Mùa Hoa
Trâm Bầu Chưa Kịp Nở
Theo mẹ về Long Chữ từ ngày mới lên mười
hai với đứa em trai, thằng Chương lúc đó chưa tròn ba tuổi, Bưởi đã biết chèo
cái xuồng ba lá cũ kỹ, chỗ hở chỗ lành, phụ mẹ, vớt bông súng vào mùa dọc theo
con rạch Gò Suối, ra tới đầu vàm lớn nơi sông Vàm Cỏ Đông, chảy vào địa phận Bến
Cầu, bưng ra chợ xã bán. Mẹ là người Hớn Quản, làm phu cạo mủ cao su, phải lòng
người thanh niên cũng cùng một nghề, lấy nhau, sinh ra thằng Chương, thì người
đàn ông bỏ đi biệt tăm trong một đêm mưa dầm cuối mùa hạ, lúc có tiếng súng du
kích Việt cộng bắt đầu nổ lai rai, rãi rác đâu đó trên khắp làng trên xã dưới của
miền Nam.
Buồn tủi, nghèo
nàn, mẹ ôm con lếch thếch, lưu lạc trôi giạt về Nam, ngang Phước Long, Bình
Long, qua Thủ Dầu Một rồi ở đây, tại ngã ba Củ Chi, mẹ gặp Bưởi, đứa con gái gầy
còm, da mặt mốc thích, mười tuổi đầu, không cha không mẹ, chạy bán nước trà đá
theo những chuyến xe đò, xe hàng lên xuống Tây Ninh, Hậu Nghĩa, cho người đàn
bà mập mạp, chủ một sạp thức ăn, tóc Bưởi rối bời, vàng úa màu nắng khét, đang
ngồi đếm lại tiền người mua trả dưới bóng mát giữa trưa, bên gốc hàng cây bả đậu
già nua, không thấy hoa thấy trái. Hỏi thăm tình cảnh, mẹ đem Bưởi về nhà ở với
bà, gọi là nhà nhưng chỉ là một cái chái nhỏ, dựng bằng mấy tấm tôn cong queo,
rĩ sét, đen đúa, chung quanh chất đầy bao ni-lông lớn cũ mèm, cột túm cột hờ,
sát nhờ hông tường của một căn nhà ngói, cuối chợ Củ Chi mà người chủ thương
tình cho phép ở tạm, ôm con nhỏ làm nghề lượm vỏ chai, rác rưới quanh chợ,
quanh bến xe, mang bán lại cho mấy chủ vựa phía bên kia đường, gần căn cứ quân
sự của VNCH, ngã về Bình Dương. Về ở với bà, Bưởi vui sướng hẳn lên với hai tiếng
“má ơi”, tiếng mà nó không biết là đã có lần nào gọi ai đó
chưa, Bưởi cũng chưa hề biết cha mẹ là ai và từ phương nào tới đây, và tới giờ
này, thật ra nó cũng không buồn nghĩ tới.
Mẹ Bưởi vất vả từ
sáng tới chiều, áo quần nhăn nhúm, với việc tha lượm vỏ chai, bao bị giấy rác, nhưng
chưa bao giờ thấy bà than van, giận hờn hay to tiếng, Bưởi ở nhà, tập nấu cơm,
coi em, thằng Chương, may mà nó ít khóc, không hờn không giận, Bưởi thương nó
vô cùng, cơm ăn cũng nhín bớt đút cho em, thấy thằng Chương cười là Bưởi vui hết
sức nói, chờ bà về, ngày nào cũng như ngày nấy, cơm nước xong hai mẹ con, tay lựa
ra tay chất vào những thứ bà lượm được trong ngày để kịp đem đi cân bán lại
sáng mai, thả thằng Chương chạy lấp xấp chơi vòng vòng bên cạnh. Giờ thì Bưởi
sung sướng quá rồi, có chỗ nằm ngủ hẳn hoi, trên cái giường đủ cho ba mẹ con
làm bằng ván thông mà bà xin được từ trại lính, không còn nằm co queo, lạnh lẽo
bên góc hiên nhà người, Bưởi thương làm sao, cái hơi ấm tỏa ra từ mẹ và tiếng
ngái ngủ vô tư thơ dại của thằng em nhỏ, cười nhiều hơn khóc, dù chưa biết gì về
cuộc đời. Nhiều hôm, nắm tay em chờ mẹ về, đứng nhìn ra đường, thấy học trò
trai gái, cở tuổi mình, tan học đi ngang qua, Bưởi chợt thấy tủi thân tủi phận
và đã có lúc ước gì, nhưng rồi thôi. Mùa Tết năm đó, hai chị em được mặc quần
áo mới mà mẹ đã để dành tiền mua cho, từ những ngày cuối đông lành lạnh, Bưởi
khóc lên vì vui sướng, làm mẹ cũng chảy nước mắt theo. Hơn hai năm sau, tình cờ,
mẹ gặp lại một người chị bà con xa bên ngoại, từ Bình Dương về, đứng chờ đón xe
đi Tây Ninh ngoài đường lộ, lúc bà đi giao mớ bao vỏ chai còn sót ở nhà chiều
hôm qua, hai người hỏi thăm rối rít đủ chuyện rồi chia tay. Không hơn tháng
sau, ba mẹ con dọn dẹp cái chái nhà, thu xếp quần áo, đồ dùng lặt vặt, quét miếng
đất trống sạch sẽ, trả lại, cám ơn tấm lòng tử tế của người chủ nhà, rồi tay
xách nách mang, chào từ biệt nhưng không dám hẹn ngày gặp lại, đón chuyến xe đò
sớm nhất từ Sài Gòn-Tây Ninh về Bến Cầu trong ngày để kịp xuống đò sang Long Chữ.
Về Long Chữ, mẹ được
người chị bà con xa, hôm gặp ở Củ Chi, hai vợ chồng có căn nhà mái tôn cũ, nằm
giữa đám ruộng tốt tươi, cuối ấp chính, và một số người quen chung quanh, giúp
một tay, dựng giùm căn nhà lợp tranh, vách đất tạm được, trên miếng đất gò nhỏ,
nằm một bên này con đường đất mòn, chạy dọc theo rạch Gò Suối, dẫn ra tới đầu
vàm, có hàng cây trâm bầu cao lớn đầy bóng mát rượi, xa xa phía sau là một cái
nghĩa địa nhỏ, có chừng hai ba chục nấm mồ đất, khô cằn và nứt nẻ. Ngược lên hướng
trên, đường làng tới chợ xã cũng khá xa, nhà dân lưa thưa, lác đác cái đầu cái
cuối, xen kẻ với đất cày và ruộng nước, trâu bò đi nhiều hơn là người. Mẹ làm đủ
thứ việc, cấy lúa nhổ mạ, đập lúa mướn cho bà con có ruộng, giống như người chị,
trong ấp trong làng khi mùa ruộng tới một thời gian, rồi xin ở đâu đó được cái
xuồng ba lá cũ đem về, cột lủng la lủng lẳng ở bên gốc cây trâm bầu lớn đầu con
rạch, tập chèo ghe, theo người quen ra vàm vớt bông súng về, gánh lên bán trên
chợ xã, mẹ cũng biết tát đìa, cắm câu bắt cá, việc nào dễ làm thì mẹ dẫn Bưởi
đi theo chỉ này chỉ nọ. Thấy mẹ siêng năng, hiền hậu, bà con chung quanh ai
cũng thương cũng mến, có vài ba người đàn ông nào đó, muốn gá nghĩa vợ tình chồng,
mẹ dịu dàng nhỏ nhẹ từ chối, mẹ nói “bà
không muốn khổ thêm lần nữa”, nhưng Bưởi không biết “khổ lần nữa là như thế nào”, mẹ không biết chữ nhiều, chỉ dọc được
và viết được chút đỉnh thôi nhưng bà cũng cố dạy cho Bưởi mỗi khi rảnh rổi, lúc
đó, mẹ buồn buồn bảo nó “thôi con đừng buồn,
chắc phần số mình như vậy rồi, để mẹ ráng lo cho em con, tội nghiệp, thử xem
cho nó khá hơn mẹ con mình”.
Mẹ bắt đầu già hơn và xem ra không khỏe
như những ngày trước, đầu tắt mặt tối
cũng chỉ đủ cơm ngày hai bữa, con gái lên mười lăm tuổi, Bưởi thay mẹ, vừa lo
cho em vừa phụ ra đồng, làm thuê làm mướn, quên cả nặng nhọc, giống như mẹ,
không một chút than phiền, nhưng là đã sinh ra là con gái, với tuổi này, Bưởi
đã biết buồn, biết thẹn thùng mắc cở, khi đi ngang đám trai bỏ mạ cấy lúa, nhìn
ngó xì xầm, khi đứng nhìn con nhà ai đâu đó, quần áo rực màu, khách ra người
vô, tươi cười bước lên xe hoa, dù là cái xe lam cũ với mấy nhánh dừa cuốn cong,
ghép vài chùm hoa dại theo chồng về phương nào đó. Cũng từ đó, mẹ nghe được tiếng
Bưởi thở dài ray rứt, lùa tiếng muỗi vo ve trong những đêm khuya lặng vắng
nhưng mẹ chỉ biết ngậm ngùi nín lặng dù hồn mình cũng đứt từng khúc ruột, đau
buồn không ít.
Qua tết, thằng Chương đi học lớp năm ở
trường tiểu học Long Chữ vừa được nửa năm, thì mẹ mất. Sau ngày đi cấy cho đám
ruộng của nhà ông bà tư Lành, đầu xóm trên, gần chợ xã, về nhà, trời tối om và
mưa dầm từ hồi còn sáng sớm, người ướt sũng từ đầu tới chân, dù có khoát cái
bao ni-lông lớn che, mẹ nói mệt và nhức đầu quá, không chịu ăn cơm, nằm vật xuống
giường im thinh thít, Bưởi chạy qua nhà bà chị của mẹ báo tin, vợ chồng dì,
bưng đèn sang, lấy dầu cù-là hiệu con Cọp thoa khắp người, Bưởi nhổ xả nấu nướng
sôi, để mẹ xông như người ta chỉ, vợ chồng người dì về rồi, Bưởi nấu nồi cháo lỏng,
vừa cho em ăn vừa ngồi bên giường chờ mẹ khỏe lại. Sáng hôm sau, Bưởi gởi thằng
Chương cho nhà bên cạnh, theo bà dì cùng với chị y tá của trạm y tế xã, mượn
chiếc xe lam chỡ bà ra bệnh viện dưới Gò Dầu nhưng xe vừa chưa quá nửa đường
thì mẹ Bưởi qua đời, Bưởi ngất lên khóc tức tưởi gọi “má hởi má ơi”, người dì cũng không cầm được nước mắt. Không có đám
tang, không có kèn trống, bà con hàng xóm, một người một tay, đưa mẹ ra chôn ở
cái nghĩa địa làng hoang vắng, ngó qua hàng cây trâm bầu, mùa này hoa vừa nở rộn.
Bưởi chết lặng, tan nát cả lòng, khi nghe thằng Chương hỏi “má đâu rồi chị hai” trên đường trở lại
nhà, đêm đó, ôm em vào lòng, hát ầu ơ ví dầu cho nó ngủ như hằng đêm, mà nước mắt
chảy dài ướt cả cái mền rách cũ của hai chị em đắp chung từ ngày chân ướt chân ráo
về Long Chữ. Sau ngày mẹ mất hai ba hôm, sáng nào cũng như sáng nấy, Bưởi dắt
em ra mộ bà thật sớm, hai chị em đốt nhang khấn lạy, rồi ôm em ngồi khóc ròng,
thằng Chương chắc cũng hiểu được mẹ nó không còn trên đời này nữa nên nức nở
khóc theo, đêm về, tiếng thằng Chương mớ gọi “má ơi” trong giấc ngủ, buồn hơn tiếng ễnh ương kéo dài ngoài mương
ruộng,
Từ đó, Bưởi cũng
như mẹ, cũng chèo xuống ba lá vớt bông súng đầu mùa, làm thuê gặt mướn cho người
láng giềng, cũng cắm câu tát đìa, nuôi em, không than không phiền một tiếng, nhất
quyết lo cho em ăn học, trong cái hy vọng mỏng manh như ngày mẹ còn sống, đời
thằng Chương sẽ phải khá hơn họ. Thằng Chương bây giờ đã lớn, tự một mình, ôm
cái cặp đan bằng lát tre, theo mấy đứa bạn nhà bên kia đường, đi bộ tới trường,
tiếng mầy tiếng tao dưới trời sương sáng hay bụi nắng chiều hôm, dọc theo hàng
cây trâm bầu, hoa rụng ngập trên rạch trong những ngày cuối mùa chờ trái chín tới.
Bưởi không được đẹp nhưng thấy Bưởi nói năng hiền lành, siêng năng chăm chỉ, đi
dứng dịu dàng, nên ba bốn gia đình ấp trên ngỏ lời nhờ người dì, muốn cưới Bưởi
cho con trai họ, nhiều lần bà nhắc chuyện nhưng Bưởi chỉ cười trừ, hẹn lần hẹn
lựa “con còn phải lo cho em, chờ nó lớn
chút xíu, vài năm rồi con tính”. Riết rồi quen, Chương cũng bắt chước chị
mình, chiều đi học về nhà, bỏ cặp, kéo tấm liếp tre che cửa lại, chạy một mạch
ra gò mả, đấp bồi đất mộ mẹ, nhỗ cỏ dại chung quanh, lầm thầm hai ba tiếng,
trong khi chờ Bưởi đi vớt bông súng về, cột cái xuồng vào gốc cây trâm bầu đầu rạch,
gần con đường mòn băng qua ngang nhà, rồi hai chị em người bưng người vác, khệ
nệ nhỏ to “chị ơi chị hởi”.
Chương xuống Gò Dầu
Hạ, vào trung học, may có được cô Nhuần, đang ở với mẹ, bà Tâm, là người ăn
chay trường, làm việc thiện, thường đi cúng ở chùa Thạnh Lâm, dạy môn Sử Địa, có
nhà là căn phố lầu ngay ngã ba, ngó qua bến xe, đầu đường vô trường, thấy hoàn
cảnh hai chị em tội nghiệp, nên sẳn lòng cho Chương ở trọ, không tính tiền tính
bạc gì hết, hai chị em mừng muốn khóc, thỉnh thoảng hai ba lần xuống thăm em,
Bưởi cũng ráng đem theo, xâu cá rô cá trê, trái bí trái bầu, để gọi là chút quà
nhà quê, cám ơn tấm lòng tử tế của bà và cô, năn nỉ lắm hai người mới chịu nhận
nhưng bảo Bưởi đừng làm vậy nữa. Chương dễ thương, học giỏi, siêng năng, ăn nói
nhu mì, phụ việc trong việc ngoài, tiếng dạ tiếng thưa, mỗi khi bà Tâm gọi giúp bà chuyện này chuyện nọ,
Chương cũng thường theo bà mang hoa quả qua chùa, chăm chú nghe hồi kinh tiếng
mõ cho nên hai mẹ con cô Nhuần thương nó không ít, càng ngày càng mến tay mến
chân, đôi khi, Chương về Long Chữ thăm chị, chiều chưa lên kịp, bà Tâm cứ đi tới
đi lui trước cửa nhà, ngó qua bến xe, nhìn lên hướng cây cầu, thở dài thở ngắn.
Cuối hè, chuẩn bị
lên đệ tam, có người bên Long Giang qua hỏi cưới, hai người gặp nhau, hôm đi
theo người quen, mấy ngày qua làm công đập lúa cho gia đình của anh Tín, anh phải
lòng thương chị, gia đình anh qua Long Chữ nhờ người dì nói vô giùm một tiếng,
nghĩ tới nghĩ lui, thằng Chương giờ đã lớn khôn, có nơi nương nhờ tá túc đi học
đàng hoàng, nhà nghèo côi cút có người thương là quá may mắn rồi, vã lại anh
Tín cũng thấy thương, cuối cùng Bưởi bằng lòng, Chương buồn lắm vì hai chị em sẽ
xa nhau, nó sẽ nhớ chị vô vàn, trong đời nó, ngoài mẹ ra, không ai có thể thay
hình bóng chị Bưởi trong đầu nó được, nhưng Chương cũng biết, “chị đã chịu gần một phần ba đời bất hạnh,
khốn khổ, không lẽ chị cứ khổ suốt đời, chị cần có một chút hạnh phúc cho riêng
mình sau những tháng ngày cứ mãi lo cho hạnh phúc người khác”, Chương thấy
vui cho chị và mừng muốn khóc. Trước ngày theo chồng về Long Giang, Bưởi đưa
cho Chương một số tiền mà Bưởi đã dành dụm được từ bao nhiêu năm qua, cất dấu
trong cái túi vải đen củ kỹ, dặn nó tiện tặn xài, nhớ thăm mộ mẹ thường xuyên,
có gì thì chạy qua nhà người dì nhờ giúp, hai chị em dẫn nhau ra mộ mẹ, ôm nhau
khóc sụt sùi, “dạ mẹ con đi, mẹ có linh
thiêng xin về phù hộ cho em con được mọi sự bình an may mắn, con sẽ về thăm mẹ,
khi mùa hoa trâm bầu nở năm sau”.
Ngày giỗ mẹ năm sau, cũng vào mùa hoa trâm bầu nở rồi năm sau
nữa, Bưởi không trở lại nhà như đã hứa, hỏi ra, người dì cho biết, có tin từ mấy
bác quen, nhà ở Long Giang là, Bưởi đã bỏ nhà chồng đi, không ai biết đi đâu,
cách nay chừng chưa đầy một năm, vì không thuận thảo với chị em bên chồng, gian
nan Bưởi không hề quản ngại nhưng luôn bị đối xử bất công, tiếng bấc tiếng chì,
mà anh Tín, chồng chị, không mạnh dạn đứng ra bênh vực cho vợ, có người nói thấy
Bưởi đón xe đi lên miệt biên giới Miên. Chiến tranh giờ lan rộng khắp nơi,
không còn là cuộc chiến của những tiếng súng lẻ loi, lác đác mà của súng đại
liên đại pháo, quân cộng sản miền Bắc đã có mặt nhiều nơi, xem ra trận đánh ngày
càng ác liệt hơn, đậu tú tài một, Chương tình nguyện vào lính, từ trường Bộ
Binh Thủ Đức ra, Chương theo binh chủng Biệt Động Quân, về với tiểu đoàn 41, ở
Kiến Phong Cao Lãnh. Trước ngày ra đơn vị, Chương về lại Long Chữ, giao nhà cửa
cho người dì và nhờ thỉnh thoảng trông coi giùm mộ mẹ, vì đời lính rày đây mai
đó, không biết có về kịp mùa hoa trâm bầu nở bên con rạch nghèo Gò Suối hay
không.
Giữa tháng 12 năm 1971, Tiểu đoàn 41 BĐQ
của Chương, mở cuộc hành quân trong vùng Phụng Hiệp Cần Thơ nhằm đẩy quân cộng
sản, đang tập trung quân, tìm cách tiến sâu vào thành phố ngược về biên giới
Miên. Hai bên đụng dộ dữ dội, cộng sản Bắc việt huy động toàn bộ lực lượng
trong vùng, chận cho được sự tiến công của Biệt Động Quân bằng mọi thứ vũ khí họ
có, cả đại bác qua nhiều đợt tấn công ác liệt suốt cả ngày nhưng bị bẻ gãy và
cuối cùng phải rút lui tháo chạy qua bên kia sông, dưới sự phản pháo của pháo
binh BĐQ từ Cao Lãnh bắn lên. Tiểu đoàn 41 BĐQ có vài người chết, quân cộng sản
bỏ lại mấy chục xác, không kéo theo kịp, nhưng trên đường tháo lui, họ cho gài lại
một nhóm quân cảm tử chừng mười mấy người, nằm phục kích tại mấy cánh ruộng bát
ngát, tìm cách bắn sẻ, làm chậm bước quân đuổi theo, chừng hai ba tiếng đồng hồ,
quân BĐQ vượt qua sông, càn quét ngang khắp cánh đồng, nhiều xác lính cộng sản bỏ
lại với súng AK47 bên mình, nằm dưới nước lấp xấp nửa người.
Chiều chầm xuống, tiếng
súng sau đó tạm ngưng hẳn rồi im bặt, Chương bị thương không nặng lắm ở cánh
tay, được mấy người lính y tá, băng bó tạm tại một khoảng đất gò cao, khô ráo,
dưới tàn lá úa vàng của mấy cây dừa già nua gầy guộc bên cạnh hai ba người sĩ
quan trong toán chỉ huy và mấy anh lính mang máy truyền tin, trên khúc bờ đê, từ
đàng xa, ở ngoài phía ruộng, trong khi từng tốp lính trải ra thu nhặt vũ khí,
gom xác quân cộng sản, có bộ đội, có du kích, nằm chết trong nhiều tư thế, tiểu
đội đi với Chương, khệ nệ khiêng một người nữ du kích Việt Cộng, mặc đồ bà ba
đen, đội nón cối, mình mẩy ướt sủng, đầy máu, vì bị thương khá nặng, có lẽ do
trúng đạn của pháo binh, hậm hực lớn tiếng gì đó đi lên, bỏ nằm trên tấm
bông-sô trải dài dưới đất, Chương gở nón sắt xuống, cầm trên tay, người lính y
tá mang cái thùng cứu thương chạy tới xem qua xem lại, lắc đầu, ngó về phía
ngoài ruộng, lấy tay làm loa gọi lớn “bác
sĩ, bác sĩ “. Chương tò mò, bước lại gần nhìn, rồi quỵ người ngã xuống, cái
nón sắt rớt khỏi tay, lăn vòng vòng trên đất, người y tá hớt hãi la lớn hơn, “thiếu úy Chương, bác sĩ bác sĩ, thiếu úy
Chương”, mấy người sĩ quan, ngồi gần đó cũng vội chạy tới, thiếu tá Hội, tiểu
đoàn phó, xốc nách đở Chương dậy, người nữ du kích bị thương vẫn không nhúc
nhích, mắt nhắm nghiền, môi khô xạm, tóc rối bời, dính từng mảng máu tím bầm
đông cứng, dưới cái nắng chiều còn sót vài tia sáng muộn, Chương vịn tay thiếu
tá Hội, gượng ngồi lên, nhìn người du kích lần nữa, buột miệng “trời ơi chị Bưởi, chị Bưởi”.
Bưởi được phi cơ trực thăng tản
thương, đưa về quân y viện Cần Thơ, cùng với chục người lính BĐQ bị thương
khác, trong đó có Chương ngay buổi chiều hôm đó, người ta đem Bưởi vào khu cấp
cứu với hy vọng cứu sống được, bình nước biển, ống chích, dây chuyền máu giăng
chằng chịt không khác gì mạng nhện, từ đầu tới chân, ngang dọc trên giường, mấy
chị y tá chăm chú, nhiệt tình, người đứng người ngồi, cố làm hết sức, hết bổn
phận mình trong màn đêm lành lạnh. Chương mang băng vải cột kéo cánh tay, đứng ở
đầu giường nhìn, lặng thinh, cố nén lòng đau nhưng không ngăn được nước mắt ứa
ra từng giọt mặn. Chương bắt cái ghế ngồi trước cửa, thỉnh thoảng nhìn vào
trong phòng, miệng nghẹn ngào lầm thầm hai tiếng “chị ơi”, ngoài xa xa vẫn còn nghe tiếng đại bác gầm gừ từng chập một.
Quá nửa đêm, khi người y tá giữ ca trực cuối cùng ra về không lâu thì Bưởi tắt
thở, ra đi không nói được lời nào, Chương lặng câm vuốt mắt chị lần cuối, không
khóc được nữa, và đứng đó như trời trồng cho đến khi nhân viên bệnh viện tới
làm thủ tục, Chương giữ lại cái túi vải mà chị còn mang theo mình, dùng cánh
tay còn khỏe, ngậm ngùi lấy tấm giấy nhỏ, bèo nhèo, úa màu xếp làm bốn ra, để
lên cái bàn nhỏ kê sát đầu giường, dưới ánh đèn vừa đủ sáng, trong phòng, ai ai
cũng ngạc nhiên trố mắt nhìn, thì ra tờ giấy, “như là giấy thông hành, kêu gọi cán binh, bộ đội cộng sản chiêu hồi về
với quốc gia, có hình lá cờ VNCH”, không biết Bưởi đã giữ nó từ bao lâu rồi.
Chương mướn xe đưa xác Bưởi về Long Chữ,
khi được tiểu đoàn cho vài ngày phép, với sự giúp đở của bà con chung quanh ấp
cũ, đem Bưởi chôn cạnh mộ mẹ, hai nấm đất nằm bên nhau, cùng nhìn hướng hàng
cây trâm bầu bên bờ con rạch Gò Suối, nén nhang thơm chia đều, bên mẹ bên chị,
Chương bùi ngùi, nghèn nghẹn khóc. Cuối cùng, dù có trễ chị Bưởi cũng “về lại nhà xưa như đã hẹn hôm ra đi nhưng
không như mẹ, chị về khi mùa hoa trâm bầu chưa kịp nở”.
Thuyên Huy