Thursday, July 10, 2025

Nhớ Bạn - Vườn Thơ Mới Xướng Họa

THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 174_VƯỜN THƠ MỚI

 


 













Xướng:

Nhớ bạn
(Tặng Sean Locascio 1972-2025)
 
Sáu
 năm trước bạn giúp tôi di chuyển
Dưới nắng hè oi bức của miền đông
Khiêng vác ra vô chẳng thấy nhọc lòng
Mặt hớn hở nụ cười tăng sãng khoái
 
Vụt nhanh chóng cuộc đời sao êm ái
Trở lại vườn xưa kiến diện bạn hiền

Hớn hở vui mừng kể chuyện liên miên

Cùng đến chổ điều hành vừa mới tạo
 
Dù đã hiểu kiếp nhân sinh là hư ảo
Vào nhà thương không biết nhận ra ai
Rồi tin buồn như sét đánh bên tai
Bạn vĩnh viễn đi về miền tiên cảnh
PTL
June 2025

 

 

liên miên 連綿 : không ngừng

vườn xưa: Sury Nuclear Training Center
chổ điều hành vừa mới tạo: nơi huấn luyện mới của nhà máy nguyên tử


In Memory Of Sean Locascio (1972-2025)


Six years ago you helped me move
 back
Under the hot summer sun of the East
Carrying 
stuff in and out without feeling tired
You did with joy and a cheerful smile
 
The peaceful life 
is very quickly passed by
Returning to the simulator to visit my friends
Cheerfully happy to tell stories endless
We went to the new glass control room
 
Who knew that human life 
is an illusion
Entering the hospital 
you laid down with motionless
Then the sad news 
struck in my ears
You silence goodbye and went to 
the heaven
PTL
June 2025

 

Họa 1:

 

Tan Tác
Năm mươi năm trước càng khôn xoay chuyển
Giặc tràn về thành lũy phía bờ đông
Bao ngổn ngang tan tác ngập bên lòng
Nhìn kẻ thắng thấy người thua bất khoái

Cô con gái vào đời đầy ưu ái
Nhu mì tươi trẻ tính nết ngoan hiền
Rồi bổng nhiên giặc nổi dậy liên miên
Còn đối mặt với con người giả tạo

Diễn tuồng đen trắng giống trò mộng ảo
Cay đắng dòng đời biết tỏ cùng ai
Xăm lăng bờ cõi cuộc sống nạn tai
Gieo tan tác muôn người trong nghịch cảnh

Hương Lệ Oanh VA

July 04, 2025

 

Họa 2:

 

Giấc mơ tiên
Trăm thư gửi nhưng tim em không chuyển
Tôi thẩn thờ xuân hạ đến thu đông
Biết khi nao bên ấy mới chạnh lòng
Cho tôi được phút giây lòng sảng khoái


Cho dòng suối nhận mưa rào tình ái
Đêm năm canh tôi mơ mắt dịu hiền
Làn môi hồng trong giấc ngủ triền miên
Em là tuyệt phẩm đất trời khéo tạo


Đời mang đến biết bao nhiêu mộng ảo
Niềm riêng nầy tôi biết tỏ cùng ai
Phép mầu nào em thỏ thẻ bên tai :
“Này anh hởi…hai ta cùng…ngoạn cảnh”
THT

 

Họa 3:

Bạn ấy
Dáng nhỏ nhắn mà đôi chân uyển chuyển
Nụ cười tươi hoạt bát giữa đám đông
Không riêng tôi ai gặp cũng vui lòng
Chàng dũng cảm tự tin truyền cảm khoái

Với bằng hửu luôn bao dung thân ái
Sống khiêm cung trong lẽ đạo thánh hiền
Sẵn sàng lòng đánh thức kẽ thùy miên
Không ngần ngại hiến công tài tôn tạo

Chàng sống thực nào  đời diễm ảo
Ngày ra đi không thấy bóng một ai
Do con người hay chỉ bởi thiên tai
Đội hỏa táng nghiêng mình trong thảm cảnh
TQ
Jul. 02, 2025

Họa 4:

Em gái quê
Biến cố bảy lăm đất trời xoay chuyển
Ta gặp em giữa chiến trận miền đông
Khói binh đao còn nặng trĩu trong lòng
Làm tắt lịm nụ hồng tươi thống khoái

Em có phải tuổi học trò thân ái
Đang vui chơi với bạn hữu ngoan hiền
Trong cảnh đời giặc giã dậy triền miên
Nay bỏ chạy tìm bình yên tái tạo

Cuộc dâu bể tưởng chừng là hư ảo
Xui ta về gặp lại bóng hình ai
Thật bất ngờ như sét đánh mang tai
Em cán bộ, duyệt hồ sơ xuất cảnh !
Nguyễn Cang
Jun. 28, 2025

 

Họa 5:

Nhớ trường xưa
Thuyền trôi mãi theo dòng đời dịch chuyển,
Xa trường xưa thân thiết bạn bè đông.
Mấy mươi năm vẫn ghi khắc trong lòng
Hằng mơ mộng thời tuổi hồng khoan khoái.

Hồn quê cũ lòng vẫn luôn luyến ái,
Học trò ngoan, thầy cô rất dịu hiền.
Giờ ra chơi xi rô đá thôi miên…
Trại văn nghệ rất hồn nhiên sáng tạo.

Mấy mươi năm đường đời bao huyễn ảo
Mái trường xưa luôn khắc khoải hồn ai,
Tiếng trống trường nghe văng vẳng bên tai…
Trong tiềm thức cứ mơ hoài ảo cảnh.
Minh Tâm

 

 

 

 

 

 

 

 

  

Tình Tôi - Nguyễn Cang

 TÌNH TÔI

 
















Chiều mưa vội bước qua cầu

Dòng sông lặng lẽ thêm sầu biệt ly

Người đi khuất nẻo kinh kỳ

Bỏ trường bỏ lớp bên ni bến bờ

Đêm tàn nguyệt tận lầu thơ

Còn ai tâm sự cho vừa nhớ mong

Trên không tiếng vạc gọi đồng

Tư bề quạnh vắng bềnh bồng chân mây

Mơ chi một phút sum vầy

Người đi kẻ ở tháng ngày dần trôi

Chợt nghe tâm trạng bồi hồi

Tình ta đoạn khúc nửa đời nhạt phai

Thời gian nào có đợi ai

Mười lăm năm lẻ đắng cay muôn phần

Đời người một kiếp phù vân

Tóc pha tuyết trắng mấy lần chia xa

Đêm nghe dế khóc canh tà

Hỏi người tri kỷ đêm qua có buồn

Dòng đời nước chảy mưa tuôn

Quãng đường còn lại cánh chuồn hư không!

Nguyễn Cang ( May 1, 2025)

 

Sầu Đi Buồn Ở Lại - Thuyên Huy

 

Sầu Đi Buồn Ở Lại

Viết từ một phần của một câu chuyện thật, thay đổi bối cảnh và tên người

      Xong bữa ăn trưa, từ trong cái hẻm nhỏ bên cạnh rạp Casino vừa ra đầu ngõ, nhìn xuôi nhìn ngược, dợm bước đi, mưa bất chợt đổ xuống ào ào, cơn mưa đầu Thu, không lớn, làm một cái rào rồi ngưng, mới nắng rực vàng “hừng đông le lói” đó lúc sáng sớm rồi mưa hồi nào không hay, Sài Gòn vẫn vậy, vẫn là Sài Gòn của nắng mưa bất chợt. Còn nấn ná chưa đi thì chị thư ký, chắc cũng đi ăn đâu đó về, tay cầm hờ tờ báo che đầu, mưa còn chút xíu lất phất nhẹ như bụi, vừa vẫy tay gọi vừa băng qua đường, Hiển gật đầu chờ, cùng nhau trở lại văn phòng. Xế giữa trưa nắng lại rựng sáng lên, gió đẩy gió đưa từng lớp lá me Thu vàng úa nhỏ nhoi mảnh khảnh, đong đưa đuổi nhau, lửng lơ bay ngập trời, suốt con đường hẹp Lê Thánh Tôn chật nức người, tiếng cười tiếng gọi.

    Chưa kịp đọc hết tin tức trang đầu tờ Chính Luận, tiếng chị thư ký nói nhỏ ngoài cửa có khách, sáng nay ông luật sư thầy đở đầu tập sự cho Hiển, bận ngoài tòa án, chuyện còn lại nhất là những vụ nhỏ nhặt, gần hơn một năm tập sự, thường thường như hàng ngày, ông đều giao cho anh lo, có gì khó thì nhận rồi ông giải quyết sau. Đứng lên, sửa lại quần áo cho có chút ngay ngắn, thong thả tới mở cửa, nép chờ một bên, người con gái nhìn lên, thảng thốt buột miệng “anh Hiển”, vẫn còn đứng ở cửa chết trân, Hiển lặng người ra, rồi làm dấu cho cô nàng đi vào trước, theo sau bổng dưng thấy đau nhói buồn buồn, nhẹ giọng “đã lâu rồi không gặp”.

*

    Nhà Hiển nghèo, quê tận dưới An Tịnh Trãng Bàng, mẹ mất sớm, từ ngày Hiển học lớp Nhì tiểu học, ba ở vậy một mình, ông có tật chân phải, đi đứng hơi khập khiểng, không khó khăn lắm nhưng chậm, nuôi con bằng tiền lương đủ sống của công việc sắp bao bố, gom góp gạo rớt rơi rớt rải, quét dọn, lau chùi máy móc tại cái nhà máy xay lúa lớn trong chợ quận, cuộc sống không khá nhưng cũng vừa đủ ngày hai bữa cơm, chút rau miếng cá.

    Hiển thi đậu, lên học Đệ Thất trường tỉnh, nhờ một người dì bà con xa ở miệt Thạnh Phước giới thiệu, ba gởi Hiển lên ở trọ tại nhà một ông cựu trưởng ty của tỉnh, đã hưu trí từ lâu, nằm ở ngã tư, trên dốc đường xuống trường trung học, chỗ này có hai anh lớn và người cháu của bà dì đang ở, học trên lớp Hiển mấy lớp, trong nhà cũng có hai người con của ông học cùng trường, Phong, người em cùng lớp Đệ Thất với Hiển, người anh học chung lớp với cháu bà dì ở Thạnh Phước. Có hai cha con, ngày nào còn hủ hỉ ra vô với nhau, tối lửa tắt đèn, giờ thì mỗi người một nơi, ba thì thương lo cho con, tội nghiệp thân nhỏ nhoi quá, lo ngày lo đêm, lo trời trở gió lo mưa lạnh giữa đêm, con thì xa nhà, nhớ nhà, nhớ ba, đêm nằm khóc thúc thít, mớ gọi ba hởi ba ơi cả mấy ngày đầu, nhờ có Phong, chơi qua chơi lại, ở trường ở nhà, ra sân ra vườn, bắn bi đánh đáo nên dần riết rồi quen lần, bớt buồn nhưng vẫn nhớ nhà, dù cái nhà của Hiển lớn hơn cái nhà để xe hơi của ông trưởng ty không bao nhiêu.




    Sau nhà ông trưởng ty, vườn cây vú sửa rậm lá, bên cạnh nhà để xe có một khoảng sân xi măng rộng và cái giếng nước, chiều chiều cả đám, lớn nhỏ ngồi tán dốc chuyện trời trăng mây nước, ngồi ngó qua phía bên cái nhà đâu lưng, cũng có khu vườn sau rộng, hai ba cây Phượng già bao quanh giàn hoa Giấy đỏ, cách ngăn bởi dãy hàng rào kẽm gai cao khỏi đầu người, ngó quanh ngó quẩn mong nhìn thấy đứa con gái học cùng lớp với hai thằng nhóc Hiển và Phong, hái hoa bắt bướm đâu đó sau vườn. Căn nhà đó, mặt tiền ngó ra đường khác, của một gia đình có tiệm buôn xe gắn máy Honda, Suzuki... lớn trong chợ Long Hoa, khá giả, bên đó có hai anh em, cũng học trường tỉnh, cô em gái tên Ngọc Diệp cùng Đệ Thất với Hiển và Phong, khá xinh khá đẹp, nhất là nốt ruồi son làm duyên trên mi mắt trái, mà hai thằng thường lẻo đẻo theo sau trên đường, sáng tới trường hay chiều về tan học.

   Hai thằng đi theo sau, riết rồi cũng làm quen được, quen rồi chơi thân từ cuối năm Đệ Thất, nhiều lần theo Phong qua bên nhà Ngọc Diệp, ba mẹ cô hiền lành, tử tế, ông anh cũng hiền khô, cười vui dễ mến, có vẻ chịu Hiển, “cứ một thằng Hiển hai thằng Hiển” này kia. Ngọc Diệp, ngày chưa quen xem ra “chân son gót tía” làm bộ làm dáng nhưng ngày qua ngày lại, giờ thì nói cười luôn miệng “bình dân thiên hạ”.

    Cứ như vậy, ngày tháng tuổi học trò, sân trường, lớp học, Phượng hè đỏ Thu lá vàng, bốn mùa xuân đông thu hạ, đường đi về có nhau, không còn người sau người trước, hai cậu một cô cứ thế mà mỗi một năm học qua là mỗi một năm kỷ niệm thêm nhiều hơn trước dù chỉ là vụn vặt, mớ kỷ niệm đó lớn dần theo tuổi biết buồn, tuổi biết mình ngấp nghé sắp làm người lớn, và cũng từ đó, mến thương, nhớ nhung, vấn vương bất chợt làm Hiển thấy lòng mình nao nao, xôn xao gì đó khi nhớ tới Ngọc Diệp, nhớ đến nổi có nhiều đêm trằn trọc, trở mình mong sao cho trời mau sáng. Lòng mình thì vậy, không biết Phong thì sao, có nhiều lần Hiển thấy trong giờ ra chơi, Phong thường xem ra thẩn thờ đứng nhìn qua bên dãy lầu lớp con gái. Dạo đó, đôi lúc vui miệng, buổi chiều ngồi nhìn qua bên kia vườn, hai người cười cười, ngó mong ngó ngóng chờ thấy cho được bóng dáng Ngọc Diệp đâu đó vẫy tay chào, rồi đẩy đưa qua lại “cho mầy cho tao”.

    Giữa năm Đệ Tam, mấy anh lớn, có người cháu của bà dì ở Thạnh Phước, rời trường, người vào lính người xuống Sài Gòn học lên, không còn ai ở đó nữa, Hiển cũng dọn tới ở chung với mấy người bạn cùng quê, tại xóm nhà thiếc, bên này đường ngó qua ngôi nhà ngói cũ, có cây xoài già um tùm ở một góc cái sân rộng lớn, chỗ ông thầy dạy Đại Số lớp Hiển và hai ba thầy khác từ Sài Gòn lên ở, cách ngã tư nhà Phong, Ngọc Diệp con đường quen. Rồi cũng vẫn nói cười bên nhau, tuy Phong không còn chung lớp, vì anh ta chọn theo ban A, Hiển bên lớp ban B, vẫn cứ tụm ba tụm bốn đi về, nhưng lối rẽ chia tay sớm, Hiển ngược hướng nhà mình trọ, thấy buồn thấy lo, lo gì sao khó nói, hai người kia cũng là lối cũ, ngõ xưa.

    Hè cuối năm dài hơn mấy năm trước và cứ muốn trở lại trường sớm, Hiển sợ sẽ vuột mất cái gì đó, cái gì đó là anh đã yêu Ngọc Diệp thật rồi, nhưng biết làm sao nói ra. Vào học trở lại không lâu, sau nhiều đêm ngày đắn đo, anh viết lá thư ướm lời tạm đủ trang giấy, nhờ Phong đưa lại giùm, buổi chiều chia tay chỗ xế ngã tư, Hiển ngại ngùng, hồi hộp đứng nhìn lại từ xa, Phong nói gì đó với Ngọc Diệp, cô nàng cười, tiếp tục đi, anh quay nhìn Hiển, đưa tay làm dấu “được rồi” nhưng không thấy cầm lá thư, Hiển đứng chờ hai người đi khuất sau hàng cây Sao cao, nhìn mông lung, lửng thửng về. Mấy ngày sau đó cũng chờ nhau tới trường, cũng chuyện xưa tích cũ, Ngọc Diệp cười nói như thường ngày, không biết có đọc thư chưa, Phong không nhắc gì tới lá thư và Hiển cũng không hỏi lại, thôi cứ để “sông trôi đời sông suối trôi đời suối”.

*

    Đậu Tú tài Một, Ngọc Diệp không học tiếp mà xuống Sài Gòn vào Quốc Gia Sư Phạm. Năm sau cả hai đậu Tú tài Hai, Phong vào trường Dược, Hiển ráng trường này trường kia nhưng không khá, cuối cùng chui vào cả Văn khoa, Luật khoa kiểu “bắt cá hai tay”, mất cái này còn cái kia, năm đầu qua được cả hai nhưng rồi bỏ Văn, chí thú “một mất một còn” với Luật với “con đường Duy Tân cây dài bóng mát”. Năm đầu ở Sài Gòn, tuy không tụm hai tụm ba như những ngày còn học trung học, đi về có nhau, nhưng cả ba cũng gặp nhau dù không thường lắm, cũng ngồi quán nhạc cũng dạo phố chiều, người xuôi kẻ ngược. Suốt năm này Hiển vẫn nhớ lá thư gởi cho Ngọc Diệp, nhưng không lần nào hỏi lại, Phong cũng không có lần nhắc tới.

    Ngọc Diệp tốt nghiệp, chắc là học khá, đậu cao nên may mắn chọn về dạy tại trường tiểu học tỉnh nhà, và từ những ngày sau đó, Hiển ít khi về tới Tây Ninh, vã lại trên đó đâu còn ai, đám bạn cũ có thằng tự bỏ đi, có thằng buộc phải đi vì phần số “học tài thi phận”, cũng vài lần cuối tuần không chịu nổi, nhớ mà nén lòng không nén được nên vội vã đón xe đò sớm lên tỉnh rồi vội vã về, ghé qua gặp Ngọc Diệp, gọi là hỏi qua hỏi lại chuyện bây giờ, nhắc vài chuyện cũ rồi thôi, cô nàng cũng vậy, có cho biết thường gặp Phong hơn mỗi lần về tỉnh, vậy rồi thôi, từ giã ra về, hẹn gặp lại, Hiển cũng chưa nói ra được nổi lòng, thân phận nhưng anh hy vọng những gì trong lá thư xưa có lẽ cũng đủ rồi.

    Một chiều nắng đầu hè, sau những ngày thi năm thứ ba, nắng không nắng lắm nhưng trời nóng, oi bức, trên gác trọ loay quay sắp vài thứ lặt vặt cho sáng mai về Trãng Bàng vài hôm, thì Hoàng đến tìm, anh bạn chơi thân cùng lớp cả Hiển và Phong, quê ở Trâm Vàng, thi đậu, Hoàng vào lính Võ Bị Đà Lạt, ra trường chọn binh chủng Dù, đóng quân đâu đó ngoài vùng 2, được phép về thăm nhà mấy ngày, trên đường chờ trở lại đơn vị ngày mai, ghé thăm vì cũng khá lâu không gặp, hai người kéo nhau ra cái quán cơm bình dân đầu đường Trần Bình Trọng ăn cơm chiều, ngồi nhắc chuyện mầy chuyện tao, chuyện giảng đường sách vở chuyện áo trận giày sô, anh cho biết cũng có tới thăm Phong bên cư xá Nguyễn Văn Thoại, và Phong báo tin anh ta và Ngọc Diệp sẽ cưới nhau sau Tết năm nay, mời Hoàng về dự cho vui. Hiển ngớ người ra, bổng dưng tim đau nhói, có lúc tưởng như ngừng đập, không nói được gì hơn hai tiếng “vậy sao”, mắt cay xé, trời bổng dưng lạnh buốt dù ngoài kia, ngoài kia vẫn còn gay gắt những tia nắng vàng muộn trên đường.

    Trước ngày nghĩ Tết, Phong tới, buổi sáng, báo tin, đưa cho Hiển cái thiệp cưới màu hồng tươi, dặn dò một hai anh phải có mặt, trước khi về Tây Ninh, Hiển cười chúc mừng nhưng cười trong xót xa, quặn thắt, chuyện qua chuyện lại nhưng lần đầu Hiển nói toàn chuyện không đầu không đuôi, trong đầu ẩn hiện lá thư năm nào, Phong thản nhiên “mầy tao” như ngày xưa và có lẽ không màn biết làm gì, cái thiệp cưới không nhiều chữ nhưng tên Phong, Ngọc Diệp là câu trả lời cho những chữ yêu trong lá thư mà Hiển đã một lần nắn nót hy vọng một ngày, như vậy đủ cho anh quên và phải quên từ đây, Phong về rồi, Hiển để thiệp cưới trên bàn học, nghèn nghẹn khóc một mình. Hiển không về dự đám cưới như đã hứa, nhờ mấy thằng bạn cùng đám nhắn vì một lý do không có thật là ba anh bị bệnh nặng, phải lo săn sóc ông ở bệnh viện quận, Hoàng thì đã nằm xuống ở chiến trường cao nguyên khi tuổi đời vừa quá hai mươi. Qua Tết, vào học lại, hai người không thường gặp nhau nhiều, thứ bảy chủ nhật Phong không còn nấn ná ở Sài Gòn mà về tỉnh với vợ, hình như chuẩn bị mở tiệm thuốc Tây, Hiển cũng chưa có lần lên đó và cũng từ đó Hiển chỉ về tới Trãng Bàng.

*

     Xếp hồ sơ lại, giấy tờ ly dị, hẹn tuần tới, cầm trên tay, Hiển đưa Ngọc Diệp ra cửa, hơn một tiếng đồng hồ cả hai không nhắc gì chuyện cũ, ngoài vài câu hỏi qua hỏi lại “vô thưởng vô phạt” của ngày tháng hiện giờ, Ngọc Diệp ra đường, chần chừ xem ra muốn nói gì đó nhưng thôi, rồi bỏ đi, tới góc phố, cô nàng đứng trước cửa tiệm Giao bán dụng cụ thể dục thể thao, nhìn lại, Hiển cũng còn đứng trước văn phòng nhìn theo, một lần nữa vẫy tay chào rồi khép cửa, Ngọc Diệp vẫn còn đó, nắng xuống, gió từ bến Bạch Đằng lãng đãng lùa về, như ngàn cánh bướm be bé, từng chiếc lá me chờ nhau đong đưa bay theo trên đường, trời về chiều.



     Hiển trở vô phòng, kéo màn che nắng cửa sổ trên lầu, nhìn xuống ngã tư, nơi Ngọc Diệp đứng lúc nãy, cô không còn đó, nắng úa vàng từng vạt mỏng, lắc lư xuyên màn bụi thấp thoáng nhẹ bay trên vĩa hè. Ngồi đọc lại hồ sơ, hai vợ chồng, xin ly dị, mà cả hai người Phong, Ngọc Diệp tương thuận đồng ý, lỗi ở Phong ngoại tình và sống lén lút với người con gái khác, tài sản chia đôi, chưa có con, không tranh chấp nên không cần phải ra tòa, đứng lên nhìn xuống đường lần nữa, mọi thứ, của những ngày tháng cũ tưởng đã “chôn dưới mộ sâu”, chưa chịu mất, bổng dưng bừng dậy một lúc, cố xua đẩy nó xa nhưng càng cố bao nhiêu thì nó cứ như cơn lũ dữ ùa về gần, Hiển lắc đầu thở dài “chỉ là giấc mơ”.

    Hôm tới văn phòng nhận giấy tờ kết thúc hồ sơ ly dị, chờ chị thư ký tính toán lệ phí, ngồi trong phòng làm việc, Ngọc Diệp nói rất nhiều về đời mình sau ngày thành hôn với Phong, buồn nhiều hơn vui, chuyện ngày còn chung trường chung đường đi về, chuyện phố phường vụn vặt từ những ngày mới quen cuối năm Đệ Thất, Hiển chợt nghĩ một lần rồi thôi, bèn nhắc chuyện lá thư của hơn năm năm trước, Ngọc Diệp ngạc nhiên, dường như thật lòng, cho biết “cô đâu có nhận cái thư nào”, Hiển thở ra, lắc đầu cười “thì ra vậy, chỉ là mấy chữ từ giã thôi”, không nhắc tên Phong, ra về, có phần vui hơn lần gặp trước, Ngọc Diệp tay mân mê cái bao thư lớn đựng giấy tờ, nhìn xa xa ra đường nói nhỏ “anh Hiển viết gì trong thư đó vậy”, Hiển cười không trả lời, hai người hẹn sẽ gặp lại nhưng không ai nói khi nào và ở đâu.

*

      Trưa thứ bảy, ngồi một mình nhìn xuống khu chợ Hòa Bình trong quán cà phê Tùng, vừa tàn Hạ mà trời Đà Lạt đã trở lạnh sớm, nói thì nói chứ hình như ngày nào ở đây cũng lạnh, không ít thì nhiều, sương cứ mờ mờ nhạt nhòa “sương khói mờ nhân ảnh”, che mất nắng, dưới đó, xa xa ngoài hồ Xuân Hương, đường phố áo len đủ màu lên xuống lại qua, bỏ Sài Gòn, nơi đã sống một phần đời, buồn vui lẩn lộn, ra đây lo cho chi nhánh văn phòng của ông thầy, sau ngày chính thức trở thành luật sư cũng gần hai ba tháng, chọn nơi này, nơi Hiển bằng lòng nhận cho mình một chỗ đi tìm lãng quên ngày tháng cũ, thôi thì trả lại cho định mệnh để còn chút vui. Uống cạn chút cà phê cuối cùng còn lại trong ly, Hiển ra khỏi quán, khói thuốc như hơi sương man mác ra theo, trong máy hát tiếng người ca sĩ quen cũng vừa bắt đầu bài hát gì đó, Hiển đứng lại ở một góc đường dốc, nhặt cành thông nhỏ lẻ loi khô, ướt hơi sương, nằm một mình buồn thiu bên lề, vẽ hai chữ “vĩnh biệt” trong màn sương đục trước mặt, cành thông ngơ ngác vụng về gãy.

    *

     Ngọc Diệp ra khỏi cửa văn phòng, mắt cay xé, gói quà trên tay run rẫy, Hiển không còn đó, và cô thư ký mới cũng không biết anh hiện làm việc ở đâu, đứng rụng rời, thờ thẩn dưới mái hiên tiệm vải kế bên, trời chợt như tối sầm trước mặt dù đang giữa buổi sáng của một ngày lưng chừng Hạ, chiếc xe xich lô đạp ngừng vội bên lề, người đạp xe già ngó vào hỏi, Ngọc Diệp lắc đầu, ôm gói quà lên ngực, lủi thủi đi, đường vắng không có lá me bay, bật khóc.

Thuyên Huy  

Tháng giữa Hạ xứ xa

Nói Với Chị Nguyệt & Mùa Thu Đã Hết - Nguyễn Thị Châu

 NÓI VỚI CHỊ NGUYỆT

 













Ta cùng nhau dưới ánh trăng tà

Chút duyên hò hẹn những ngày qua

Lơ lửng trên cao theo chị Nguyệt

Hàng dừa nghiêng bóng về nơi xa

 

Trăng tròn đã khuất ở đầu non

Hai bóng tình nhân sao vẫn còn?

Đếm ngàn sao sáng trên nền tối

Đếm giọt sương buồn ướt môi son

 

Không gian tĩnh lặng đêm thật dài

Ngàn sao cũng khóc suốt đêm nay

Mình ta thức trắng cùng trăng cũ

Nhớ người để lại chiếc lá phai

 

Người hởi! Đi rồi có nhớ chăng?

Những đêm thao thức dưới ánh trăng

Phút giây lưu luyến duyên đã hết

Mình tôi tâm sự với chị Hằng…!!!

 

 9-7-2025

 Nguyễn thị Châu

 

MÙA THU ĐÃ HẾT

 


















Lại thấy Thu về trên lối xưa

Ngoài hiên tí tách vọng tiếng mưa

Lá đỗ ngoài sân buồn ray rức

Từng chiếc lá rơi, rơi lưa thưa

 

Lặng lẽ nhìn lên chiếc lá vàng

Buông tay theo gió bay lang thang

Gởi cho ai đó lời tâm sự

Buồn ơi! Thu đến lá rơi vàng

 

Thu đến, Thu đi, Thu lại về

Anh đến, anh đi,buồn tái tê

Nước mắt ai rơi trong đêm vắng

Mùa Thu hoài vọng đón anh về

 

Lá rơi,hay nước mắt ai rơi?

Mùa Thu đã hết trong tôi rồi

Từ khi chiếc lá bay lạc mất

Mùa Thu đã hết, giọt lệ rơi…!!!

 

9-7-2025

Nguyễn thị Châu

 

Mùa Xuân Về Anh Sẽ Hát Bâng Khuâng - Thương Huyền

 MÙA XUÂN VỀ ANH SẼ HÁT BÂNG KHUÂNG

 


 














Nếu em thích tình yêu ngọt ngào như trái cây mùa hạ
Thì mai anh về tìm kiếm tuổi hoa niên
Với anh – tháng ngày chỉ là vị đắng
Uống khổ đau môi mềm đã thành quen
Nên không thể vuốt ve hạnh phúc đẹp tròn
Nên không thể làm thơ thành nhã ca …

Mùa đông cô đơn mang nhiều rét mướt
Nếu tình anh không là áo em sưởi ấm
Thì anh về, hoa gạo nhặt từng bông
Không ấm tay em mà lạnh trong lòng

Và nếu tình anh không là vườn địa đàng
Cho em vào yên lành trú ẩn
Thì anh sẽ trở về quê hương
Như thuở còn thơ ấu …

Mùa thu anh sẽ đi tìm loài dã thảo
Nhắc tên em trên những cánh hoa rừng
Mùa xuân về anh sẽ hát bâng khuâng
Anh đào rụng lung linh như ngấn lệ
Anh sẽ bảo rằng người yêu nhỏ bé
Vẫn đi về trên lối nhỏ hồn anh
Mắt bồ câu vẫn dấu mộng yên lành

Qua năm tháng…

Môi vẫn đỏ, má vẫn hồng và tóc vẫn xanh
Thiên đường đó gót mềm chưa lạc bước
Tình yêu đến – khổ đau chưa từ khước
Khung trời nào hoa bướm chẳng thương nhau
Chừng nào em về …

Bây giờ hay mai sau?

Giấc hoàng hôn trên vai anh yên ngủ
Tháng năm và cuộc đời có gì trắc trở
Cho bước chân chim
Ngập ngừng vào khu vườn đó
Hạnh phúc nào lựa chọn đâu em ?

Rồi mùa đông… … hoa rụng trắng bên thềm
Em sẽ khóc rất nhiều như một loài rêu câm nín
Nếu hôm nay em chẳng biết chăm nom
Bằng đôi tay búp măng
Vun quén cho loài hoa mới mọc

Bây giờ hay mai sau..?

Thương Huyền

 

Saturday, July 5, 2025

Kiều Nương - Nguyễn Cang & Thuở Ấy - Diệp Văn (Thơ Xướng Họa)

 XƯỚNG HỌA THI HỮU

Bài xướng:

KIỀU NƯƠNG 

(ngũ độ thanh+ bát vỹ đồng âm)

 














Lầu xưa cảnh cũ nhớ thương Kiều

Khổ nạn đâu ngờ lỡ bước xiêu

Yểu điệu vai gầy trơ dáng liễu

Đài trang gót nhỏ ngập mây chiều

Tâm hồn mẫn cán bao chàng liệu

Não trạng hao gầy lắm kẻ yêu

Chạy đuổi xuân tình sao vẫn thiếu

Đành mang tủi nhục nói chi liều!

Nguyễn Cang ( Oct. 19, 2024)

Bài họa:

(nđt+bvđâ)

 THỦA ẤY

  Luyến bạn thầm thương vẻ diễm kiều

  Đem lòng trộm nhớ thả hồn xiêu

   Trăng tàn gối mộng mơ mày liễu

   Nắng đổ vờn mây rộn rã chiều

   Ở chốn hoàng cung nào dễ liệu.

   Thư đề đĩnh đạc nói lời yêu

   Là thân lãng tử thời niên thiếu

   Đối cảnh sinh tình...Vạn lẽ liều!

   Jul 1.25 Diệp văn

 

 

Cũng Đành - Thuyên Huy

 

Cũng Đành

Chuyện kiếp nghèo tưởng tượng , kiếp nghèo của một người có thật




1.

 

     Anh tư Lậy bỏ cuốc xuống cái bờ đê ngăn đôi miếng ruộng còi, chừng hai mẫu đất, mướn của ông chủ điền ở Trâm Vàng từ ngày vợ anh, chị Búp, sinh ra thằng Bon, đứa con đầu lòng tới bây giờ, vừa hơn bốn tuổi. Nắng giữa trưa nóng cháy người, mặc dù ngoài đồng lúc nào cũng có gió, kéo cái áo thung rách tả tơi lên lau mồ hôi, ngồi bệt xuống nghỉ tay bên mấy cây bình bác sai trái. Anh mở mo cau đựng mớ cơm nguội và hai ba con cá khô ra, bốc ăn vội vã, để còn kịp làm xong phần đất khô nứt, trước khi mưa xuống.

*

    Đám ruộng không tốt, chỉ cấy được hai phần ba, vợ chồng ráng dành dụm chắt chiu, làm thuê làm mướn, từ ngày lấy nhau trên Dầu Tiếng, bỏ về Trà Cao, mướn với giá rẻ, hy vọng có ngày dễ thở hơn. Năm năm rồi, tay chân chai cứng, sớm nắng chiều mưa vẫn không đủ cho ba miệng ăn, bữa no bữa đói, tội nghiệp cho thằng Bon, miệt mài uống nước cơm thay sữa. Năm nào thất mùa, dù người chủ thông cảm, giảm bớt số lúa trả, nợ nần ngập đầu, hẹn lần hẹn lựa. Chị Búp, cắn răng cam chịu, phụ chồng đầu tắt mặt tối, anh Lậy thương vợ xấu số, lấy chồng cùng đinh, một thân dãi dầu mưa nắng, không từ nặng nhẹ. Chữ nghĩa học lóm người, cha mẹ mất sớm, đi chăn trâu, không đầy nắm tay, anh Lậy cũng ráng dạy con tập đánh vần, trong ước mơ thấy con đến trường làng một ngày nào đó.

    Cuối mùa gặt, lại mất mùa, lúa đập được không đủ trả, hai vợ chồng dẫn con, đón xe đi Trâm Vàng, xin chủ ruộng thương tình cho khất số lúa tới năm sau. Đứng chờ xe lam về Trà Cao, chị Búp mằn mò mấy chục đồng bạc trong túi áo lót, mua cho thằng Bon, nửa ổ bánh mì chiều có cá mòi đỏ, chị sung sướng hôn con, ngồi đại xuống lề, con đường trải nhựa đen giữa chợ quận, mặc thiên hạ lại qua, thằng nhỏ nuốt nước miếng, ngấu nghiến ăn ngon lành.

*

    Anh Lậy từ ruộng về, tay xách cái đục tre với vài ba con cá rô nhỏ xíu, thằng Bon chạy lăng xăng ra đón. Anh cho nó con cá lia thia xanh đen, cái trò chơi duy nhất mà nó có. Khói lam cơm chiều, quyện lửng lơ trên dăm ba mái tranh, lác đác xa xa ngoài đồng vắng. Ở đây nhà trong ấp, gần nhau ít nhất cũng vài bờ đê ruộng. Trời tối, nhìn con nằm ngủ trong cái vỏng bằng vải bố rách bương, nhìn mái nhà tranh ủ dột, tấm liếp tre che cửa, trống trước hụt sau, tiếng chị Búp thở dài não nuột, không thua gì tiếng ểnh ương gọi mưa trong đêm lạnh. Anh Lậy trăn trở, xót xa nghe.

*

    Xuống xe đò, tại ngõ vào cổng chánh Tòa Thánh, anh Lậy ôm cái túi xách bằng dây lác đi trước, chị Búp dắt con theo sau, cả hai tìm ngay đến văn phòng Chánh Đầu Sư, người giữ nhiệm vụ cai quản Cô Nhi Viện. Thằng Bon, ngây ngô chạy nhảy tung tăng trên nền gạch bông đủ màu bóng láng. Hai vợ chồng rưng rưng nước mắt, ký tờ giấy cho con, Ông Chánh Đầu Sư không cầm được lòng, gở cặp mắt kiếng già ra, lau ngấn lệ. Thằng Bon theo ba người lớn qua nhà chơi, thấy đám con nít trang lứa đùa giởn ồn ào, la hét, chạy vào nhập bọn, quên hẳn cả cha mẹ. Hai vợ chồng ở lại đó cho tới giờ ăn chiều, rồi từ giã ông Chánh Đầu Sư lặng lẽ bỏ con trốn đi, thằng Bon chưa biết gì, cứ mải mê vui chơi. Chị Búp khóc vật vã, trên chuyến xe chiều về Gò Dầu Hạ, anh Lậy cắn chặt vành nón vải, rách tả tơi, cỏi lòng tan nát.

*

    Mùa nước tới, đám ruộng vợ chồng anh Lậy, không thấy ai làm đất, cỏ hoang mọc cao đến dầu gối. Cái chòi tranh, mái dột cột xiêu chừng như muốn ngã theo tấm liếp dừa che cửa, đánh qua đập lại khi trời nổi gió. Dãy mồng tơi úa vàng, lặng lẽ phơi mình bên sàn nước ọp ẹp. Anh Lậy không còn ở đó, không lâu sau ngày dân ấp bắt đầu gieo mạ. Vợ chồng, hai ba cái túi xách, một vài cái túi mang cùng mấy trăm đồng bạc, trả lại miếng ruộng, bỏ Trà Cao đi trong một ngày mưa tầm mưa tả. Hàng bình bác sai trái, ửng vàng chín rộ bên bụi chuối hột buồn thiu, chị Búp kéo tấm ni-lông, nhặt từ bao phân bón nào đó, cất làm áo mưa, che vội che vàng trên đầu, anh Lậy đi sau, mặc tình cho nước tuôn xối xả.

 

2.

    Xế chiều, mây đen bỗng chợt kéo về, làm mặt trời tưởng như hôm nay lặn sớm. Bắt ghế ngồi trước hiên nhà, nhìn ra sân, hàng rào cây sa-bô-chê che khuất đường, nếu không có cái cổng sắt mở rộng, chắc ông năm Nhân chẳng thấy được đám xe cộ dập dìu, ra chợ mới. Căn biệt thự, kín cổng cao tường càng ngày càng quạnh vắng, đôi lúc, ông năm, trước kia làm hiệu trưởng trường tiểu học thời Tây, rồi thời ông Diệm, nay hưu trí, người quen trong tỉnh gọi ông là "ông Đốc Nhân", muốn bàn với vợ, bà Đốc Nhân, người vui tính, phúc hậu, thường hay giúp bà con chòm xóm, kiếm bậy đứa con nuôi về ở cho vui tuổi già.

    Ông bà Đốc Nhân có ba người con, hai anh trai lớn du học bên Pháp, rồi ở lập nghiệp luôn bên đó, cô con gái út, lấy chồng giàu có dưới Long Xuyên, mỗi năm về thăm một lần trong dịp tết. Đi lên nhà trên, đi xuống nhà dưới, đâu đó trống trỏi, có hôm cơm nước cũng chẳng cần ăn, chiều chiều hai ông bà không biết làm gì khác hơn là ngồi ngoài sân, nhìn trời hiu quạnh.

*

    Sau tết ta, ông bà Đốc Nhân, trên đường đi cúng lễ chùa trong Trí Huệ cung về, ghé vào cô nhi viện, gặp ông Chánh Đầu Sư, hỏi thăm chuyện xin con nuôi. Thằng Bon bây giờ được sáu tuổi, đứng xớ rớ ngoài sân một mình, lấm lét nhìn. Ông bà tự dưng thấy thằng nhỏ tội nghiệp, trông nó cũng dễ thương nên ngỏ ý với ông Chánh Đầu Sư, ông kêu thằng Bon lại, đứng gần hai người, khoanh tay cúi đầu chào, rồi cho ông bà biết sơ câu chuyện. Bà Đốc Nhân vò đầu, vuốt tay, thằng Bon cười tủm tỉm. Ông bà Đốc Nhân trở lại cô nhi viện dăm ba lần sau đó, cuối cùng quyết định xin thằng Bon làm con.

    Sáng thứ bảy, bà Đốc thức dậy thật sớm, cẩn thận xếp bộ quần áo mới, mua ngoài chợ mấy ngày trước cho thằng Bon và hộp bánh tây lạt thơm phức mùi bơ, vào túi xách, pha tách nước trà đậm nóng, ngồi nhìn ra cửa sổ, chờ sáng. Ông Đốc ngủ cũng không yên, rục rịch thức theo. Con sáo hoang xoảy đôi cánh ướt mềm sương sớm trên bực thềm đá ngoài sân, bên gốc cây mai già, tết qua rồi mà hoa vẫn còn vàng hực. Tách trà vừa nguội, xe cộ bắt đầu rộn rã ngoài đường, ông quơ cái nón nỉ đội lên đầu, bà sửa lại chiếc khăn lụa quàng cổ, đóng cổng rào. Sương đêm tan dần ở cuối đường, trời đã có chút nắng.

    Thằng Bon lùng thùng trong bộ quần áo mới tinh, ôm hộp bánh tây chạy qua chạy lại, lăng xăng nói năng với mấy đứa bạn cùng tuổi, rồi đến vòng tay chào ông Chánh Đầu Sư và người đàn bà phụ việc, đứng chờ. Ông bà Đốc chậm rải ra đường, thằng Bon lững thững đi sau, thỉnh thoảng quay đầu nhìn lại, đám bạn mồ côi ngoài hành lang không còn ai đó nữa.

*

    Nhà bây giờ có ánh đèn khuya, thằng Bon không lâu, đã đọc chữ làu làu, thuộc cửu chương ngược xuôi xuôi ngược, ông bà Đốc đi đâu nó cũng đòi theo, dạ thưa quấn quýt. Vào lớp năm, chưa đầy nửa năm, cô giáo cho lên lớp khác, ai cũng nể nang, một hai gì cũng con ông Đốc học. Bon dễ dạy, không thấy bị rầy rà chuyện gì, ham đọc sách, ôn bài. Lúp xúp loanh quanh phụ ông Đốc nhổ cỏ, quét lá trong vườn quanh năm suốt tháng.  Buổi chiều nào ông bà cũng đứng ngoài cổng rào, chờ thằng Bon về  mỗi khi nghe tiếng chuông tan học reo lên, từ sân trường tiểu học tỉnh.

 

3.

 

    Vợ chồng anh tư Lậy, từ Đồng Cò lên cô nhi viện Tòa Thánh tìm con, ở đây cho biết Bon đã được nhận làm con nuôi mấy năm nay, họ viết cho địa chỉ nhà ông bà Đốc Nhân ngoài phố tỉnh. Hai người cầm tấm giấy, đón xe lôi máy ra chợ. Anh Lậy đứng ngập ngừng trước cổng nhà, một hồi lâu mới đập vào cánh cửa sắt gọi, chị Búp lặng thinh sau lưng chồng. Bon, đang ngồi hóng mát dưới bóng cây sa-bô-chê cuối sân, nghe tiếng kêu ngoài cổng, chạy vụt ra, thấy người lạ, cúi đầu chào, bỏ đi vào trong gọi ơi ới:

- Má ơi có khách

Bà Đốc Nhân, sửa lại vạt áo ngắn, vuốt sơ mấy sợi tóc trắng phao trước trán, theo Bon đi ra. Vợ chồng anh Lậy đứng yên một chỗ, nhìn thằng Bon không chớp mắt. Bà Đốc thấy người lạ, sợ là tìm lộn nhà, nên chậm rãi hỏ:

- Hai cháu muốn tìm ai?

Chị Búp giành lấy tờ giấy trong tay chồng, ấp úng:

- Dạ phải đây là nhà của ông Đốc không?

Bà Đốc gật đầu, kêu Bon mở cửa rộng ra

- Tôi là bà Đốc Nhân, hai cháu có chuyện gì không, thôi mời vô nhà rồi nói gì thì nói. Bà quay vào, Bon bỏ chạy trước, đứng ngay bực thềm đá chờ, vợ chồng anh Lậy khép nép theo sau.

*

Ông Đốc từ trong bước ra mời ngồi, bà Đốc xuống nhà sau, Bon phụ bưng nước lên rồi cầm cuốn sách Tập Đọc Vui ra sân. Ông Đốc Nhân lập lại lời vợ hỏi:

- Vậy hai cháu tìm tôi có chuyện gì?

Anh Lậy kéo tờ giấy cho con, ngã màu vàng nâu bèo nhèo trong túi áo ra, đưa cho ông Đốc, rưng rưng nước mắt kể chuyện đói nghèo, thương con vô tội chịu cảnh bần cùng, nên đành phải bỏ con vào cô nhi viện, chị Búp nức nở khóc sướt mướt theo. Ông bà ngồi nghe cũng bùi ngùi, tội nghiệp. Bà Đốc kêu thằng Bon vô, nó đứng kế bên ghế ông Đốc, không hiểu gì, ngơ ngác nhìn qua nhìn lại. Anh ngưng câu chuyện, ngước lên, Bon mở tròn xoe mắt. Bà Đốc nắm tay Bon, kéo đứng sát vào bà, ngó chị Búp thông cảm:

- Thằng Bon đây, dù sao cũng là con ruột của hai cháu.

Bà quay qua Bon, chỉ tay về phía anh Lậy, giọng rung rung:

- Bon con, ba má ruột của con đó, thưa ba má đi.

Bon nghe nói, chẳng biết ất giáp gì, cũng cúi đầu:

- Thưa ba má!

    Ông bà Đốc nghe Bon nói tiếng chào, rươm ruớm nước mắt. Vợ chồng anh Lậy, ngồi chết trân, nửa muốn ôm lấy con, nửa ngại ngùng không dám. Ông Đốc Nhân xót xa đứng dậy, nhìn bà Đốc nói:

- Thôi để cho hai cháu nói chuyện với thằng Bon, vợ chồng tôi vô trong, có cần gì thì hô lên một tiếng.

Bà Đốc bước theo sau, vò đầu Bon:

- Ở đây chơi với ba má ruột con nghe, nhớ giỏi nghe Bon.

Chập sau ông bà Đốc trở lên nhà trên lại, Bon ngồi im lìm trên ghế, ông Đốc bảo Bon ra ngoài chơi, Bon vòng tay chào rồi chạy ùa đi, chị Búp vói theo:

- Bon coi chừng té!

- Bây giờ hai cháu tính sao? Ông Đốc sửa gọng kiếng trên mặt nhìn vợ chồng anh Lậy hỏi.

Lần này chị Búp lên tiếng, giọng bùi ngùi:

- Vì quá nghèo nên phải cắn lòng bỏ con, bỏ mà đứt từng khúc ruột, mong có ngày khá hơn, xin nhận nó về, hai vợ chồng cháu xin ông bà thương tình cho phép tụi cháu đem thằng Bon về, công nuôi dưỡng của ông bà, bấy lâu nay, tụi cháu xin ông bà nhận nơi đây mấy lạy, đáp đền ơn sâu nghĩa nặng.

*

Vợ chồng anh Lậy, quỳ bẹp xuống nền gạch bông, xá tay cúi đầu vái lạy. Bà Đốc vội vàng, nắm lấy tay chị Búp kéo lên.

Ông Đốc, gở cặp mắt kiếng xuống, đôi mắt đỏ hoe:

- Ba năm nay, trong nhà có nó, vợ chồng cũng vui, nó ngoan, dễ dạy lại học giỏi, nhưng dù sao hai cháu là ba má ruột, có công lặn lội đến đây, không còn nó tụi tôi cũng buồn, nuôi thì mến tay mến chân. Nhưng biết làm sao hơn, con của hai cháu thì trả lại cho hai cháu...

Ông ngừng ngang đó, đưa tay quẹt nước mắt, bà Đốc thổn thức tiếp lời:

- Hai cháu yên tâm, tụi tôi không giành giựt gì đâu, nói chắc nó cũng hiểu thôi, tôi mong là sau khi đem nó về, nhớ cho nó đi học tiếp, nó học giỏi lắm, ham học nữa, bỏ uổng lắm.

*

    Anh Lậy chấp tay xá thêm mấy cái, nghẹn lời không nói được tiếng nào. Bà Đốc đưa cho vợ chồng anh Lậy, cái túi xách đựng đầy quần aó, giày dép của thằng Bon cùng sách vở. Thằng Bon khóc rấm rứt, ông bà Đốc khóc theo, bà trao cho chị Búp một số tiền, gọi là cho thằng Bon ăn bánh. Ông bà tiễn vợ chồng anh Lậy ra tới cổng, ông Đốc Nhân ôm Bon vào lòng khuyên lơn, bảo nó về ba má chơi vài hôm ông bà sẽ xuống thăm. Chiếc xe lôi máy chạy khuất cuối dốc đường Võ Tánh rồi, ông bà Đốc vẫn chưa chịu vào nhà, trời giữa trưa nắng chang chang đổ.

 

4.

    Lập đông, gió heo may hiu hiu thổi, lá uá phủ rục cả góc vườn sau, lâu rồi không ai hốt. Thằng Bon đi rồi, ông bà Đốc buồn không biết là bao nhiêu, căn nhà dường như vắng vẻ hơn khi không có nó, sáng sớm bà Đốc thôi không còn nhóm lửa ngoài sân, thui thủi một mình nhìn sương lạnh. Chiều về ông Đốc se thắt lòng già, nghe tiếng chuông tan học reo vang nhưng cánh cổng sắt nặng nề không thấy mở. Tiếng đám bạn nhỏ cùng lớp gọi Bon hởi Bon ơi ngoài đường, vọng lồng lộng vô nhà nghe buồn da diết. Ông bà không nghĩ đến chuyện xin con nuôi lần nữa, sợ phải lâm vào cảnh vừa qua. Bà Đốc nhấp hớp trà nóng, ngó mông lung qua khung cửa sổ, buổi sáng trời mù mờ sương, bà chợt thấy chạnh lòng, không biết thằng Bon ở dưới có lạnh. Cái cổng sắt nhà ông Đốc Nhân ít khi mở từ những ngày đông năm sau.

Thuyên Huy