Monday, November 10, 2025

Ở Đó Thu Nơi Này Hạ - Nguyễn Đạm Luân

 Ở Đó Thu Nơi Này Hạ




Đà Lạt Trăm Năm: Màu Của Tiếng Vó Ngựa - Người Hàng Tỉnh

 

ĐÀ LẠT TRĂM NĂM: MÀU CỦA TIẾNG VÓ NGỰA

 

Tôi vẫn đang ở Đà Lạt. Thế mà có lần tôi giật mình nhớ “Đà Lạt”. Có cái gì đó đang “gõ” vào tôi thế này, gõ êm lắm, thân thiết ở một đoạn đời đi mây về gió…

Buổi đó tôi ở giữa hai ngả sống, phong trần mơ mộng hoặc thực dụng hiện sinh. Bấm nút hiện sinh. Từ đó tôi tần tảo. Buổi đó tôi thường cuốc bộ.

Buổi đó Đà Lạt không cần tưng bừng.

Buổi đó, bạn vong niên phố lạnh này sống bằng nghề lâm nghiệp, Phạm Ngọc Lai, đã lặng lẽ viết bản tango cho chính mình hát với sắc thái câu nhạc: “Một chiều nhạc ngựa về buông vó mềm…”.

Vó ngựa đi trong chiều đã liêu trai, nhưng đi trong mưa thì thành huyền ảnh. Thì ra đâu đó người nơi này từ lâu đã xem tiếng vó ngựa là hơi thở rồi. “Lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc” cứ thế gõ xuống mặt đường lạnh câm. Bởi phố quá yên, người quá thưa, nhà cửa quá rời, xe cộ quá hiếm. Xứ sở như thường hằng thinh lặng, ngậm đầy một nốt si giáng. Phố chỉ chờ đợi tiếng vó ngựa. Những thanh âm mỏng tanh đó chia sớt lên cho những tàng cây n’ho (thông) thân mật. Xe ngựa lững thững qua phố, qua rừng, qua dinh thự, qua chợ rau, chợ cá lớn bé gần xa, và còn thấy băng qua cả đồi Cù, “trái tim” của phố xứ.

Từng chuỗi tiếng vó ngựa lướt qua thảng hoặc, rồi hàng phố lại trở về lặng lờ như cũ. Ngày qua ngày nó thế. Năm qua năm nó thế. Vó ngựa rải vào đâu tuyệt hơn bằng rải xuống núi đồi. Lơ thơ, mơ mộng.

 


Xe thổ mộ Đà Lạt đi phố, ở khu trung tâm Hòa Bình ngày nào. Ảnh: Đặng Văn Thông

Vó ngựa nhả ra “Đà Lạt”. Tiếng vó ngựa uốn cong những con đường. Đồi núi mê hoang. Đồi núi ngạo nghễ và kiêu hùng. Đồi núi khiêm nhường và bản lĩnh.

Vó ngựa xô những thung sâu xuống sâu hơn. Trôi bạt những phồn hoa bắt chước, học đòi. Khinh bạc văn minh cơ khí. Giễu nhại xã hội công nghiệp ở các miền xứ xa. Đến làn sương như còn hoài cổ ngay khi nó tắm trong tiếng vó ngựa thồ. Kiến trúc gọi tên. Hàng phố mơ màng. Cái gì chạm tới thuần khiết mà không hòa vào trời xanh. Mà không tan vỡ tim tôi. Rằng nơi đây là miền thanh cảnh, xứ du lịch. Phố lạ, như “giai nhân” chứa không đủ nhân tình.

Người Đà Lạt ăn không nhanh, đi không vội, nói không hét, đâu đó nó tựa thần thái thong dong của tiếng vó ngựa thồ. Đà Lạt chỉ là Đà Lạt thôi. Vó ngựa chỉ là vó ngựa thôi. Vó ngựa và giai nhân. Vó ngựa và thời gian.

Tôi thương tiếng vó ngựa.

oOo

Là một kẻ nhập cư, tôi hòa vào nhịp đời thế đó của Đà Lạt. Một Đà Lạt của nghiêm chỉnh, của cần lao, của cỏ cây, của hàn lâm, của nông nghiệp, của tu viện, của học viện, của giáo đường, của thiền đường, của phúc âm, của chánh pháp, của khoa học, của nghệ thuật, của bán buôn, mà hoạt động nghỉ dưỡng du lịch chỉ là một phần rất nhỏ bé trong tích hợp ấy. Buổi sáng của những ngày cuối tuần, tôi bước lên những chuyến xe ngựa như thế để đến những khu du lịch mà chụp hình dạo cho du khách. Du khách lưa thưa, khách du không có ùn ùn. Xe thổ mộ chở mọi người, từ kẻ chợ búa đến cô cậu học trò, lữ khách; từ cô bác nông dân luôn mang ủng đến mấy anh chàng công chức mặc veston; còn dụng cụ lao động, giỏ cần xé bằng tre thì người xà ích bố trí lủng lẳng hai bên hông nó. Chẳng có ai “trên” – “dưới”, chẳng có ai “sang” – “hèn”…

Thổ mộ lộc cộc vào ban mai, lộc cộc trong nắng vàng, lộc cộc trong giá lạnh, lộc cộc trong hoàng hôn, ngày chói chang lẫn ngày âm u. Thứ thanh âm “nam tính”, trượng phu cho một xứ sở mang “tính” nữ. Tiếng gõ lộc cộc sao nó gợi giống âm: “đời vô thường”, “đời vô thường”, “đời vô thường” quá. Nghe như lời kinh cầu, nhắc nhở. Mà nó cũng rất giống âm: “Mày một cuốc. Tao một cắc. Mày một cuốc. Tao một cắc”, ở chuyện mưu sinh nơi người đời. Mà không chỉ gõ trên đường phố, gõ ở khu Hòa Bình, ven hồ Xuân Hương, nó rải về ngoại ô Đa Thiện, Tùng Lâm, Nam Hồ, Sở Lăng, Cầu Đất, Vạn Thành, Thái Phiên, Chi Lăng, Trại Hầm, Trại Mát…

Bước chân ngựa nhẹ êm trong những vườn lơ ghim. Nó chở những bao phân xác mắm vào tít những vạt rau ẩn trong rừng n’ho mà các cô bác nông dân đang đợi. Chỉ xe ngựa mới len lỏi được vào hốc núi mang những cần xé rau củ ra ngoài. Buổi này người ta coi rừng núi quý lắm, không dễ để cả gan muốn là mở đường băng qua rừng cho xe hơi tung hoành. Nó cứ như muốn khắc hằn vào những chỗ đó, cái chỗ làm nên hồn vía Đà Lạt chứ không phải mấy cái khách sạn hay khu điểm xem – chơi – xả xú páp – chụp hình của du khách.

Khó mà xóa nhòa được ở tâm trí này hình ảnh những con ngựa hết lòng kéo cho được những cần xé chất đầy rau củ ra khỏi những vườn đất đỏ feralit giúp người. Có cái gì đó vừa riêng biệt vừa gần gũi, vừa xa hoa vừa tần tảo, vừa thân thiện môi trường vừa thân thiện cuộc sống tự nhiên. Phường nào cũng có đôi mảnh đất hoang dành cho xe ngựa đỗ. Trường học, rạp phim, bệnh viện nào bên hông chẳng có những chiếc xe ngựa đứng đợi người. Những bến xe ngựa be bé phía trước hoặc phía sau các chợ. Điểm du lịch nào cũng không thể thiếu bãi xe ngựa ở phía ngoài.

 

Tranh Đinh Cường.

Người ta có thể đón xe ngựa ở bất cứ điểm nào trên lộ trình chuyến xe thổ mộ ấy đi qua. Ai lên xe trước thì được ngồi giữa xe, ai lên sau thì rắp mình vào chỗ tự thấy hợp lý còn lại, và bác xà ích cũng không cần phải làm cái việc sắp xếp. Luật bất thành văn, cứ mỗi khi xe lên một con dốc thì đàn ông trên xe tạm nhảy xuống để con ngựa được bớt tải trọng… Thứ nền nã thuận hòa, lành mạnh, văn minh tự nhiên, không lý trí. Dùng trái tim, tâm hồn, sự tinh tế để sống.

Vượt trên một phương tiện vận chuyển, hình như những chiếc thổ mộ kia đã thành văn hóa của một vùng đất.

oOo

Tiếng vó ngựa thương người Đà Lạt. Nó thương cả tôi, kẻ ngụ cư.

Những cuối ngày, giao cho xong những tấm hình tới tay du khách rồi mà vẫn còn nghe vó ngựa nào đó ngang qua chỗ trọ. Ở đây là thế, như hòa thượng Thích Viên Như trong một ca khúc của ngài “Phố xá nằm nghe khúc giao mùa”. Tiếng vó ngựa trong đêm khuya càng thăm thẳm. Gió khuya đứng lặng, nhường ngai cho vó ngựa lên ngôi. Nghe như một gã say quên thời gian, ngày tháng. Nghe như những lâu đài nát tan. Nghe như cỏ rêu đang mọc trên những dinh cơ hoàng triều cương thổ. Nghe như ông Năm Yersin ở Suối Dầu đang nhớ cao nguyên lạnh. Nghe như dư vang người đẹp Nam Phương đang oằn lòng vì bị bội tình bởi lời thề nhất mực thủy chung của quân vương.

Nhiều lúc chả hiểu tiếng vó ngựa đó sao nó lại sinh thành.

Đà Lạt như một đô thị hóa thân.

Hóa thân để nối kiến trúc vào trời xanh, nối người đời vào thiên nhiên, nối cỏ cây vào trí tuệ, nối lịch sử vào lịch sử và băng trên lịch sử. Nó không có bóng dáng của thắng thua, trách móc, hận thù. Hòa cả tiếng vó ngựa vào gạch gỗ, đất đai.

Đà Lạt cứ thế, như thể thành phố cuối cùng còn dung chứa cho xe thổ mộ, cho tiếng vó ngựa…

oOo

Rồi nào ngờ những tiếng vó ngựa cũng xa tôi. Nó đẩy tôi vuột mất thứ nhạc đời. Nó bị “trảm”. Xóa sạch. Chắc là xóa đi “quê mùa”, lỡ thời, “lạc hậu”. Chắc là để Đà Lạt “văn minh”, “tân tiến”. Nhường chỗ cho cơ khí, tiện lợi và sự bộn bề đang chờ phía trước. Xóa đi cái chuỗi xoắn kép, nhiễm sắc thể, cái “DNA” của xứ sở. Lịch sử vận tải trên mặt đất đã sang trang, xe ngựa đã làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó, thế mà có kẻ vẫn còn hoài niệm nó thế này!

Bữa tiệc nào tàn mà chẳng còn dư vị. Thôi, cứ để nó lộc cộc lên ký ức. Tôi vượt qua, nhưng không biết những cung đường chập chùng mênh mông kia có mơ dấu ngựa. Mà đâu chỉ nó xa tôi, nó xa hết thảy mọi người. Nó còn trong bản nhạc của anh bạn nhạc sĩ nghèo người Đà Lạt, Lê Huy Cầm: “Chú ngựa già leo lên dốc đá. Chuyến hàng xa bây giờ có nặng”. Nó còn ở đâu đó trong tranh của Đinh Cường, danh họa vẽ nhiều về Đà Lạt và tự xem mình là đứa con danh dự của Đà Lạt.

Tiếng vó câu đã tắt, đâu đó từ sau năm 2000. Tắt một sắc màu riêng biệt cao nguyên. Tắt một thuở thanh bình…

Nguyễn Hàng Tình

Nguồn:Người Đô Thị

Từ trang DĐQGHCUC

 

 

Sunday, November 9, 2025

Một Chuyến Xe Lam - Bết - Ta - Võ Hồng

Một Chuyến Xe Lăm-Bết-Ta *




Chiếc xe Lăm-bết-ta chạy vun vút bấp chấp những lỗ ổ gà lớn bằng cái rổ, bằng cái thúng. Trong xe chỉ có một người thanh niên, một chị đàn bà bế con nhỏ, một chú “ết” và Thuận. Tất cả sức nặng của đám hành khách nhỏ nhoi này không đáng gọi là sức nặng nên bốn người tha hồ nhảy nhót trên hai cái băng. Phải bám hai tay vào thanh sắt lắp dọc theo trần xe. Phải gắng dồn tất cả trọng lượng của mình xuống mông. Nếu không sức vồng sẽ đẩy cả bốn người lọt xuống sàn xe. Thật khác xa với mươi ngày trước đây khi đoàn người xin nước Thánh ùn ùn kéo về Suối Đỗ. Xe Lăm-bết-ta Nha Trang – Thành chạy từ bốn giờ rưỡi sáng khi Ấp chiến lược chưa kịp mở, chạy đến bảy giờ tối. Xe nào cũng đầy ắp người. Số hành khách luật định là sáu người nhưng tài xế xếp đến mười ba, mười bốn. Thùng thiếc đủ cỡ lớn nhỏ, đòn gánh góp nhặt đủ kiểu treo ngổn ngang ở móc, xếp có ngọn trên mui xe, bỏ lổn ngổn dưới sàn xe. Người đi xin nước Thánh có khi là những người đàn bà da vàng như nghệ, những cụ già tê liệt đi phải có người đỡ, những ông nông dân vạm vỡ bắp thịt tỏa ra sức chiến đấu. Có tin chính quyền được lệnh làm khó dễ những người đi xin nước từ ngày Bầu Quyền ở Quảng Nam linh thiêng. Viện Pasteur phân chất nước suối tuyên bố trên báo là nước có nhiều vi trùng. Phóng viên địa phương của một số nhật báo viết những bài phóng sự và lập luận theo thông cáo của chính quyền. Nhưng dân chúng nô nức đi lấy nước bất chấp khoa học và vệ sinh, mặc kệ binh lính cản ngăn, lớp đi bằng xe Lăm-bết-ta, lớp đi bằng xe ngựa, lớp đi bộ. Những chiếc xe “ca” lớn chở đầy khách từ Sài Gòn ra, từ Đà Lạt xuống. Xe Lăm-bết-ta tha hồ chạy. Xe chạy đường Cần Đá, đường Đồng Đế cũng bất chấp luật lệ chở khách chạy thẳng về Suối Đỗ. Thật là thời đại hoàng kim của xe Lăm-bết-ta. Xe chạy ì-ạch, chạy hết nổi, mỏi mệt rã rời. Người ngồi chen nhau, đùi cạ vào nhau không day trở được. Tài xế nói cười như con sáo. Những chuyến về, xe đã ì ạch càng ì ạch thêm. Ngoài những thùng nước đầy ứ, người hành hương còn mang theo về những củ bí kỳ nam quăn quẹo sù sì chất đầy cả sàn xe. Người ta chuyền miệng cho nhau ca tụng về dược tính quí giá của loại củ này. Xắc mỏng ngâm rượu hoặc sấy lấy nước uống thì trừ được chứng tim yếu, hồi hộp, máu xâm, mất ngủ. Người dân địa phương khéo bao trùm xung quanh củ đó một màn sương huyền bí linh thiêng:

 

“Đấy: thì củ bí kỳ nam to bằng cả một trái dừa lửa chớ có nhỏ đâu? Dây của nó leo chằng chịt ở thân cây rừng đó chớ có trốn đi đâu? Vậy mà mắt mình nhìn tới như mù, đố có thấy được củ nào. Trong khi đó thì người đi sau mình lại thấy được, lại hái. “Bà” mình cho ai hái thì chỉ có người đó thấy mà thôi”.

Có quyền phép của “Bà” tác dụng đến, mỗi củ bán được một trăm bạc. Với những bà Sài Gòn béo tốt cổ đeo vòng ngọc và ngón tay chật ních những cà rá kim cương thì củ bí kỳ nam lên giá đến hai trăm, ba trăm. Sau mươi ngày tự do đi lại thì có lệnh cấm lấy nước, cấm triệt để. Trên đường quốc lộ, có từng chặng thấy có những thùng thiếc ném ngổn ngang. Chắc là cảnh sát hay quân đội đánh đuổi hung hăng lắm nên người đi xin nước mới sợ hãi đến quăng cả thùng như vậy. Thuận thấy thương hại cho thân phận thăng trầm của những chiếc thùng. Ngày Suối Đỗ linh thiêng giá thùng thiếc ở chợ cao vọt lên. Thùng gì bán cũng được tiền: thùng dầu hỏa hai mươi lít, thùng dầu hột bông Cottonseed do Mỹ viện trợ, thùng Shell cũ đựng dầu máy. Ở khu thợ thiếc, tiếng búa đập loảng xoảng từ tửng mửng sáng đến tối mịt. Có lẽ dưới thời Xuân Thu Chiến quốc khi có lệnh động binh người ta rèn đúc khí giới cũng chỉ nhộn nhịp rộn ràng như vậy là cùng. Ở trong các khu phố, những bà nội trợ được dịp lục lọi các xó xỉnh để lôi ra trăm thứ “đựng được”: thùng, chai, lọ… chúng được súc, rửa, kỳ cọ rồi chụp lên đầu những cây trụ rào. Ánh nắng dọi xuống, bị hắt lên, lóe sáng như cây trụ rào cũng biết nở hoa.

Liền sau đó, có tin Bà Thánh thiên về một hồ nước nào đó ở mạn Dalat. Suối Đỗ trở về địa vị thiên nhiên khiêm tốn của nó. Các quán tranh dựng dọc đường lên suối được dỡ đi. Những vỏ bưởi, vỏ chuối, bã mía, lá gói bánh… của khách hành hương dần dần xám đi, mũn đi, ngã theo màu đất, lẫn với rác cỏ. Từng xe cam nhông chở củ bí kỳ nam ở Ban mê thuột đem xuống bán. Tước bỏ giá trị linh thiêng, món hàng thương mại này được lùa về nằm ngổn ngang ở chợ Đầm, chợ Xóm Mới, bằng lòng với giá mười lăm đồng, mười đồng, rồi năm đồng một củ. Trong khi đó thì những bác tài xế Lăm-bết-ta chửi thề trở lại. Thời thế cạnh tranh mật ít ruồi nhiều, chạy một chuyến có được hai chục bạc đã là may lắm. Đậu xe ở đầu chợ Thành để nhặt những bà nội trợ xách giỏ đi chợ về, mỗi bà chỉ trả một đồng để đi hai cây số mà trên xe phải chịu bộn bề những giỏ, những xách, những vịt, những gà, heo con, bầu bí lổn ngổn. Bác tài xế hôm nay vừa định “de” xe vào chợ thì thấy bóng ông cảnh sát đứng lù lù đó, tay lăm le quyển sổ và bút chì chờ biên phạt nên nhấn ga cho xe chạy vút tới. Bao nhiêu tức giận bác trút vào đôi cánh tay cử động hung bạo, và đôi mắt nhìn khoặm xuống, vào cái xương hàm bạnh ra. Thuận hối hả đã đi nhằm cái xe hục hặc này.

Chị đàn bà bế con nhỏ thuộc loại hiền lành nhút nhát chắc thường bị mẹ chồng và hàng xóm ăn hiếp nên quen tính rụt rè, không dám lên tiếng bảo xe chạy chậm lại mà chỉ xoay qua quay lại liên tiếp để giữ cho đứa con khỏi bị xốc. Anh thanh niên thì vừa nhịp chân vừa huýt sáo bản nhạc “Cầu sông Kwai”. Thật là khéo chọn nhạc khúc. Ngồi trong xe mà có cảm tưởng như mình đếm bước rộn ràng đi vào rừng chặt gỗ làm cầu thật, Thuận thì đánh đu cả hai tay vào thanh sắt đóng ở mui xe như một con vượn sắp sửa chuyền cành. Chú “ết” người nhỏ thó tuổi chừng mười bốn, mười lăm cứ từng chặp thò miệng ra sau xe nhổ một bãi nước bọt.

Xe chạy băng băng. Leo dốc. Qua cua. Vượt lên cầu. Những ông nhà quê đứng tuổi đi xe đạp nai nịt ống quần như lính lệ, luống cuống tránh dạt vào lề đường, ngã chúi trên bờ cỏ, quay mặt lại chửi nói gì đó. Xe vẫn lầm lũi bỏ chạy. Quá ngôi đình xã Diêm An, chợt chú “ết” la lên:

-Tốp! Tốp! Có người đón xe. Tốp!

Bác tài xế hãm phanh một cách khó nhọc. Mọi người quay lại nhìn ra sau xe. Cách hơn trăm thước một người đàn bà mặc áo dài đen cắp nón hăm hở chạy tới. Bác tài rà rà cho xe chạy lui. Thuận ngạc nhiên thấy người đàn bà có lòng ái mộ một chuyến xe như vậy. Đường này đâu phải thiếu xe? Cứ năm phút là có một chuyến. Việc gì phải te tái chạy đuổi theo hàng trăm thước thế kia? Khi xe lui lại gần thì người đàn bà dường như hết thở nổi. Đó là một bà nhà quê chừng bốn mươi tuổi. Da mặt tuy rám nắng nhưng hồng hào. Hoa tai vàng, quần lĩnh Mỹ A: bà này thuộc hạng khá giả ở thôn quê. Bà không lên xe vội mà đứng dưới đường bảo bác tài:

-Nhờ ơn bác cho xe vô con đường rẽ kia. Nhà tôi ở gần đó. Tôi có đứa con nhỏ bị bệnh phải đưa đi nhà thương.

-Không được, – bác tài quay ra trước xe vặn vặn tay lái dáng như sắp sửa rồ ga cho xe chạy. – Đợi xe sau mà đón.

-Tội nghiệp tôi mà. Đứa nhỏ tôi nó trúng gió nặng quá.

-Tôi phải đưa hành khách về Nha Trang. Trễ giờ của người ta sao được?

-Nhờ ông làm ơn làm phước. Nhà tôi ở gần kia. Ngay con đường rẽ vô đó. Con tôi nó bị trúng gió…

Người tài xế nhíu mày không trả lời. Chị đàn bà bế con tay nắn bóp hai bàn chân nhỏ của đứa bé. Im lặng. Chợt người thanh niên cất tiếng nói:

-Trễ năm, mười phút cũng không sao. Bác chịu khó vô chở giúp người ta. Con người ta cũng như con mình.

Người đàn bà tươi tỉnh nét mặt, tiếp lời ngay.

-Dạ. Tội nghiệp tôi mà, con tôi cũng như con bác.

Bác tài xế dáng chừng chỉ đợi một câu nói ưng thuận của một người hành khách và sự im lặng của những người kia để bác quyết định. Bác nói:

-Thật phiền quá. Thôi, bà lên xe đi.

Xe nổ, chạy vài chục thước rồi rẽ vào con đường làng. Đường đắp đất, nhô lên thụt xuống, xe phải chạy rất chậm. Hai bên đường là vườn, là lũy tre. Xe không đậu ở cổng thứ nhất, cũng không đậu ở cổng thứ nhì. Con đường bỏ xóm nhà ở, đi vào giữa cánh đồng hẹp. Hai bên là ruộng. Lúa thời con gái xanh mướt. Một con mương dẫn thủy nhỏ chạy dọc theo con đường. Xe nhô lên thụt xuống. Tiếng máy rì rì rồi rống lên từng chặp. Từ nãy giờ Thuận im lặng. Anh ngồi đưa mắt nhìn người thanh niên. Nét mặt hiền lành và tâm hồn dễ thường cũng vô tư như bản nhạc vẫn tiếp tục được huýt sáo. Thuận ngượng đến xấu hổ khi nhớ đến lời của anh ta nói lúc nãy:

-Con người ta cũng như con mình.

Đáng lẽ câu nói đó phải do mình nói – Thuận nghĩ. Người thanh niên chắc chắn là chưa có con. Khuôn mặt non, chân râu mới lờ mờ như lông tay. Trong khi đó mình đã làm cha, đã từng nhiều lần cúi mình xuống giường bệnh của con hồi hộp nghe tiếng thở khò khè hoặc hổn hển, tay rờ trán rờ chân xem nóng lạnh.

Mình đã từng chạy quáng quàng đi mời thầy thuốc, đã từng bế con ngồi trong xe để đến phòng mạch bác sĩ. Những đêm thức trắng ôm con trên tay hay ngồi cạnh giường con, những dòng nước mắt lặng lẽ chảy vì lo sợ và vì thương cho con phải một mình chiến đấu với cơn đau. Những kỷ niệm ấy dồn dập về trong óc Thuận và bóp mạnh ở tim.

Đáng lẽ câu “Con người ta cũng như con mình” là câu phải do mình nói, – Thuận cứ lặp lại ý nghĩ đó. Mình ích kỷ muốn xe chạy thẳng về nhà cho sớm, bỏ người đàn bà đó lo lắng hồi hộp trên đường. Mà nào sáng nay mình có bận việc gì cho cam? Về đến nhà vào khoảng mười một giờ, rửa mặt nằm nghỉ đến mười hai giờ ăn trưa. Về sớm hay chậm mười lăm phút, nửa giờ, điều đó không có lợi có hại thực tế gì cho mình hết. Nhưng mà chỉ vì mình có quyền, với năm đồng bạc, bắt buộc người lái xe chạy thẳng nên mình thích sử dụng quyền đó thôi. Mình không muốn ai động chạm đến nó. Không hẳn là vì ích kỷ, bởi trên thực tế nó có mang lại ích lợi gì cho mình đâu. Có lẽ đó chỉ là cái lối bủn xỉn vụn vặt của một con người mang nhiều ẩn ức, nhiều bực bội, chịu đựng nhiều thiệt thòi, nhiều sự bất công nên khăng khăng bám giữ những quyền lợi nhỏ nhặt nào còn sót lại.

Thuận thở dài nghĩ tiếp. “Có lẽ tại mình phản ứng quá chậm. Mình cũng muốn giúp đỡ người đàn bà đó, nhưng mình chưa kịp nói…”

Chợt thấy xe nhảy vồng lên làm Thuận giật mình. Người đàn bà ngồi trước mặt đưa một ngón tay chỉ vào túi áo sơ mi của anh:

-Tờ giấy bạc của ông sắp rơi ra kia.

Thuận vội cúi xuống, thấy tờ giấy năm đồng nhoi mình lên gần rời khỏi miệng túi. Anh đưa ngón tay đẩy nó rơi sâu xuống đáy túi. Mỗi khi lên xe, bao giờ anh cũng chuẩn bị tờ giấy năm đồng bỏ ở túi áo sơ mi để khỏi lục lọi ví khi xuống xe. Anh nói:

-Cám ơn bà.

Người đàn bà mỉm cười và quay sang bắt chuyện với chú “ết”:

-Trời mới tháng Giêng mà nắng quá.

-Bà ở còn xa không?

-Lại cái nhà đằng kia. Cái nhà ở đằng đầu đường, đứng đây ngó thấy đó.

Thuận vừa nhận sự tử tế của người đàn bà. Điều đó làm anh thêm ngượng. Ai cũng tốt ở xung quanh anh. Người thanh niên. Và bây giờ đến người đàn bà có đứa con bị trúng gió nặng. Đáng lẽ với mối lo phiền to lớn đó, người đàn bà uể oải không muốn nói gì, không muốn giúp đỡ cho ai hết. Có ai bắt buộc bà phải nhìn thấy tờ giấy bạc suýt rơi của anh đâu? Bà có thể thấy nhưng lại bỏ nhìn chỗ khác. Còn cả ba người nữa trong xe mà. Trách nhiệm đáng để dành cho những người rảnh rỗi tâm tư kia. Ấy thế mà bà vẫn ân cần đối với người lầm lì ngồi trước mặt.

Thuận tự xét mình và thấy mình dù sao cũng đã xấu tính một cách đáng giận.

Con đường hẹp lại. Xe chạy rì rì tránh những mô đất.

-Sao lâu tới vậy? Nhà bà ở chỗ nào? Bộ bắt xe tôi chạy tới chân núi Đồng Bò sao? – Tiếng bác tài xế gắt gỏng bực bội.

-Nhờ ơn bác cho xe chạy tới cái nhà kia mà. Cái nhà có đứa nhỏ đứng ngoài sân đó.

Quả ở đầu xóm có một ngôi nhà ngói cũ kỹ nơi đó một đứa gái nhỏ đứng ở gốc đu đủ chong mắt nhìn ra xe. Chắc nó nôn nóng đợi má nó về để đưa đứa em bệnh đi nhà thương.

Xe dừng lại trước cổng. Người đàn bà nhảy phóc xuống, nhưng không đi thẳng vào cổng mà lại te tái đi nhanh về ngả khác. Bác tài hỏi to:

-Chớ không phải nhà của bà ở đây sao?

-Không phải. Nhà tôi ở… xích xích vô trong xóm kìa.

Bác tài dơ hai tay lên trời, nguyền rủa những gì không ai nghe rõ. Chịu không được không khí nóng hừng hực ở mui xe dọi xuống, mọi người nhảy xuống xe. Chỉ có chị đàn bà be con ngồi lì, nét mặt thất vọng rõ rệt. Chị phải lấy nón quạt lia lịa cho đứa nhỏ. Những người đàn ông lợi dụng thì giờ chia nhau đứng tiểu ở các bụi cây. Chú “ết” tiểu loãng xoãng xuống mương nước. Người thanh niên đứng gần bác tài nói chuyện gì đó nhưng dáng chừng câu chuyện rời rạc. Thuận đếm bước dưới bóng cây vú sữa đứng sát bên đường.

Gió thổi mát. Nắng vàng rung rinh. Những đứa nhỏ trong xóm tập trung lại đứng bên xe nhớn nhác nhìn, trong khi các con mắt nôn nóng chong chong nhìn về cái ngõ xóm sâu thăm thẳm rồi mất hút sau vòng rẽ. Thuận tưởng tượng thấy một đứa nhỏ nằm quấn trong khăn kín mít và do người mẹ nặng nhọc bế đi ra. Cũng có thể là đứa con lớn hơn nằm trên cái võng, cũng quấn kín trong một chiếc chăn dạ và do hai người khiêng. Người mẹ chạy hơ hãi một bên. Nhưng tha hồ cho anh tưởng tượng, con đường vẫn vắng ngắt, mịt mù. Thỉnh thoảng có những bóng người hiện ra nhưng đều là những bóng con nít hiếu kỳ chạy ra coi một chuyến xe bất thường. Bác tài xế sốt ruột đi cùng cậu “ết” vào thẳng trong xóm.

Anh thanh niên đi theo. Thuận không thấy bực mình vì bị mất thì giờ mà thấy lòng mình thanh thản. Có lẽ do anh bớt hối hận khi nhìn người thanh niên không còn giữ vẻ mặt hăng hái như lúc nãy. Bác tài thì chắc chắn là đang hối tiếc vì sự dễ dãi nhẹ dạ của mình. Trễ cả chuyến xe. Thuận đang mê mải nhìn một bầy cá rồng rồng dỡn nước thì có nhiều tiếng người ồn ào làm anh quay lại. Bác tài xế dẫn đầu đi ra. Đến anh thanh niên. Chú “ết”. Người đàn bà lúc nãy. Một cô gái chừng mười bốn tuổi. Một bầy trẻ con. Không thấy cái võng khiêng. Không có một cái chăn dạ xám quần sùm sụp một đứa bé bị trúng gió nặng. Anh sốt ruột cất tiếng hỏi:

-Chớ đứa nhỏ trúng gió nặng đâu?

Bác tài gượng cười giơ một ngón tay chỉ ra đằng sau. Người thanh niên im lặng. Thuận chẳng hiểu ý họ muốn nói gì. Khi đoàn người đi lại gần xe, anh mới chợt hiểu. Người bị trúng gió nặng là cô bé mười bốn tuổi đó. Cô bé béo người đẫm thấp. Dáng đi vững vàng, không có triệu chứng bệnh hoạn nào cả. Tuy vậy người mẹ vẫn chốc chốc đi lùi lại đằng sau để trông chừng.

Mọi người lên xe. Bà mẹ xuýt xoa cầm cánh tay con đẩy lên xe, còn tay kia thì để hờ chuẩn bị bế. Miệng nói nhẹ và cặp mắt dịu:

-Con coi chừng. Bước lên rai rải. Con.

Cô con gái hẩy cánh tay mẹ vừa lẩm bẩm:

-Bà này!

Đôi lông mày nhíu lại tỏ dáng không bằng lòng. Rồi cô bước một bước dõng dạc lên xe, xoay người lại, ngồi gọn gàng. Người mẹ bước lên theo, ngồi bên cạnh. Một giỏ mây đặt kề bên đùi để lộ những trái cam mới hái, cuống lá tươi xanh chen với những cái trứng gà. Thực phẩm bổ dưỡng cho bệnh nhân.

Xe rồ máy. Lần đi ra thật khó khăn vì phải tránh một bầy trâu. Những con trâu nặng nề ngước cặp mắt hoang dại lên nhìn rồi huơ cặp sừng cong đe dọa. Thân hình chắc nịch đó, cái cổ vững vàng đó, cặp sừng nhọn sắc đó như chỉ cần sấn tới, quất ngang một cái là cỗ xe nhào chổng vó xuống ruộng lầy ngay. Vượt quá được bầy trâu thì lo tránh một lũ học sinh ôm sách vở chạy quáng quàng trên đường về nhà. Nhìn lên cô gái ngồi đó, lũ học trò chỉ trỏ.

-A, “bà” Dậu. Bà Dậu đi lăm-bết-ta.

-Bà Dậu lũ bay ơi.

-Ngon ghê hả? Hôm qua bà Dậu không đi học.

-Chết! Tránh… Thầy…

Lũ học trò đứng dạt ra sát ven đường. Một người trạc hăm lăm tuổi mặc sơ mi trắng đầu trần đi một chiếc xe đạp sáng loáng. Một chồng vở sách buộc ở sau xe. Lũ học trò cất mũ. Người con gái liếc nhìn qua ông thầy giáo, đỏ mặt cười bẽn lẽn rồi quay vào trong xe. Bà mẹ hỏi:

-Ông thầy giáo phải không con?

Người con gái ấm ớ:

-Ông nào ở đâu…

-Tao nhớ ông thầy giáo mà. Chủ nhật tuần trước tao nhớ ông thầy có lại thăm cha mày mà.

Người con gái lắc đầu nhíu mày tỏ dáng không muốn nghe nói.

Xe khó nhọc vượt ra hết con đường xóm. Đến quốc lộ, Thuận nhìn đồng hồ. Hơn hai mươi phút để đi đón người “bị trúng gió nặng” này.

Xe trở về con đường quốc lộ băng băng mở tốc lực như người tù nay được giải phóng, gặp lại bạn cũ gặp lại tình nhân, tha hồ thao thao cười nói. Gió nồm thổi vùn vụt, vùn vụt vào cửa xe. Chị bế con nhỏ xoay trở mọi cách để cầm nón che gió cho con. Cô Dậu thì mặt mày tươi tỉnh hẳn lên, trút bỏ những nét bần thần lúc nãy.

Áo bà ba ni-lông mỏng dính sát vào da, in rõ đôi vai tròn và cánh tay vạm vỡ. Da mặt hơi rám nắng một chút và có ửng hồng nơi đôi gò má. Tóc kẹp trễ xuống lưng nên có nhiều sợi bay lòa xòa trước trán. Thuận không giấu được nụ cườikhi nhìn cô Dậu đang ngồi ưởn mặt ra gió, thò đầu ra ngoài cửa xe đón gió, sung sướng tươi tỉnh nhận gió mát tràn trề như một bông chuối nước nở đỏ ở ven bờ lạch, vật vã dưới sức đùa giỡn của gió đồng lồng lộng thổi không dừng.

Võ Hồng

Tựa đề nguyên thuỷ “Cái Nhìn Người Mẹ

Trích Tuyển Tập “Bên Kia Đường”.

 

 

  


Buổi Sáng Giữa Đồng - Võ Phiến

 

Buổi Sáng Giữa Đồng




Chuyện đang kể là một chuyện đời xưa. Ðời xưa, Thục đang học ở Ðà Lạt thì xảy ra Cách Mạng Mùa Thu; sau đó Pháp trở lại Ðà Lạt, nàng theo cha mẹ tản cư về quê. Về đây ban đầu không biết làm gì, ít lâu nàng theo chị em ra xã làm việc đoàn thể. Huyện thấy nàng có “khả năng”, bốc lên huyện; rồi huyện lại thấy nàng có “khả năng”, bốc lên tỉnh. Ở cơ quan tỉnh, đã có tôi sẵn đó rồi.

Như thế cũng thường thôi. Vì bấy giờ ai nấy đều tíu tít. Phần lớn là tíu tít về việc đoàn thể; các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, phụ lão v.v…, ở cấp nào cũng có, ở đâu cũng có, bao nhiêu người dùng cũng không thừa.

Vậy Thục làm việc nước, tôi làm việc nước, mọi người xung quanh lăng xăng làm việc nước. Vui quá thể. Phần tôi, có một điểm riêng: là tôi vừa làm việc nước vừa mê Thục ngất ngư.

Cái mê bấy giờ là cái mê thuần túy. Nghĩa là chỉ mê thôi, không có dự định, kế hoạch gì hết trơn. Tôi không hề thắc mắc: nàng có mê tôi không? tôi sẽ phải làm gì? nàng có bồ bịch gì chưa? tôi sẽ làm quen với nàng cách nào? tán tỉnh nàng ra sao? v.v…

Tôi không bận tâm về những cái đó, vì đang bận tâm về bao nhiêu cái khác. Thí dụ: Tên Thục, ai đặt cho nàng mà đặc biệt quá vậy? Bất cứ lúc nào, hễ có ai phát ra tiếng đó là tôi nẩy người, nao nao, xao xuyến. Tính tôi cẩn thận: Nhiều hồi vắng vẻ, tôi thử gọi một tiếng “Thục”, và tôi thấy ngay cảm giác lạ thường, bấn rộn cả người. Lại thí dụ giọng nàng nói. À, cái đó không giống bất kỳ giọng nói nào từng biết. Một tiếng nào đó phát ra từ cổ họng nàng, dù ngắn tới đâu, tôi cũng nhận ra. Một nửa tiếng bất ngờ bắt được cuối câu nói bỏ lửng ở phòng bên cạnh, một nửa tiếng cười ngắt vội vàng ở tận đầu ngõ v.v… tôi biết cả. Nó âm ấm, nó thấm đậm tình cảm v.v… Tôi tưởng tượng, tôi nghĩ ngay đến cái lượng hơi được phát đi một cách sung sướng qua khí quản của nàng, lượng hơi may mắn lướt đi bên trong chiếc cổ ấm áp, tuôn qua chiếc miệng thơm tho của nàng, tôi tưởng tượng v.v… Tóm lại tôi cảm thấy mình đang “hiểu” đến tận cùng giọng nói của Thục. Tôi hiểu cách đặc biệt sâu xa, như không có ai hiểu được thế.

Tôi xin phép cử ra một thí dụ nữa: là bước chân nàng. Bước chân tức con người. Và tôi thì tôi hiểu bước chân của Thục (tức là hiểu nàng). Thục có lúc đi dép, có lúc đi guốc; dù guốc hay dép, không có thứ nào phản bội nàng. Nghe một tiếng khua nhẹ là biết ngay. Thục khua chân kỳ diệu, độc đáo ra sao, nếu bạn chịu chú ý nghe và tôi có thì giờ trình bày cặn kẽ, thì nhất định bạn cũng sẽ hiểu, cũng nhận ra tiếng guốc tiếng dép của nàng, thì bạn cũng tài giỏi gần bằng tôi ngay. Nhưng tôi biết bây giờ không phải là cái thời của những bình giảng như thế, bây giờ trễ rồi: nàng không còn ở tuổi mười sáu mười bảy nữa, bạn nghe giảng làm chi? Bởi vậy tôi chỉ xin nói vắn tắt là đời xưa đã có bao nhiêu lần tôi đang hội họp thảo luận tưng bừng, thình lình nghe thoáng ở phòng bên cạnh có mấy tiếng guốc khua khác thường, thế là tôi biết ngay, tôi bấn lên như ngồi trên lửa. Bạn biết chứ: guốc có tiếng guốc do dự, có tiếng guốc sấn sướt hăm hở, có tiếng guốc nghịch ngợm láu táu nhanh nhẩu, có tiếng guốc ngần ngại dò la, có cả những tiếng guốc của yêu đương: tiếng guốc đầy tình cảm dịu dàng… Tôi lắng tai bắt từ không gian những tín hiệu âm thanh tràn đầy xúc động. Tưởng như một y sĩ nghiêng tai nghe và đọc cái ý nghĩa từng nhịp đập của một con tim.

Cơ quan Thục và cơ quan của tôi cách nhau khoảng trăm rưởi thước tây. Chúng tôi không gặp nhau hàng ngày, cơ hội gặp gỡ bất thường và lắm khi bất thần. Bởi vậy cái nghe ngóng tiếng chân, giọng nói, tiếng cười v.v… từ xa, là yếu tố thú vị, mê say.

Tôi mê Thục cách thuần túy như thế ít lâu thì hình như có nhiều người quanh tôi để ý. Tôi thực tình quả chưa có kế hoạch gì, chưa hề dự tính làm một điều gì dù bậy hay không bậy đối với ai cả, thì tự dưng ban chấp hành Thanh niên tỉnh chợt nhận thấy tôi có “khả năng” và đề bạt tôi lên liên khu nhận công tác mới. Tôi tá hỏa tam tinh, tưởng vừa xảy ra cuộc cách mạng mùa đông.

Sau một thời gian rất ngắn ở liên khu, tôi nhận thức ra ngay ý nghĩa của sự đề bạt. Với tất cả cái “khả năng” dồi dào, tôi vẫn làm công việc đại khái như trước khi được đề bạt. Chỉ khác ở chỗ không còn gần Thục nữa.

Tôi lồng lên mất bốn tháng. Rồi nguôi dần. Nhất là vì tôi không nhận được tin tức gì vềThục, cũng không hề biết thái độ Thục thế nào, không biết nàng có chút tình ý gì đối với tôi chăng. Chắc bạn nghĩ: “Ðời xưa, việc đời đơn giản nhỉ, chuyện đời phôi pha dễ dàng nhỉ.” Vâng, bạn có thể nghĩ thế.

Hơn một năm sau, một hôm tôi mang túi dết đi công tác như mọi hôm. Buổi sáng, vào khoảng chín rưỡi, tôi đi ngang một cánh đồng. Bấy giờ là cuối tháng hai âm lịch. Ðang lầm lũi đi, tôi ngước mắt và bất thình lình trông thấy Thục. Chúng tôi hãy còn cách nhau xa. Không có giọng nói, tiếng cười nào, không có tiếng guốc tiếng dép nào khua. Ðồng thì rộng, cách quãng xa như thế, tôi không trông thấy được mặt mũi tóc tai nàng, vậy mà nhác thấy một cái bóng tôi biết ngay là Thục. Kỳ cục hơn nữa là đồng thời tôi cũng biết nàng đã nhận ra tôi.

Một cái bóng xa tít như thế, khi nhận ra người “đặc biệt” thì cái bóng ấy phản ứng như thế nào? Không có cách nói rõ, vậy mà tôi biết. Thành thử đoạn đường còn lại khó đi hết sức. Bước đi cách nào tôi cũng thấy là không tự nhiên. Mà tôi muốn đi “tự nhiên” để làm gì chứ? Không tự nhiên đã sao? Vậy mà tôi cứ lo lắng. Về phía nàng hình như cũng thế. Nàng cúi xuống đi như không trông thấy tôi; chốc chốc lại ngẩng lên nhìn chút xíu, có lúc còn định phác một cử chỉ, một dấu hiệu gì đó, rồi lại thôi. Cả hai đi đứng chẳng ra làm sao cả. May mà rốt cuộc chúng tôi cũng tới bên nhau.

Nói cho đúng, chúng tôi còn cách nhau một cái trổ. Bây giờ xa quê hương đã lâu, có thể đôi người trong chúng ta đã bắt đầu quên cái trổ ruộng, tôi xin nhắc: Ở đồng quê, đường đi là bờ ruộng. Bờ ruộng thỉnh thoảng có chỗ bị cắt đứt để nước ruộng có thể chảy từ đám này sang đám kia: quãng đường đứt cho nước chảy ấy là cái trổ. Muốn lội qua trổ tất nhiên phải xắn ống quần lên. Thục chuẩn bị, sắp sửa. (Nếu không sắp sửa tức là không đi tới nữa. Làm sao cắt nghĩa được sự từ chối ấy?) Nhưng tôi là nam nhi, tôi phải tháo vát chứ, nỡ nào để nàng phải miễn cưỡng xuất lộ thịt da trước mắt mình. Vậy tôi mạnh dạn tiến lên, lội trổ. Và Thục, trong lúc đứng chờ đợi, bày tỏ sự hài lòng bằng cách lắc đầu hất một lọn tóc qua vai, điều làm tôi cảm thấy đột ngột sung sướng cách vô lý. Ðối diện nhau, tôi khựng, cố gắng nở một nụ cười khổ sở. Thục cũng nhợt nhạt. Rốt cuộc, nam nhi lại phải tháo vát, tôi lên tiếng trước:

– Cả năm… Lâu ơi là lâu… Bặt tăm luôn…

Bấy giờ Thục mới thở ra thoang thoảng, bằng cái giọng ấm áp nhất:

– Thục đâu có nhận được tin gì của anh?

Cái “tin”, tôi nghe lạng quạng cứ như là cái “thư”. Ý nghĩa của nó như vậy chăng? Tôi lúng túng, không biết nói sao cho suông sẻ.

– Thì biết… biết Thục…

Trong thâm tâm tôi, tôi nghĩ: “Biết Thục có nhớ tôi, có trông đợi tôi không, nói trắng ra là có mê tôi không, mà tôi đưa tin?” Nhưng tôi loay hoay. Thục vẫn cúi đầu, để một khóe mắt theo dõi tôi. Sau cùng tôi chỉ nói được:

– Thì biết Thục “sao” mà nhắn nhe?

Trên môi Thục thoảng một nụ cười, trong mắt nàng ánh lên một cái gì không rõ rệt. Tức thì tôi hiểu ngay. Tôi hiểu là nàng có “sao”. Mặt tôi đỏ ửng. Mặt nàng cũng đỏ ửng lên. Ối! Trời đất vụt sáng loà cái một. Không hiểu sao giữa lúc xảy ra chuyện động trời như thế chúng tôi lại vội vã gạt chuyện ấy ra một bên, như sợ hãi trốn lánh. Choáng ngợp chăng. Ngượng ngùng vì trót tỏ lộ tình cảm chăng? Không biết đâu. Chỉ biết tự dưng Thục nói một câu vớ vẩn, lảng qua chuyện khác. Tôi thì tôi hỏi hôm nay nàng đi đâu? Lảng nhách, tôi cần gì cái đó? Nàng đáp lại, tôi nghe qua, rồi quên tức thì.

Cứ ngắc nga ngắc ngứ như thế một lúc, tôi cảm thấy ngay là mình đang gây khó cho nhau. Hỏi đáp vu vơ, không có gì quan trọng, thì còn có lý do gì để đứng ỳ ra đấy nữa. Vì thế một lát rồi nàng đành phải cáo từ.

Thục thong thả kéo ống quần cao lên, từ từ nhúng chân xuống nước, thong thả lội qua trổ ruộng. Còn tôi thì quýnh lên. Nàng qua khỏi trổ, quay lại chào tôi lần nữa, rồi tiến bước. Ngay lúc ấy tự dưng tôi bị hút theo, như một thây ma bị quỷ nhập tràng. Tôi cũng xắn quần, cũng lội trổ, cũng lên đường, đi ngược lại con đường của mình, mắt dính vào lưng Thục.

Tôi thấy nàng rùng mình, vai rung khe khẽ, nàng rối loạn bước chân, rồi nàng dừng hẳn lại. Tôi tới bên nàng, sát nàng. Môi tôi run, mắt tôi dại đi. Rồi tôi chụp lấy Thục, một tay chụp vào vai một tay nắm lấy cánh tay nàng. Tôi kéo nàng sát vào, hai tay ôm lấy mặt nàng, tôi hôn, trời, tôi hôn bất kể trời đất. Nàng run lẩy bẩy. Mặt nàng nóng như hòn than.

Bấy giờ – đời xưa – ở quê ta không có chuyện trai gái ôm nhau. Chuyện ấy quái đản quá, cho nên dù đang lúc điên khùng chúng tôi cũng không thể ôm nhau lâu được. Buông nhau ra, tôi nhìn tứ phía, ngơ ngác. Ðồng rộng bốn bề. Ðây là đâu? xã nào thôn nào? Tôi không biết. Khắp cánh đồng không có một ai. Nắng rực rỡ. Phía bên phải, cách chúng tôi đôi ba trăm thước có một khoảng trống, không lúa, tôi đoán chừng là một cái ao. Xa xa, phía trước mặt là xóm nhà, có hàng tre xanh. Ðầu xóm, một cái gồm nho nhỏ, lợp tranh, nép sát vào hàng tre. Bên trái, con đường xe lửa ngăn chận tầm mắt. Ðường xe lửa đắp cao, có mấy con bò gặm cỏ rải rác trên dốc lề đường, không người chăn. Trời đất trống không. Nắng vàng bao la.

Tôi bảo Thục:

– Ta đi. Anh theo em một lúc.

Thoạt tiên Thục không có ý kiến. Nàng ngoan ngoãn đi trước, tôi theo sau. Nhưng không đến năm chục bước nàng dừng lại, kêu:
– Em… khó đi. Anh đi trước.

Tôi nài nỉ:

– Anh đi trước, anh không trông thấy em!

Nàng ngần ngừ, khổ sở. Tôi nài nỉ tiếp:

– Em cố gắng. Anh không nhìn em đâu.

Nàng thật ngoan, lại đi, chậm chậm, rõ ràng với tất cả cố gắng. Cả hai không ai nghĩ tới chỗ vô lý: Không nhìn em thì đi sau khác gì đi trước? Sự thực thì tôi không rời mắt khỏi nàng. Và nàng cũng chỉ đi được vài chục bước nữa rồi dừng.

Ðường bờ ruộng chật hẹp, không thể đi song song hai người. Chúng tôi cứ luân phiên thay nhau đi trước, rồi đi sau, rồi đi trước. Kể ra về sau chắc nàng không còn thấy khó đi nữa, nhưng vẫn tiếp tục đòi luân phiên “cho vui”.

Ðến cái gồm đầu xóm, chúng tôi dừng lại, ghé vào gồm ngồi nghỉ chân. Giai đoạn nói năng chuyện trò hình như chẳng dài mấy, tôi hoàn toàn không nhớ đã nói những gì lúc ấy. Tôi là đứa chất phác đơn sơ: khi mê Thục tôi không có mưu tính ý đồ gì cả, nhưng khi cơ hội xảy đến thì tôi hiểu ngay mình muốn điều gì, không chút quanh co. Tôi ôm nàng, hôn vùi không buông ra nữa. Trong cái gồm trống trơ dưới bóng mát tre xanh, tôi hôn tới tấp, hôn mặt mũi, hôn tay hôn vai hôn cổ hôn má, mắt, mũi, miệng nàng. Hôn hoài hôn hoài. Cho đến lúc môi tôi chạm nhằm dòng nước mắt. Nàng khóc.

Tôi giật mình, nhìn nàng lo lắng. Nàng bảo: “Em sung sướng.” Nhưng nàng vẫn khóc, càng khóc. Nàng khóc đến nỗi tôi cũng khóc theo. Hai đứa vừa khóc vừa hôn nhau.
Chúng tôi không biết sẽ kết thúc ra sao, thì nghe có tiếng người. Tiếng nhiều người chuyện trò mỗi lúc một gần. Rồi bốn người đàn ông xuất hiện. Cả bọn có vẻ đi từ đàng xa, cũng ghé lại nghỉ chân.

Lúc bốn người đàn ông đến, nước mắt trên mặt nàng hãy còn đầm đìa. Nàng lau vội vàng rồi trao chiếc khăn tay cho tôi. Tôi lau xong, cầm chiếc khăn nhìn nàng. Nàng kín đáo gật đầu. Tôi cho chiếc khăn vào túi. Lát sau nàng chào tôi, chia tay.


Tôi trông theo cho đến lúc Thục khuất vào phía sau hàng tre, rồi tôi đứng lên đi về hướng cũ. Ðến cái trổ ruộng nọ, tôi dừng lại. Ngẩn ngơ, bàng hoàng. Mọi việc xảy ra đã dồn dập, xảy ra và chấm dứt đột ngột. Quanh tôi vẫn ánh sáng tràn đầy. Uả! Lúa chín hồi nào? Lúa vàng khắp đồng mà tôi không kịp để ý đến. Ðồng rộng vẫn không một bóng người. Có tiếng con chiền chiện vừa bay vừa kêu tít trên trời cao, không trông thấy nó đâu.

Tôi dừng lại bên trổ ruộng. Chỗ cũ. Nhìn quanh cánh đồng. Tôi thấy mình hoàn toàn đổi khác. Nàng có “sao”. Tôi có chiếc khăn của nàng trong tay. Tư thế của tôi trước đất trời vụt đổi khác không ngờ. Tôi run run và tự tín giữa buổi mai rạng rỡ, mênh mông.

Rồi sao nữa?”, chắc bạn nghĩ thế.

– Ồ, không. Tôi không kể nữa đâu. Chuyện có kẻ xen vào cản trở, tôi bị điều đi nơi này nàng bị điều đi nơi khác, rồi giặc đánh, rồi tôi bỏ chế độ còn nàng theo chế độ ra Bắc v.v… , những cái ấy dài dòng phiền phức và vô vị, kể làm chi.

Ngay cả những điều vừa trót nói ra cũng vô duyên nữa. Lẽ nào sau bao nhiêu dâu bể động trời, nào cách mạng, nào kháng chiến, sau hàng triệu mạng người, hàng triệu tấn bom, lại có thể sục sạo vạch tìm dấu vết một khoảnh khắc cỏn con của một buổi mai giữa cánh đồng vô danh?

Vả lại trong khoảnh khắc ấy có gì? Chẳng qua chỉ là những cái hôn phần nào hoang dại. Có thể nói là những cái hôn tiền sử, không có món lãng mạn tình tứ của văn minh. Rõ là thế.


Ngoài ra còn có lý do khác không nên kể. Là câu chuyện một khoảnh khắc nọ trong nhận thức của tôi có giá trị ra sao? Về phía Thục, khoảnh khắc ấy được nhận thức như thế nào? Cái nhìn từ phía bên kia Lã Sinh Môn, nó là thế nào? Sự thực ở đâu? Trong lòng Thục ngày nay có còn chút hình bóng kỷ niệm nào về khoảnh khắc ấy? hay lòng nàng trong phút chốc đã trở lại trong vắt như mặt hồ sau sự xao động của một làn gió? Nếu thế, sự việc coi như không hề có, kể lại làm chi?

Thực ra tôi đã không kể nếu sáng hôm qua không ngẫu nhiên gặp Thục trên mặt báo. Trên trang hai của một tờ báo Mỹ. Tờ báo đăng một phóng sự dài ba kỳ về đời sống các gia đình di dân ở quận Orange. Tình cờ mà gia đình nàng được chọn lựa, được nêu tên tuổi hình ảnh đàng hoàng, không thể lầm lẫn. Do đó tôi biết nàng đi Mỹ theo chương trình O.D.P. cuối năm 1988, biết nàng đem theo đàn lũ lê thê bao nhiêu con, bao nhiêu cháu, nàng hiện sống với con nào, rể nào v.v…

Tôi lặng lẽ nhìn bức hình trên trang báo hồi lâu. Bốn mươi lăm năm tha hồ vẽ vời lên một khuôn mặt. Một mình tôi trong một căn phòng rộng. Mỗi khua động sột soạt của trang báo đều vang lớn.

– A! Lần này thì… lâu ơi là lâu, anh lại được tin của Thục. Thục đâu ngờ anh còn giữ chiếc khăn!

Vâng. Tôi còn giữ. Ðời không phải lúc nào cũng lâm ly, bốn mươi lăm năm qua không phải lúc nào tôi cũng có chiếc khăn của nàng trong túi, không phải lúc nào tôi cũng nhớ tới nó. Phải nhận rằng có thời gian – những thời gian dài – nó nằm im trong va-li, trong rương, trong tủ, vùi lấp dưới nhiều lớp quần áo, không ai biết tới. Tuy nhiên hiện thời thì nó đang ở tại Mỹ. Nói cho rõ: nó đang nằm trong tay tôi đây.

Chiếc khăn thời ấy là khăn tự làm lấy (không phải mua ở tiệm, ở nhà hàng). Một mảnh vải phin, rút chỉ bốn chiều dọc theo mép khăn; và ở một góc nào đó thường có thêu hoặc con chim hoặc nhánh hoa hoặc một vài chữ. Trên chiếc khăn của nàng không thêu thùa gì cả. Tôi vẫn có nó đây. Một hiện diện vô danh chỉ có Trời biết, Ðất biết, tôi biết và nàng biết.

Trong căn phòng vắng, tôi gọi khẽ “Thục”, và tôi lắng nghe. Quái! Tôi không nhận ra tên nàng nữa.

Võ Phiến

 

 

Wednesday, November 5, 2025

Mùa Thu Đi Rất Xa - Nguyễn Đạm Luân

 Mùa Thu Đi Rất Xa




Đò Chờ Người Người Không Qua Sông - Thuyên Huy

 

 Đò Chờ Người Người Không Qua Sông

Ghép một số mảng vụn đời người thật viết thành chuyện không thật




    Hiển về lại, nơi này, Cẫm Giang sau gần ba bốn năm bỏ đi như trốn chạy, mà trốn chạy thật, bên kia sông căn nhà vẫn đó, giàn hoa Giấy vẫn đỏ rực như ngày nào, hai cánh cổng khép hờ như trước, như những lần bịn rịn chia tay về ngày đó, trong sân ngập một màu xác pháo úa đỏ đã ngã màu tím bầm, chịu mưa chịu nắng, chắc cũng bao nhiêu ngày qua rồi, tím bầm như xác phượng rụng cuối mùa chờ thu tới.

   Từ trên dốc đường nhìn xuống bờ sông, con đò ngang xưa của bà thiếm lái đò quen, cũng còn đó, nằm thiu thỉu ngủ, chờ người gọi qua sông như những ngày tháng cũ, dưới bến giữa trưa. Trời bây giờ chớm Thu, hàng phượng già hai bên con đường đất nhỏ lên tới tỉnh lộ lơ thơ, lẻ loi vài ba cánh hoa đỏ bầm màu máu, nấn níu, chưa chịu tàn theo tuổi Hạ.

*

   Người qua đường, đi chợ xã, tưởng là anh đứng chờ qua sông, nhưng không, anh đứng nhìn con đò mà không chờ qua sông, con đò này đã bao nhiêu lần anh ngóng anh trông, những sáng sương mờ đón hay những chiều nắng muộn đưa, đón đưa người con gái chung lớp, chung trường, áo trắng tóc dài buông lơi, nao nao thả gió ở căn nhà bờ bên đó, cùng đón chuyến xe đò “Daihatsu” nhỏ quen, bến đầu chợ, đi học trên trường tỉnh.

*

    Hiển, nhà ở cuối phố chợ xã, má có cái sạp nhỏ bán khô, mắm cuối nhà lồng chợ, ba mất vì bạo bệnh năm lớp Nhất trường làng, Minh Trang, nhà có giàn hoa Giấy đỏ bên kia sông, gia đình có mấy chiếc ghe tam bản lớn chở hàng cho mướn, khá giả, học chung trường, quen nhau từ những năm đầu trung học, rồi chung lớp hai năm cuối đệ Nhị đệ Nhất. Bạn bè cùng lớp cứ nghĩ hai người “có gì rồi” nhưng điều này chỉ đúng với Hiển là “có gì rồi”, ngày qua tháng lại, bốn mùa thay nhau tiễn nhau, đón nhau, xuân hạ thu đông, cười nói vui vẻ, có khẻ nhìn trộm nhau nhiều lần, chung đôi sánh bước, nhưng ngập ngừng, chần chừ chưa dám nói ra, ngày qua ngày, lặng câm chỉ riêng mình anh hiểu, cứ đi về như vậy mà vui, đủ vui để yên tâm với sách vở ngổn ngang của mùa thi phần số.

*

    Hè đến, nấn ná, bịn rịn rồi cũng phải chia tay, một lần chia tay cuối của những năm dài với lớp học sân trường, mỗi người mỗi ngả, có gặp lại hay không, không ai biết. Hiển vẫn chưa nói ra lòng mình, Minh Trang cũng vui cười hỏi han như cũ, anh quyết định nói cho Kiều, cô bạn gái thân của Minh Trang, chuyện mình, một ngày trước khi từ giã bạn bè, từ giã trường lớp, cô bạn trách Hiển sao không chịu nói sớm, hứa sẽ nói lại tất cả những gì anh nói, kèm theo lời chúc may mắn như Minh Trang đã chúc, với cái nắm tay, hẹn gặp lại.

    Không may, chắc là trời chưa thương, còn phụ lòng người, thi rớt, Hiển lặng lẽ, mang mối tình câm, bỏ Cẫm Giang đi, cuối mùa thi, không từ biệt, vẫn thương thầm chưa nói ra, hẹn với lòng sẽ trở lại một ngày nào đó.

*

    Thi rớt, lang thang dưới Sài Gòn, một hai lần vội vàng về Cẫm Giang thăm nhà, rồi vội vàng đi, cố quên người, quên căn nhà bên kia sông, quên con đường đất xuống bến đò, quên những gì của một thời hoa mộng. Chưa đến nổi sầu tư chất ngất, Hiển gặp lại Hoàng, người bạn khác lớp năm cuối nhưng chơi thân, học giỏi, nhà ở cửa số Hai, khá giả, cùng cảnh ngộ, thi rớt, kéo về ở chung với hắn ở căn nhà ván trong cái hẻm nhỏ, xế dốc cầu chữ Y, không xa ngõ ra tới đường Trần Hưng Đạo.

·         

    Hiển làm phụ chạy bàn, bưng nước bưng cơm ở một tiệm cơm bình dân, bán cho đa số là đám người chạy xích lô, khuân vác, chạy xe ba – gát và mấy cô thiếm bán hàng ở chợ Nancy, lúc nào cũng đông khách, từ sáng tới chiều tối, có bà bác chủ người Bắc nhưng nói tiếng Nam, cười hiền hậu tươi vui, mọc mời, hết lòng chiều khách, “không tiền thì thiếu, ăn đi rồi chừng nào có thì trả”, vậy thôi, quán có hai ba chị phụ nhưng không xuể, cũng “không tiền thì thiếu” đó mà anh được bác kêu tới làm, ngày cuối tuần thứ Bảy chủ Nhật, khi hỏi han qua lại, tâm sự thằng học trò nghèo nhà quê, buổi chiều ngồi ăn dĩa cơm ít thịt một mình ở cái bàn góc trong quán, buổi chiều tạm vắng khách. Với số tiền lương này, Hiển có chút “xu hào đủng đỉnh” góp phần trả tiền thuê mướn, chi phí cơm gạo với anh bạn nhà giàu, vốn không cần tới.

*

    Trời cũng còn thương, cuối năm Hiển và Hoàng thi đậu, hai người ra quán bà bác chợ Nancy, ăn bữa cơm ăn mừng, nhiều thịt nhiều cá, thêm vài thứ trái cây, bánh ngọt của bà bác chủ quán chung vui. Rồi Hoàng vào Luật, Hiển vô trường khác, hai người bắt đầu làm quen với năm tháng giảng đường Đại học. Gần giữa nửa năm đầu, Hoàng trả lại nhà mướn, về căn nhà mà gia đình anh vừa mua trong cái hẻm khá rộng gần chợ Phú Nhuận, Hiển dọn tới ngã sáu Nguyễn Tri Phương, ở chung với mấy người bạn cùng trường, dù Hoàng kêu tới kêu lui về nhà anh ta.  

*

    Minh Trang, cùng đám bạn có Kiều xuống Sài Gòn, suốt hai năm trời, cố dò la tin tức của Hiển, mong gặp lại, Kiều bên cạnh cùng “tìm dấu chân chim” nhưng Hiển vẫn “chim bay biển bắc, người tìm biển đông”, buồn, ra trường Sư Phạm, về lại tỉnh nhà, dạy ở trường tiểu học Phú Khương. Cuối cùng cũng đành quên, biết chờ đến bao giờ, nghe lời ba má, Minh Trang lập gia đình với một anh vừa tốt nghiệp Phú Thọ, cũng học cùng trường cũ nhưng trên đám Minh Trang, Hiển vài năm, nhà ở gần ty Bưu Điện tỉnh, ngó qua cổng nhà thờ chánh tòa, tương đối khá giả.

*

   Một ngày nào đó là hôm nay, cũng định là sẽ theo đò qua sông, xác pháo đỏ ngập sân nhà làm anh ngơ ngẩn, một nửa hồn bất chợt buông xuôi bỏ cuộc. Anh bước từng bước chậm xuống bến, hai ba người đàn bà đi chợ về xuống đò, con đò tỉnh ngủ, bà thiếm chèo đò quen, nhận ra anh, làm dấu chờ, anh lắc đầu, cười gượng nhìn qua căn nhà bên đó, cám ơn.

   Mở dây cột, bà thiếm sửa ngay mái chèo, quay lại sau nhìn anh, chắc bà hiểu, buồn buồn nói vọng lên “bên đó đám cưới xong mấy ngày nay rồi”, con đò tách bến, con đò ra xa rồi thật xa, anh nhìn theo, nói thầm “cám ơn con đò vĩnh biệt căn nhà ”.

Thuyên Huy

 

 

Hỏi Chuyện Ngày Xưa - Vườn Thơ Mới Xướng Họa

 THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 180_VƯỜN THƠ MỚI

 

 Xướng:

 



















Chuyện ngày xưa 


Tuổi thơ mới độ trăng rằm
Ngẩn ngơ trước gió âm thầm chiều mưa
Bây chừ nhớ chuyện ngày xưa
Lâng lâng xao xuyến như vừa biết yêu
Thơ ngây mơ mộng thật nhiều
Nào là hoàng tử các triều đại vua
Đêm qua có gió giao mùa
Bàng hoàng chợt tỉnh mới vừa chiêm bao
Thời gian thắm thoát qua mau
Lần tay tính nhẩm tuổi cao ngất trời
Hôm nay bổng thấy yêu đời
Bâng khuâng chợt tỉnh thảnh thơi tâm hồn
Hương Lệ Oanh VA

Oct. 2025

 

Họa 1:


Hương xưa

Vườn xưa trăng rạng đêm rằm
Người đi xa xứ khóc thầm trong mưa
Bây giờ kể chuyện đời xưa
Lòng nghe nặng trĩu cho vừa chữ yêu
Học trò xây mộng quá nhiều
Mơ em mười sáu hoàng triều cung vua
Nằm nghe gió lạnh đầu mùa
Mùa thu chợt tắt cho vừa chiêm bao
Phù du một kiếp tàn mau
Lần tay đếm lại dáng cao cuối trời
Nhưng sao ta vẫn yêu đời
Buông rơi phiền muộn thảnh thơi trong hồn
Nguyễn Cang
Oct.15, 2025

 

Họa 2:


Nhân sinh


Mỗi năm tháng tám ngày rằm
Trung thu lại đến ước thầm không mưa
Ngồi đây nhớ lại năm xưa
Tuổi thơ trong trắng lại vừa đáng yêu
Trưởng thành ước vọng quá nhiều
Tránh xa cái cảnh quan triều chúa vua
Trăng lên lấp lánh gió mùa
Ước mơ công toại cho vừa xiết bao
Nhân sinh biến đổi thật mau
Giữ gìn đức hạnh ngước cao nhìn trời
Dấn thân thiện nguyện giúp đời 

Ngắm trăng tự tại thảnh thơi tâm hồn

PTL

Oct. 2025
 tự tại
自在: An nhàn tự đắc, thân tâm khoan khoái

 

Họa 3:


Nhớ chuyện xưa

 

Trăng vừa tóa sáng đêm rằm,
Mây đen vần vũ báo thầm cơn mưa.
Thẩn thờ nhớ chuyện xa xưa,
Một thời áo trắng tuổi vừa vào yêu.
Buồng tim rộn rã thêm nhiều
Gặp nàng bối rối như triều kiến vua
Lời thương không nói bao mùa,
Trao nhau ánh mắt thật vừa biết bao.
Thời gian vun vút trôi mau,
Mấy mươi năm đã ngút cao tuổi trời.
Gặp nhau đôi hướng dòng đời
Niềm riêng trao gửi thanh thơi chút hồn.
Minh Tâm

 

Họa 4:

 

Thoáng xót xa đưa 


Bốn mùa mờ tỏ mấy rằm
Quanh năm suốt tháng lầm thầm nắng mưa
Xa quê nhớ lại chuyện xưa
Nửa buồn xót dạ nửa vừa thương yêu
Bạn thầy yên phận đã nhiều
Hậu cung tĩnh lặng tiền triều không vua
Núi sông trầm lắng chuyển mùa
Huế muôn đời tiết nghĩa vừa xiết bao
Gió thời suy thịnh thổi mau
Lục bình gặp nước dâng cao lên trời
Ngẫm muôn sự thế ở đời
Giữ tâm an đinh cho thơi thới hồn
TQ

Oct.18, 2025