cái sức làm cho anh kép Tư Bền có thể nghĩ đến sự bỏ
cha ốm một mình là ở câu nói ấy. Mà cha anh cũng vì câu nói ấy mà nở nang cả
lồng xương ngực. Ông cụ cố thở mạnh mấy cái cho khoan khoái trong lòng.
- Cậu nghĩ sao?
- Nhưng nửa tháng trời! Ai trông nom cho cha tôi?
- à, thôi, thế này thì cậu bằng lòng nhé. Cậu cứ ở
nhà mà học vở. Đến hôm diễn thử lần cuối, cậu hãy đến rạp cũng được. Vì tôi
biết cậu thông minh và có tài hơn người khác. Tội chi, có dịp trổ tài, vả lại
để cho thiên hạ nhớ mong lâu cũng không tiện!
Nghe câu nói sau cùng như được ăn miếng bánh thánh,
anh Tư Bền có vẻ nghĩ ngợi. Anh nhìn cha. Ông cụ thấy con còn ngần ngừ, thì lộ
ra vẻ không bằng lòng. Cụ nhăn mặt, cố cất lên cái tiếng khàn khàn để gắt:
- Nhận lời đi!
Nói xong, lại ho sù sụ.
Anh Tư Bền cảm động, nhìn ông chủ rạp Kịch trường và
trả lời.
- Vâng!
Ông chủ vì chờ cái tiếng vâng này mất nhiều công
quá, nên sợ nó không được chắc chắn. Đến hôm diễn, mà cha anh Tư Bền có làm
sao, anh cứ vắng mặt ở rạp hát, thì lỡ bét. Ông bắt anh làm giấy giao kèo.
Bà con sính xem hát, hôm đó thấy ôtô quảng cáo chạy
rong khắp phố để thả chương trình, và vải căng ở các ngã tư, đều nô nức rủ nhau
đi xem buổi biểu diễn đặc biệt, có Tư Bền sắm vai chính.
Tối đến, cửa rạp Kịch trường đèn thắp sáng trưng như
ban ngày, chiếu rõ cái cảnh người đứng lô nhô như luống hoa trăm hồng ngàn tía,
bướm ong chờn vờn. Trên thềm, dưới bậc, giữa đường, non nghìn thiếu niên nam nữ
túm tụm lại, tìm chỗ để đứng ngắm nhau cho đỡ nóng ruột lúc chờ đợi. Tiếng nhạc
hòa trong rạp, du dương trầm bổng, chứa chan biết bao tình tứ ái ân, như câu,
như kéo, làm cho người ta quên hẳn, mà bất giác moi túi lấy tiền mua vé.
Rồi cái làn sóng người dần dà tràn vào trong. Trên
các hàng ghế, chỗ nọ nhắc lại câu bông lơn của kép Tư Bền, chỗ kia bắt chước
điệu bộ của kép Tư Bền. Ai nấy đều nóng ruột sốt lòng, mong cho chóng đến giờ
mở màn sân khấu, để được cười, được vỗ tay, được học thêm vào lối pha trò mới,
để mai làm nhếch mép người yêu.
Vinh dự thay, anh kép Tư Bền! Nhưng mà khốn nạn thân
anh! Người ta biết đâu rằng hiện giờ này, ở nhà, cha anh đương dở chứng khò
khè, chỉ chờ từng phút để thở một hai hơi nữa là hết nợ, và ở trong buồng trò,
anh cũng đương nẫu ruột nhầu gan. Thật vậy, ai ngó vào trong buồng trò mới thấy
được cái khổ tâm của anh Tư Bền. Anh ngồi ủ rũ trước cái gương, bụng thì rối
beng, mặt thì nhăn nhó, nhưng tay vẫn phải sờ vào hộp phấn hồng để đánh mặt, quệt
vào đĩa mực để bôi nhọ cái mồm. Rồi anh phải mặc trái cái áo lụng thụng thêu,
lận đôi hia xanh và đội cái cánh mũ chuồn ngược. Anh đóng vai này, trông ra
phết giàu sang sung sướng. Chốc nữa, anh còn phải làm cho chủ anh bằng lòng,
các bạn anh trông anh mà gắng sức, các khán quan được một phen cười vỡ bụng vỗ
rát tay kia mà! Nhưng mà cha anh Tư Bền sắp chết! Ban nãy lúc anh ở nhà ra đi,
đã thấy nguy lắm rồi. Thôi! nhưng mà mặc kệ. Anh phải quên đi, mà bông, mà đùa,
mà pha trò trên sân khấu, cho chúng tôi cười, hét lên mà cười, cười đến nỗi lăn
ra cả đất chứ?
* * *
Một hồi chuông vừa dứt, màn kéo lên. Một tràng vỗ
tay đôm đốp như pháo nổ để hoan nghênh ông chúa khôi hài. Anh Tư Bền lững thững
bước ra, cúi đầu chào, rồi đứng thần người ra như phỗng một lúc. Tiếng reo,
tiếng hò, tiếng vỗ tay lại làm dữ hơn trước! Mà khách quan thấy anh ăn mặc ngộ
nghĩnh, cái mồm bôi nhọ nhem, thì ai nhịn cười được! Càng thấy anh đứng yên, họ
càng được ngắm, và cho là anh muốn pha trò như thế, nên càng cười già! ác thật!
Vai anh Tư Bền hôm ấy cứ phải đứng trên sâu khấu. Nhất là anh phải làm nhiều
điệu bộ hơn mọi khi. Lắm lúc còn phải rặn ra mà cười ha hả!
Hết cảnh đầu. Sao mà lâu thế! Anh được nghỉ một
chốc, mới nhờ người về xem tình hình cha anh ra làm sao. Rồi anh lại phải ra trò.
Anh lại phải hò, phải hét phải dằn từng tiếng, phải ngân từng câu, phải làm
những điệu bộ, phải cười ha hả như cảnh thứ nhất. Người xem hát thì cứ trông
thấy anh là cũng đủ cười rồi. Nào họ có để ý và nhìn rõ đâu được cái vẻ lo âu
của anh, nó hiện ra ở trước mắt. Bỗng khi anh đương phệnh phạo trên sân khấu,
khi người ta đương vỗ tay đôm đốp, thì anh nghe thấy có người ở trong phòng nói
ra:
- Nguy hơn ban nãy. Đã cấm khẩu rồi!
Cha anh cấm khẩu rồi! Đành vậy, nhưng chính là bây
giờ mới nhiều cái vui trò. Khán giả dưới kia, hàng mấy nghìn con mắt, đương
chăm chắm vào anh và im phăng phắc. Họ chỉ chờ anh há miệng là họ được lăn ra
mà cười và vỗ tay mà thôi.
Cảnh thứ hai cũng lâu như cảnh đầu, mãi mới hết. Lúc
anh đang ngồi thừ trong buồng trò, thì anh lại nhận được tin báo nữa, là hiện
nay cha anh đã mê đặc, chân tay lạnh cả rồi.
Còn gì đau đớn hơn cái tin ấy nữa! Anh Tư Bền bỗng
ứa hai hàng nước mắt, rồi khóc nức nở:
- Cha ơi!
Ông chủ thấy vậy, sợ quá. Anh mà bỏ dở vở kịch đương
vui thì nguy. Ông cố khuyên giải, và cấm không ai được báo tin gì cho anh biết
hết.
Sân khấu bài trí đã gần xong. Ông chủ bắt anh đánh
lại tý phấn cho thêm xuân sắc, và sửa lại bộ áo mũ cho có vẻ ngộ nghĩnh hơn.
Ông thấy anh vừa dắt lại dải áo, vừa sụt sịt mếu máo, thì bắt anh im đi, chùi
nước mắt. Rồi ông đẩy anh ra sân khấu. Anh lại phải hò, hét, ngâm, cười, múa,
nhảy, để mua gượng lấy những tràng vỗ tay. Cái cảnh thương tâm của anh Tư Bền,
đi đôi với cái bông lơn, cứ diễn ra mãi, mỗi chốc lại càng thương tâm hơn lên.
Mà càng thấy vắng bặt tin nhà, ruột anh càng nhàu như dưa, xót như muối.
Cái cảnh cuối cùng mà anh cho là lâu tới, thì khán
giả cho anh là chóng quá. Cho nên khi sắp hạ màn, anh cúi chào, thì cả rạp vỗ
tay đôm đốp thật dài, dài mãi. Anh tưởng phen này quyết hết nợ, quyết được về
cạnh giường bệnh của cha để nhìn mặt cha một lượt sau cùng trước khi tắt nghỉ,
thì ở hàng ghế hạng nhất, người ta kêu ầm:
- Bis! Bis! (1)
Ông chủ rạp lại cho kéo màn lên. Anh Tư Bền lại phải
giấu bộ mặt rầu rầu mà anh thích - vì nó hợp với tâm lý anh hơn, - để vui vẻ mà
diễn lại đoạn cuối lượt nữa.
Rồi khi bài kèn chào nổi lên, hồi vỗ tay sau cùng
như làm vỡ rạp. Cái màn từ từ buông xuống. Anh cúi đầu thong thả chào. Nhưng
bao nhiêu người, chẳng để chậm thì giờ, đã tranh nhau chạy lên gần anh. Người
thì tặng hoa, người thì bắt tay, người thì véo mũi, người thì khen. Làm cho anh
ruột càng như thiêu đốt.
Khi không còn phải thở dài để hoan nghênh những cái
hoan nghênh của công chúng, anh Tư Bền mới lật đật chạy vào buồng trò, cởi vội
mũ áo và rửa quàng mặt mũi.
Lúc ấy, trong khi anh đang rối beng nghĩ đến cha
anh, không biết bây giờ đã lạnh tới đâu, thì một người bạn hát chạy đến, vội vã
ấn vào tay anh tập giấy bạc của ông chủ để sẵn cho anh, và nói:
- Mau mà về. Anh Tư! Hỏng từ ban nãy mất rồi! Khốn nạn
thân anh quá!
1933
Nguyễn
Công Hoan