MỘT CON HỒ ĐỎ
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đặt
niềm tin vào Thiên Cơ. Đa số đạo hữu Cao Đài là người trí thức như Kỹ sư kiêm
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích, Giáo sư Nguyễn Hữu Lương, Giáo sư Nguyễn văn Sâm
v.v...Victor Hugo (1802-1885), đại văn thi hào của Pháp và thế giới,
cũng có niềm tin nầy. Vì vậy, Victor Hugo là một trong số vĩ nhân trên thế giới
được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thờ phượng.
Thiên Cơ đã dạy bảo Đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc (1890-1959) thiết kế xây dựng Tòa Thánh Cao Đài Tây
Ninh, một công trình kiến trúc to đẹp tại miền Nam Việt Nam, mặc dầu Ngài không
phải là một kiến trúc sư và chỉ có bằng Thành Chung (Diplôme d’Études Primaires
Supérieures Indochinoises).
Một lời tiên tri
Do Thiên cơ giáng chỉ, Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ở Tây Ninh đã cảnh
giác về một con hồ đỏ xuất hiện để gây ra một đại họa cho dân tộc Việt Nam.
Mùa hè năm 1941, tại một khu rừng nằm trong địa phận Tòa Thánh Cao Đài Tây
Ninh, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc báo động: “ Ngày nay có một con hồ đỏ, nhân dân
Việt Nam không trử khử nó, ngày mai nó sẽ nhượm đỏ đất nước mình”Lời tiên tri của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã ứng hiện ngay từ năm 1941.
Con hồ gọi nôm na là con chồn, một loài thú rừng rất gian xảo. Theo truyền thuyết của Đông phương, cữu vỹ hồ ly tinh là chúa tể của loài chồn có khả năng hóa thành người đẹp để gây hại cho những người chất phát dễ nghe theo lời đường mật của nó. Truyền thuyết mơ hồ nầy lại trờ thành một hiện thực đau đớn cho đất nước Việt Nam trong thế kỷ 20. Đúng như lời tiên tri của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, một con hồ ly tinh gian ngoan quỷ quyệt từ phương Bắc đến đã gieo mầm trái đắng để bức hại dân tộc Lạc Việt sống trên ba miền Nam, Trung, Bắc Việt Nam phải ngậm đắng, nuốt cay, hứng chịu biết bao tang tóc và đau khổ từ năm 1941 đến ngày nay. Trái đắng đó chính là đảng Cộng Sản Đông Dương, tiền thân của đảng Cộng Sản Việt Nam. Thật vậy, đảng nầy đã được thành lập tại Hong Kong ngày 3-2-1930 với sự tham gia của 7,8 đại biểu, trong đó có Nguyễn Tất Thành, bí danh Nguyễn Ái Quốc, và Hồ Tập Chương, bí danh Hồ Quang, cả hai đều là cán bộ cộng sản quốc tế, thành viên Ban Trù bị thành lập đảng. Một năm sau ngày ra đời bên Tàu theo chỉ thị của Josef Stalin, Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Liên Xô, đảng Cộng Sản Đông Dương đã phát động một cuộc nổi dậy giết người rùng rợn tại Nghệ An và Hà Tỉnh gọi là Xô Viết Nghệ Tỉnh với chủ trương tàn bạọ :“Trí, Phú, Địa, Hào. Đào tận gốc, trốc tận rễ” Từ sau thất bại “Xô Viết Nghệ Tỉnh” đến cuối thập niên 1930, đảng Cộng Sản Đông Dương đã hoàn toàn thúc thủ và phải tạm ngưng hoạt động. Nhưng kể từ năm 1940, đảng Cộng Sản Đông Dương được chỉ thị tái hoạt động nổi loạn giết người tại Nam kỳ năm 1941. Nhưng cuộc nổi dậy đẵm máu gọi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa tại một vài tỉnh miền Đông Nam kỳ đã bị nhà cầm quyền Pháp biết trước và nhanh chóng dẹp tan. Năm 1940, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bí mật đưa một trong bốn điệp viên xuất sắc tên Hồ Quang, từ Quảng Tây đến hang Pác Bó để lãnh đạo đảng Cộng Sản Đông Dương. Địa danh hiểm trở nầy nằm trong tỉnh Cao Bằng giáp ranh Khu Tự Trị của dân tộc Choang trong tỉnh Quảng Tây. Căn cứ địa Pác Bó đặt dưới sự bảo vệ cẩn mật của cán binh cộng sản Tàu võ trang đầy đủ và một số thổ dân Tày do Chu văn Tấn chỉ huy. Một số người làm nghề rừng rủi ro đi lạc vào căn cứ Pác Bó đã bị giết chết thẳng tay trong những năm đầu của thập niên 1940 để bảo toàn bí mật. Nhờ có công bảo vệ Hồ Quang tại căn cứ địa Pác Bó, Chu văn Tấn đã được cho làm Bộ trưởng bộ Quốc Phòng đầu tiên sau khi một vài cán bộ cộng sản cướp được chánh quyền một cách dễ dàng ngày 19-8-1945 từ Nội các Trần Trọng Kim do Hoàng đế Bảo Đại bổ nhiệm.
Năm 1941, nhân vật
thần bí Hồ Quang thành lập tại Quảng Tây Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh
Hội (Việt Minh) để làm một công cụ gieo trồng trái đắng khắp nước Việt Nam. Từ
Pác Bó, Hồ Quang thường len lỏi qua lại biên giới Hoa-Việt để đi về
Quảng Tây công tác cho Sở Tình Báo Hoa Nam và nhận chỉ thị của Chủ
Tịch đảng Cộng Sản Trung Quốc Mao Trạch Đông. Cán bộ Đệ tam Quốc tế Cộng sản và
đảng viên đảng Cộng Sản Trung Quốc, Hồ Quang lại cộng tác với OSS
(Office of Strategic Service) của Hoa Kỳ dưới bí danh Lucius và tình
nguyện phục vụ dưới trướng của tướng Trung Hoa Quốc Dân đảng Trương Phát
Khuê sau khi vị tướng quân nầy bắt giữ y tại Liểu Châu năm 1942 vì tình
nghi là gián điệp cộng sản. Trở về Pác Bó năm 1943 với tên mới Hồ Chí
Minh, Hồ Quang (Quang đồng nghĩa với Minh), một gián điệp dân tộc Hẹ (Khách
Gia) sanh năm 1901 tại Đài Loan, chuẩn bị thành lập một chánh quyền cộng
sản thân Tàu theo kế sách của Mao Trạch Đông. Tháng 8 năm 1945, Hồ Quang
và đảng Cộng Sản Đông Dương đã hoàn thành kế hoạch của Cộng Sản Trung Hoa: cướp
chánh quyền trong toàn quốc và thành lập một ngụy quyền dưới quyền chi phối
của đảng Cộng Sản Đông Dương trá hình dưới danh nghĩa Mặt Trận Việt Nam Độc Lập
Đồng Minh Hội (Việt Minh). Đột nhiên từ trong bóng tối nhảy ra chiếm giữ ngôi
vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mặc dầu không được ai bầu cử, Hồ Chí
Minh đã trở thành Cụ Hồ, Bác Hồ, “Cha Già dân tộc Việt Nam” lúc mới 44
tuổi. Sau khi cướp đoạt chánh quyền chánh thống của nhà Nguyễn năm 1945, Hồ
Quang trở thành nguyên thủ quốc gia kiêm Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam nhưng
đồng bào trong nước không biết ông ta là ai và có công trạng gì đối với đất
nước và dân tộc Việt Nam. Vài năm sau, Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam cố gắng làm
sống lại một người Việt đã qua đời từ năm 1932 trong vai trò lãnh tụ cộng sản
của nước Việt Nam trong thời kỳ cách mạng vô sản. Nhân vật đó là Nguyễn Tất
Thành, một cán bộ cấp thừa hành của Đệ tam Cộng sản Quốc tế từ năm 1924. Vì
sống nghèo khổ tại thủ đô giá lạnh của nước Pháp từ 1917 đến 1923, Nguyễn Tất
Thành mắc bịnh lao phổi trầm trọng và đã qua đời tại Hong Kong năm 1932
vì trong thập niên 1930 chưa có thuốc trụ sinh Streptomycin để chửa bịnh lao
phổi. Trong một Báo cáo gởi Cộng sản Quốc tế, Hà Huy Tập, Tổng Bí thơ
thứ ba của đảng Cộng sản Việt Nam, xác nhận Nguyễn Tất Thành đã bị “ám sát” năm
1932 trong nhà tù của thực dân Anh tại Hong Kong. Báo chí Hong Kong cũng đăng
tin Tống văn Sơ tức Nguyễn Tất Thành đã qua đời.
Hồ Chí Minh là người Tàu
hay người Việt?
Hồ Chí Minh là một người có
trên 200 tên đã phục vụ Liên Xô, Trung Cộng, Hoa Kỳ, Trung Hoa Quốc Dân Đảng và
Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Hoa Nam trước khi đến nước Việt thi hành một sứ
mạng bí mật theo sự bố trí của Chủ tịch đảng Cộng Sản Trung Quốc Mao Trạch
Đông. Ngày 2-9-1945, lần đầu tiên Hồ Chí Minh công khai xuất hiện trước công
chúng tại Ba Đình, Hà Nội, đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập (lần thứ 2 sau Tuyên Ngôn
Độc Lập ngày 11-3-1945 của Hoàng đế Bảo Đại), đồng bào không biết ông ta là
người Việt hay người Tàu. Nhưng lúc bấy giờ có một người Hẹ bán thịt heo ở chợ
Hà Nội đã nhận diện qua giọng nói tiếng Việt ông ta là một người Tàu, dân tộc
Hẹ (Khách Gia, Hakka). Ngoài ông Cắc Chú nầy, một số ít người sống và hoạt động
lâu năm bên Trung Hoa trong Quân đội cộng sản Tàu như Thiếu tướng Nguyễn Sơn
cũng biết rõ chính đảng Cộng Sản Trung Quốc thông qua Tổng Cục Tình Báo Hoa
Nam đã bí mật đứng trong bóng tối yểm trợ, đánh bóng và thần tượng hóa Hồ Chí
Minh trở thành một siêu sao trên vòm trời Việt Nam. Vì vậy, Hồ Chí Minh không
thích Thiếu tướng Nguyễn Sơn và giao trả ông ta về Trung Quốc. Năm 1947,
hai năm sau ngày Hồ Chí Minh xuất hiện tại Hà Nội, nhà văn học nổi tiếng của
Đải Loan Ngô Trọc Lưu viết một quyển sách tựa đề “Hồ Chí Minh” bằng
tiếng Nhựt tiết lộ Hồ Chí Minh tên thật là Hồ Tập Chương, người
Tàu dân tộc Hẹ (Khách Gia), một người bạn của ông ta.
Sau khi Hồ Chí Minh đi
xuống tuyền đài ngày 2-9-1969, có năm nguồn tin đã được công bố với một kết
luận giống nhau:
1- Theo giáo sư sử học Hồ Tuấn Hùng ở Đài
Loan, Hồ Chí Minh tên thật là Hồ Tập Chương, người dân tộc Hẹ, sinh năm
1901 tại Đài Loan trong cùng một gia tộc với tác giả quyển Hồ Chí Minh
Sinh Bình Khảo, xuất bản tại Đài Bắc vào tháng 11 năm 2008. Tác giả Hồ Tuấn
Hùng xác nhận theo các tài liệu trong văn khố của nhà cầm quyền Anh ở Hong
Kong, Tống văn Sơ (bí danh của Nguyễn Tất Thành lúc hoạt động tại
Hong Kong) sau khi bị Cảnh Sát Hong Kong bắt giữ năm 1931 đã được chữa trị bệnh
lao phổi trầm trọng trong một bệnh viện bài lao và đã chết năm 1932. Nguyễn Tất
Thành đã mắc bệnh lao phổi lúc ở Paris (1917-1923). Về mặt y học, bệnh lao
phổi vào thập niên 1930 không chửa trị được vì phương Tây chưa phát minh
thuốc trụ sinh Streptomycin. Mãi đến ngày 19-10-1943, Sinh viên Cao học Albert
Schatz, thành viên một nhóm nghiên cứu y học của Hoa Kỳ dưới quyền điều
khiển của Bác sĩ Selman Abraham Waksman, mới khám phá ra thuốc
Streptomycin. Đến năm 1946, thuốc Steptomycin mới được đem ra thí nghiệm trên
lâm sàng để chửa trị bệnh lao phổi.
2- Căn cứ một bài viết của Huỳnh Tâm tựa đề
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phiên Bản Của Tình Báo Trung Quốc đăng trên Blog
danlambaovn, một số tài liệu của Tình Báo Trung Quốc hiện còn lưu trử tại hai
cơ quan Tình Báo ở Hoa Nam và Bắc kinh đã được giải mã. Các tài liệu đã giải
mã, đặc biệt là Sổ Tay của Đặng Bình Ánh (ĐBA), xác nhận nhân vật đã được đảng
Cộng Sản Trung Quốc gởi đến căn cứ Pác Bó năm 1940 là Hồ Tập Chương mang
bí danh Hồ Chí Minh từ năm 1932. Hồ Tập Chương là một điệp viên của
Trung Cộng có năng khiếu về tình báo và biết nói nhiều thứ tiếng: Hẹ, Quảng
Đông, Quan Thoại, Nhựt, Nga, Pháp và Việt.Tuy nhiên, Hồ Tập Chương viết và nói
tiếng Việt và tiếng Pháp còn nhiều sai lầm vì mới học. Tiếng Hẹ có thanh âm gần
giống tiếng Việt và tiếng Quảng Đông. Nếu so sánh chử viết trên lá đơn đề ngày
11-9-1911 của Nguyễn Tất Thành xin nhập học trường Thuộc Địa của Pháp
với chữ viết của Hồ Chí Minh trên nhiều văn bản, nhứt là bản Di chúc của
ông ta, mọi người đều nhận thấy có một sự khác biệt nổi bật. Viết
tiếng Việt không rành, Hồ Chí Minh cầm bút sắt hay bút bi như viết chữ Hán (cầm
bút lông).
Tác giả Huỳnh Tâm còn phát
hiện một tài liệu hiện còn lưu trử tại Học Viện Quân Sự Tình Báo Bắc kinh ghi
rõ như sau: “ Hồ Tập Chương thay mặt đảng Cộng Sản Đông Dương tham dự
Quốc khánh của Trung Quốc ngày 1-10-1950 đã tuyên bố như sau:
“ Từ ngày có đảng ta khai
hóa được nhược tiểu chư hầu Việt Nam đến với trào lưu nghĩa vụ Cộng sản Quốc
tế, nay kính dâng lên Đảng tùy nghi sử dụng cơ sở Cộng Sản Đông Dương.
Mao Chủ tịch muôn năm”.
3- Năm 2014, Trung Quốc chánh thức xác định Chủ tịch Hồ Chí Minh của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân
dân Giải phóng Trung Quốc đã phục vụ trong Bát lộ quân. Địa bàn hoạt động
của Hồ Quang là tỉnh Quảng Tây.
4- Năm 2015, Cục Văn Thư và Lưu Trử của nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng xác nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là Thiếu tá
Hồ Quang của Quân đội Trung Cộng.
5- Trong một bài viết tháng 1 năm 1949 tựa đề “Đảng
ta”dưới bút danh Trần Thắng Lợi, Hồ Chí Minh đã viết như sau: “Cuối năm 1929,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương
Cảng. Trong số 7,8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (tức Hồ
Chí Minh), nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cữu, đồng chí Tán
Anh (Lê Tán Anh) và vài đồng chí nữa đã oanh liệt hy sinh cho đảng và cho dân
tộc lâu trước Cách mạng tháng 8”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, trang 547, Nhà
xuất bản Chánh trị Quốc gia, 2000).
Năm nguồn tin kể trên có cơ
sở đúng đắn và khả tín:
- Giáo sư sử học Hồ Tuấn
Hùng ở Đài Bắc là một người trí thức trẻ trung thực trong công tác khảo cứu sâu
rộng và không có ân oán gì với các bên lâm chiến trong hai cuộc chiến tranh
Việt Nam từ 1945 đến 1975. Giáo sư Hồ Tuấn Hùng còn là cháu của Hộ Tập Chương
và Hồ Tập Dưỡng (em của Hồ Tập Chương)
- Các tài liệu của Tình báo
Trung Quốc đều được mã hóa để bảo mật nội dung. Sự chính xác của các tài liệu
nầy có thể tin tưởng được.
- Hai bản Công bố của nước
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là văn
bản chánh thức của Nhà nước.
- Hồ Chí Minh toàn tập là
một văn kiện chánh thức của đảng Cộng sản VN
Ngoài năm nguồn tin vừa kể,
chúng ta cần lưu ý đến mặt tình cảm của con người Việt Nam đối với thân
nhân sau một thời gian xa cách lâu dài. Nếu Hồ Chí Minh thật sự là Nguyễn Tất
Thành tức Nguyễn Sinh Cung, con của Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, thì ông ta không
thể từ chối tiếp một lần người chị ruột Nguyễn thị Thanh tức Bạch Liên đã lặn
lội từ Nghệ An ra Hà Nội thăm em sau khi cách biệt từ 1910 đến 1945; ông ta
cũng không buồn đến dự đám tang của người anh cả Nguyễn Sinh Khiêm tức ông Cả
Khiêm và bà chi Nguyễn thị Thanh khi hai người thân nầy qua đời. Hồ Chí Minh
chỉ về Nghệ An sau khi ông anh cả Nguyễn Sinh Khiêm và bà chị Nguyễn thị Thanh
không còn ở trên thế gian nầy để khỏi bị lộ diện thân phận giả trá.
Căn cứ năm nguồn tin kể
trên và một số thông tin chính xác khác, tôi khẳng định Hồ Chí Minh không
phải là Nguyễn Tất Thành, một người Việt, mà là Hồ Quang, bí danh của Hồ
Tập Chương, một người Tàu gốc Hẹ.
Nguồn gốc của người lãnh tụ
tối cao đảng Cộng sản Việt Nam
Theo nhà văn Bình Nguyên
Lộc (Tô văn Tuấn) trong tác phẩm đắc ý “Nguồn gốc Mã Lai của người Việt
Nam”, Sài Gòn, 1971, tổ tiên người Hẹ đã định cư trên đất Thục (Tứ Xuyên ngày
nay). Sau khi nhà Hán đánh chiếm đất Thục, giết vua Thục, dân tộc Hẹ di cư đến
sinh sống đông nhứt tại Quảng Châu (bao gồm Quảng Đông và Quảng Tây) và Phước
Kiến. Dân tộc Hẹ đã sản sinh ra một số đại nhân vật như Tôn Dật Tiên (Trung
Hoa), Lý Quang Diệu (Singapore), Đặng Tiểu Bình (Trung Quốc), Lý Đăng Huy (Đài
Loan). Khi nước Tàu có biến loạn, nhiều người Hẹ ở Quảng Đông, Quảng Tây và
Phước Kiến đã di tản qua Việt Nam làm ăn sinh sống tại các tỉnh thành
miền Nam cũng như tại những vùng giáp giới hai nước Việt-Hoa như thành phố Móng
Cái tiếp giáp với tỉnh Quảng Tây. Vì vây, khi đi kinh lý Móng Cái lần đầu tiên
năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất thích thú có dịp gặp nhiều cư dân gốc Hẹ và nói
tiếng Hẹ với họ một cách lưu loát. (Xem Trần Đĩnh, Đèn Cù I và II ). Dưới
thời Pháp thuộc, làn sóng di dân của người Tàu qua Việt Nam đã được dành cho
nhiều dễ dàng để bù trừ lại việc nước Pháp hất ảnh hưởng của nước Tàu ra khỏi
Việt Nam.
Ngoài khả năng nói tiếng Hẹ
lưu loát, còn có một số thông tin đúng đắn khả dĩ chứng minh Hồ Chí Minh là
người Tàu gốc Hẹ:- Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân dân Giải phóng Trung Quốc đã hoạt động tại Quảng Đông và Quảng Tây để thường có dịp tiếp xúc với người dân tộc Hẹ lập nghiệp tại hai địa phương nầy. Từ miền Bắc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường qua lại tỉnh Quảng Tây. Ông ta cũng đã chọn thành lập trường đào tạo Thiếu niên Việt Nam tại Lư Sơn trong tỉnh nầy.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh tự nhận là tác giả của tập thơ Lao Trung Nhật Ký: 134 bài thơ trong tập thơ nầy đã được viết bằng Hán văn trác tuyệt với nhiều thành ngữ đặc biệt của dân tộc Hẹ. Nguyễn Tất Thành chỉ có trình độ Hán văn sơ cấp, chỉ nói được tiếng Quảng Đông, không nói được tiếng Hẹ và tiếng Quan thoại, không thể làm thơ bằng tiếng Hán và cũng không thể thông thạo các thành ngữ đặc thù của dân tộc Hẹ.
- Trong Tuyên Ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh sử dụng cụm từ “Lâm thời Chánh phủ”. Đó là lối nói và viết của người Tàu, đặt tính từ (adjective) trước danh từ (noun) cũng như người Anh và Mỹ.
- Trước khi hồn phách bay về cố quốc, Hồ Chí Minh muốn nghe một bản nhạc Tàu do một cô xẩm hát tại Hà Nội.
- Nhớ lại mối tình với Lâm Y Lan tại Quảng Châu và Hạ Môn, Hồ Chí Minh đã lấy lá cờ đỏ sao vàng của tỉnh Phước Kiến làm cờ đảng Cộng sản Việt Nam và muốn rước Lâm Y Lan qua Hà Nội chung sống với ông ta.
- Quyển sách “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” do Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết bằng chữ Hán, xuất bản tại Thượng Hải năm 1949, dịch ra tiếng Pháp tại Paris năm 1950 rồi dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt năm 1951. Nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Ái Quốc, tại sao một người Việt không viết quyển sách nầy bằng tiếng Việt mà phải dùng chữ Hán ? Vã lại, với trình độ thấp kém về Hán văn, Nguyễn Tất Thành không có khả năng viết sách bằng tiếng Hán.
Tội ác của Hồ Chí Minh đối
với đất nước và dân tộc Việt Nam
1-Gây ra hai cuộc chiến
tranh nồi da xáo thịt trong 30 năm (1945-1975)Nhằm mục đích thực hiện giấc mộng bành trường của Trung Quốc xuống Việt Nam và Đông Nam Á, Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa cộng sản và lợi dụng lòng yêu nước của dân tộc Việt để phát động hai cuộc nội chiến giữa người Việt anh em nhưng khác biệt ý thức hệ. Áp dụng triệt để các giáo điều của chủ nghĩa Mác-Lê, đảng Cộng Sản Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã tận dụng bạo lực để chiếm đoạt chánh quyền trong cả nước Việt Nam với các chánh sách, chủ trương và hành động tàn độc dã man chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam dưới thời quân chủ và Pháp thuộc. Hai cuộc nội chiến giữa người Việt quốc gia và người Việt cộng sản đã giết hại cả chục triệu mạng người, gieo tang tóc và đau khổ cho tất cả gia đình đồng bào trên cả ba miền Nam, Trung, Bắc, tàn phá nặng nề đất nước Viêt Nam vừa thu hồi độc lập với bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên ngày 11-3-1945 của Hoàng đế Bảo Đại. Ba mươi năm chiến tranh tàn khốc đã làm suy yếu nội lực của nước Việt, gây ra hận thù giai cấp, chia rẽ dân tộc, dần dần tạo ra tinh thần nô lệ ngoại bang, xem nhẹ Tổ quốc.
Nhờ viện trợ quân sự hùng hậu của Trung Cộng, đảng Cộng Sản Việt Nam đã chiếm được miền Bắc sau khi ký kết Hiệp định Geneve năm 1954 phân chia nước Việt Nam ra hai miền Nam Bắc. Người giúp bộ đội Việt Minh chiến thắng quân Pháp tại Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 là Thượng tướng Trưởng Đoàn Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh, một người dân tộc Choang ở Quảng Tây có quan hệ mật thiết từ trước với Thiếu tá Hồ Quang tại tỉnh nầy. Theo đuổi ý đồ dùng chiến tranh để giết chết dân tộc Việt, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng phát động cuộc Chiến tranh Việt Nam lần thứ hai (1954-1975) gọi là “Chiến tranh chống Mỹ cứu nước”. Sử dụng chiêu bài giả dối thống nhất đất nước, người “Cha Già dân tộc Việt Nam” gốc Tàu đã thúc đẩy dân tộc Lạc Việt phải tiếp tục bắn giết nhau như kẻ thù không đội trời chung. Cuối cùng, đảng Cộng Sản Việt Nam do Thiếu tá Tàu Hồ Quang rèn luyện và dạy bảo đã nhượm đỏ cả nước Việt Nam nhờ sự thay đổi chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ từ năm 1972.
Triệt để thi hành kế sách
thâm độc của Trung Quốc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã liên tục tiến hành hai
cuộc chiến tranh trong 30 năm để tiêu diệt dân tộc Việt Nam, hết
đánh Pháp rối lại đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng đúng y như lời tuyên bố của
Tổng Bí thư Lê Duẫn:
“ Chúng ta đánh Mỹ là đánh
cho Trung Quốc, cho Liên Xô và cho các nước xã hội chủ nghĩa”
2-Tiêu diệt lãnh tụ các
chánh đảng quốc gia, giáo chủ các tôn giáo và nhân sĩ, trí thức
Với tinh thần độc tôn và độc
ác, Hồ Chí Minh không dung tha các tổ chức chánh trị và cá nhân có uy tín và
khả năng tranh đoạt chánh quyền với đảng Cộng sản. Ngoài các chánh đảng và nhân
vật quốc gia, Hồ Chí Minh cũng lên án tôn giáo là một loại thuốc phiện ru ngủ
quần chúng. Vì vậy, sau khi cướp được chánh quyền của nhà Nguyễn và Nội các
Trần Trọng Kim, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị Bộ trưởng Nội Vụ Võ Nguyên
Giáp, một bộ hạ tâm phúc đắc lực của ông ta, ban hành quyết định đặt Việt Nam
Quốc Dân Đảng ngoài vòng pháp luật và ra tay trừ khử lãnh tụ và cán bộ của các
chánh đảng quốc gia (Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt
Duy Dân, đảng Lập Hiến, đảng Quốc Gia Độc Lập, đảng Dân Xã), đảng viên Đệ tứ
Quốc tế Cộng sản, Giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo. Tuân lịnh Võ Nguyên Giáp, cán bộ
Việt Minh cộng sản trong toàn quốc đã tàn sát một số lớn nhân sĩ, trí thức và
tinh hoa của dân tộc Việt Nam.
3-“Rèn cán, Chỉnh quân”
Nhằm mục đích Hán hóa dần
dần các sĩ quan và cán bộ Việt Minh, Hồ Chí Minh đã phối hợp với các Cố vần Tàu
thực hiện kế hoạch “ Rèn cán, Chỉnh quân” để loại bỏ các sĩ quan
Việt Minh thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản và đưa thành phần bần
cố nông ít học vào hàng ngũ sĩ quan của bộ đội Võ Nguyên Giáp. Từ năm 1950,
Trung Cộng đã mở hai trung tâm đảo tạo quân sự tại Nam Ninh (Quảng Tây) và
Kaiyuan (Vân Nam) phụ trách huấn luyện quân sự các sĩ quan Việt Minh và
tuyển chọn người trung thành với Trung Quốc. Song song với việc viện
trợ quân sự giúp Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đánh quân Pháp, Hoa Kỳ
và Việt Nam Cộng Hòa, Trung Cộng đã tiến hành kế sách đào tạo người cộng sản
Việt Nam trở thành người học trò tốt, tuân lệnh và ngoan ngoãn theo lời chỉ
dạy, thi hành nhiệm vụ rập theo khuôn mẫu Trung Quốc. Mục tiêu của kế
sách Trung Quốc là phá tiêu tan nguồn sinh lực của dân tộc Việt Nam và buộc
đảng Cộng Sản Việt Nam phải triệt để trung thành với đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam phụ trách Việt Nam có nhiệm vụ cài đặt nhân sự
vào các cấp đảng và chánh quyền cộng sản Việt Nam, trải rộng khắp mọi nơi.
Để thống trị dễ dàng nước
Việt Nam và nhanh chóng sát nhập nước ta vào đế quốc Đại Hán, đảng Cộng sản Tàu
đã chỉ thị “cơ sở đảng chư hầu An Nam” do Thiếu tá Hồ Quang lãnh đạo và rèn
luyện:
- Giết sạch tầng lớp
nhân sĩ, trí thức và tinh hoa của dân tộc Việt để nước Việt Nam không còn
người lãnh đạo sáng suốt và chuyên viên có nhiều tài năng;
- Liên tục gây
chiến tranh để tiêu diệt người Việt càng nhiều càng tốt với võ khí do Trung
Quốc cung cấp và tàn phá tối đa đất nước Việt Nam;
- Đẩy mạnh đấu tranh
giai cấp và tận dụng bạo lực của chuyên chính vô sản để gây ra hận thù vô
phương hàn gắn giữa đồng bào người Việt khác biệt địa phương, chánh kiến, tôn
giáo và thành phần xã hội;
- Thi hành chánh sách
Cải Cách Ruộng Đất rập theo khuôn mẫu Trung Quốc để tàn sát dã man trên
172,000 đồng bào ở nông thôn miền Bắc từ 1952 đến 1956;
- Tạo lập một đội ngũ
cán bộ cộng sản trung thành với Trung Quốc. Những người cộng sản Việt Nam
đã có can đảm nói lên lập trường “đời đời nhớ ơn Trung Quốc” và “ không được
vong ân bội nghĩa” đối với Đại Hán như Đại tá Trần Đăng Thanh của Học Viện
Chánh trị Bộ Quốc Phòng phải được trọng dụng. Thuộc thế hệ trước Trần Đăng
Thanh, thi nô Tố Hữu (bí danh Lành), Trưởng Ban Văn Hóa Tư Tưởng đảng Cộng Sản
Việt Nam, là người đứng đầu trong đội ngũ cán bộ cộng sản trung thành với Trung
Quốc. Hán nôTố Hữu luôn luôn được nhân dân Việt Nam nhớ đến với hai câu thơ vô
tổ quốc sau đây:
“Bên ni biên giới là nhà”
“Bên kia biên giới cũng là
quê hương”
4-“Trăm Năm Trồng Người”
Hồ Chí Minh lúc sinh thời
đã nhiều lần dạy bảo các cấp lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam về kế hoạch “Trăm
NămTrồng Người”: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới
xã hội chủ nghĩa. Để đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam trung
thành với hai đảng Việt Cộng và Trung Cộng, một trường “Thiếu niên Việt Nam” đã
được thành lập tại Lư Sơn (Quảng Tây) thâu nhận và huấn luyện trẻ em Việt Nam
từ 9 đến 15 tuổi trong nhiều năm để trở thành những cán bộ nồng cốt của đảng và
nhà nước Việt Nam triệt để trung thành với hai đảng Cộng sản Việt Trung. Nhiều
người tốt nghiệp trường “Thiếu niên Việt Nam” ở Lư Sơn, Quảng Tây, đã và đang
giữ những chức vụ lãnh đạo trong Đảng và Nhà nước Việt Nam. Một số đã là thành
viên của bộ Chánh trị đảng Cộng sản, Chánh phủ và Ban Thường vụ Quốc Hội. Một
trường hợp điển hình là việc trọng dụng Hoàng Trung Hải, một người Hoa
tốt nghiệp trường “Thiếu niên Việt Nam” ở Quảng Tây, trong chức vụ Bộ trưởng bộ
Tài Chánh và Phó Thủ tướng đăc trách các dự án Đầu Tư.
5-Hán hóa Việt Nam
Ngay từ năm 1951, một năm
sau khi Hoa quân nhập Việt giúp Việt Minh đánh Pháp, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Trường
Chinh (Đặng Xuân Khu), Tổng Thơ Ký đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) mới
thành lập, công bố một bản Hiệu triệu nhân dân Việt Nam bỏ chử Quốc ngữ để học
chử Hán, bỏ Tây y để dùng lại cao đơn hườn tán và xin làm chư hầu của Trung
Quốc. Tinh thần thần phục Hán tộc đã được thể hiện thông qua nhiều hình thức
của “Quyền lực mềm” (Soft power), nhứt là việc ưu tiên sử dụng người Việt gốc
Hoa, dạy trẻ em Việt Nam học tiếng Hán ngay từ cấp 1, thành lập các Viện Khổng
Tử và hạn chế học sử Việt trong thời đại Hồ Chí Minh mà thôi.
6-Chuyển nhượng chủ quyền
lãnh thổ Việt Nam cho Trung Quốc
Hồ Chí Minh đã đi bước đầu
trong quá trình sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc: ra lịnh cho Thủ tướng Phạm
văn Đồng của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản) gởi Công
hàm ngày 14-9-1958 đến Thủ tướng Chu Ân Lai của Quốc Vụ Viện Trung Quốc để
chánh thức công nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Hiện nay, Trung Quốc đã lợi dụng Công hàm Phạm văn Đồng để
chiếm đoạt hầu hết Biển Đông của Việt Nam. Bản đồ 9 đoạn của Trung Quốc (gọi là
Lưỡi Bò) nhiều nơi đi sâu vào Vùng Đặc Quyền Kinh tế 200 hải lý, Vùng Tiếp cận
Lãnh hảỉ 12 hải lý hoặc Lãnh hải 12 hải lý của Việt Nam. Hồ Chí Minh và Phạm
văn Đồng đã đi xuống địa ngục nhưng đã để lại một di hại vô cùng trầm trọng cho
đất nước Việt Nam. Công hàm Phạm văn Đồng đã thật sự chuyển giao cho Trung Quốc
chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và
làm mất quá nhiều tài nguyên dồi dào của Biển Đông, chận bít đường đi ra hải
phận quốc tế của tàu thuyền Việt Nam vì Biển Đông hay Biển Nam Hải (South China
Sea) nay đã trở thành một nội hồ của Trung Quốc đã có căn cứ quân sự, bến
cảng lớn và chắc chắn sẽ có hệ thống Nhận Dạng Phòng Không (Air Defense
Identification Zone) của Tàu Cộng như trên Biển Hoa Đông (East China Sea).
Kết luận
Vì nhận thấy Đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc có viễn kiến sáng suốt về một con hồ đỏ sẽ gieo trồng trái đắng
để tàn sát nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ra lịnh cho Việt Minh trừng phạt
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ bằng cách giết chết ngay từ năm 1945 1,720 đạo hữu Cao
Đài tại Quảng Ngải và trên 1,000 chức sắc và đạo hữu Cao Đài tại bìa rừng Tòa
Thánh Cao Đài Tây Ninh.
Ngoài ra , Hồ Chí Minh đã
hai lần ra chỉ thị cho Cao Triều Phát (1889-1956), một đại địền chủ ở
Bạc Liêu theo Việt Minh, mưu sát vị lãnh đạo Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, lần
đầu tiên với sự trợ giúp của Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, thành viên Ủy Ban
Kháng Chiến tỉnh Tây Ninh. Nhưng âm mưu sát hại vị lãnh đạo Đại Đạo Cao Đài Tây
Ninh bất thành vì Cao Triều Phát chấp nhận chịu chết dưới tay Hồ Chí Minh thay
vì ám hại người đồng đạo đức cao trọng vọng. Cao Triều Phát, một nhân sĩ trí
thức người Việt gốc Hoa, nguyên quán Triều Châu, Trung Hoa, đã tập kết ra Bắc
Việt sau khi hiệp định Geneve được ký kết ngày 20-7-1954. Đức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc đã về trời tại Pnom Penh từ năm 1959 nhưng nhà cầm quyền cộng sản vẫn còn
căm thù Ngài. Năm 1978, đảng Cộng sản kết tội Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là phản
quốc, hại dân, chống phá cách mạng. Mới đây, ngày 27-8-2015, hai tên côn đồ
ngang nhiên mang giày xông vào Hộ Pháp Đường trong Tòa thánh Tây Ninh, một tên
dùng búa đập lên trán pho tượng Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc còn một tên quay
phim, chụp hình. Sau khi đập phá xong, hai tên côn đồ nầy ung dung lên xe chạy
đi mất.
Ngày nay, dưới ảnh hưởng
nặng nề của Hồ Chí Minh, một điệp viên Tàu tàn ác có nhiều quỷ kế thâm độc
nhưng được thần thánh hóa trong lúc còn sống cũng như sau khi qua đời, dân
tộc Việt đã dần dần bị nô lệ hóa dưới ách thống trị của các Thái thú bản xứ
của Hán tộc; so với thời Pháp thuộc, nước Việt đã mất đất, biển, hai quần đảo
Hoàng Sa-Trường Sa, cao nguyên Trung Phần, rừng đầu nguồn, tô giới Tàu và rất
nhiều tài nguyên quốc gia. Sự tồn tại của nước Việt Nam với tư cách một
thành viên của Liên Hiệp Quốc chỉ còn trên danh nghĩa mà thôi. Ngày nước Việt
Nam chánh thức trở thành một quận huyện hoặc một Khu Tự trị trực thuộc
tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc không còn xa. Lời tiên tri của Đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc từ năm 1941 đã trở thành hiện thực. Trong hiện tình đất nước, nếu
không muốn sử dụng “Quyền lực của quần chúng” và “Quyền dân tộc tự
quyết” để phục hồi nhân quyền và các quyền tự do dân chủ của công dân một
nước độc lập, 87 triệu đồng bào không cộng sản ở quốc nội
sẽ phải chấp nhận thân phận
nô lệ của người bị trị. Dầu muốn hay không, họ cũng bắt buộc phải tiếp tục thờ
phượng người “Cha Già dân tộc” gốc Tàu theo kế hoạch của đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục xây dựng vô số tượng đài Hồ Chí Minh từ khắp trong nước ra đến các
nước ngoài như tại thị trấn Newhaven, Anh quốc, nơi có một người thợ nhồi bột
mì tên Nguyễn Tất Thành làm việc chân tay cho một tiệm bánh mì của người Pháp ở
London trước năm 1917.
California, 15-9-2015
Thẩm phán Phạm Đình Hưng304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment