VÉN NẺO VÔ THƯỜNG
Cuối thế kỷ 19, có một thanh niên Trung Hoa từ
bỏ mảnh đất Phúc Kiến loạn lạc khốn khổ để sang xứ An Nam, lần xuống vùng Nam kỳ
Lục Tỉnh mưu sinh. Nhờ có chút chữ nghĩa, lại biết xử dụng bàn toán, chàng Hoa
kiều được một chủ chành(1) ở Trà Vinh thu nhận, cho làm “tài phú”(2). Được một
thời gian, thấy người tài phú đã thật thà lại siêng năng giỏi giắn, ông bà chủ
chành bèn gả con gái cho.
Vinhhuy Le
Đôi vợ chồng người tài phú ra riêng, chồng bắt
mạch hốt thuốc, vợ buôn hàng xén, lần hồi cũng lập nên cơ nghiệp, tậu thêm ruộng
vườn. Trong mười bốn người con của họ, có hai anh em sinh đôi nổi tiếng hào hiệp
trượng nghĩa.
Cậu Sáu An sớm thành gia thất, còn cậu Bảy
Bình tính thích bay nhảy, chưa muốn vướng vòng vợ con lẩn quẩn. Cả hai đều theo
nghề thương lái để rộng cẳng giang hồ.
Một hôm, khi cho ghe đi ngang vàm Trà Cú, Bảy
Bình tình cờ gặp một thiếu nữ đang giặt đồ dưới bến sông. Cậu than với anh:
– Rồi, chắc đời tui neo lại bến này thôi, anh
Sáu ôi!
Chỉ nói vậy rồi cậu nhảy tót lên bờ, lần theo
dò hỏi thân thế cô gái, để người anh một mình dẫn đoàn ghe thương hồ đi tiếp.
Cô gái nọ là con một chủ điền trong vùng. Cô
cũng là con thứ bảy trong nhà, tên Phương. Cô đẹp người lại tốt nết, thùy mỵ đảm
đang, được nhiều người ngấp nghé nhưng chưa hề để mắt tới ai.
Bảy Bình say người đẹp, liền xin vào làm thuê
cho nhà nàng. Chưa đầy nửa năm sau, cậu đã được ông chủ điền tin cậy cất nhắc,
giao cho việc trông coi sổ sách trong điền.
Phần ông tài phú họ Huỳnh, hay tin Bảy Bình
mang thân đi làm mướn, lúc đầu ông giận lắm, nhưng sau đó nghĩ lại, cho rằng
con mình đã gặp người vừa duyên phải lứa, ông đổi giận làm vui, chọn ngày lành
để sang nhà ông chủ điền họ Lưu xin kết thông gia.
Hôm ấy, trong điền có con trâu nổi chứng, hễ gặp
người là chém, làm náo loạn cả cánh đồng. Bảy Bình nổi hứng trổ oai, xoay trần
quần nhau với trâu dữ cả buổi mới hàng phục được nó. Khi người nhà ra tìm, cho
hay là hai họ đang giáp mặt bàn chuyện lứa đôi cho mình, Bảy Bình chỉ kịp nhảy
tùm xuống ao, hụp đầu vài cái để rũ bùn rồi hộc tốc thay đồ chạy về. Chàng rể
ra mắt nhạc gia, đầu tóc sũng nước, quần áo còn ngầy ngậy mùi bùn non ngoài đồng.
Chừng bấy giờ ông bà chủ điền mới hay chàng trai mấy tháng nay làm công cho nhà
mình là công tử con nhà tài phú. Cô Bảy Phương cảm động trước tấm chân tình của
chàng trai, mới ưng lời vầy duyên cá nước. Họ sinh được một cô con gái, gia
đình êm ấm no đủ yên vui, cho đến khi…
Đang thời ly loạn mà hai cậu Sáu An và Bảy
Bình cứ đi ghe hoài, người thân can ngăn mấy cũng chẳng được. Họ có cái lý
riêng: Thời buổi hiếm ai đi thương hồ mà mình dám đi thì mới được lãi nhiều. Và
rồi tai họa đã xảy ra, làm tan nát cả một dòng tộc.
Ngày nọ, khi họ dẫn đoàn ghe ghé chợ Phong Thạnh
thuộc huyện Cầu Kè thì nhằm ngay lúc Việt Minh rải truyền đơn trong chợ, Tây
đang dẫn lính đi lùng. Thấy hai người mặt mày sáng sủa khôi ngô, viên sĩ quan
Pháp ngờ là Việt Minh(3), liền ra lệnh bắt họ. Người cùng đoàn thương hồ của
hai anh em nghe kinh động, vội vàng lui ghe, nên được an toàn cả nhóm. Còn hai
chàng trai bị trói gô lại, quan Tây lập tức cho hành hình, không cần xét xử.
Đao phủ là một người Khmer, y không phải dân
giết người chuyên nghiệp, nên chỉ biết nghiến răng nhắm mắt phạt đại mã tấu
ngang thân hai người. Chừng ngó lại thấy hai cái xác đứt làm bốn, ruột gan tuôn
lòng thòng, người đao phủ trợn trắng rú lên kinh hoàng, y rụng rời làm rớt
thanh mã tấu. Công xá quan Tây thưởng đãi cho chỉ là lít rượu đế, người Khmer uống
đến say mèm, hết biết trời trăng. Đến đêm, y đào ngũ trốn về phum sóc, từ bỏ
nghiệp theo Tây. Hai anh em Sáu An, Bảy Bình trước sinh cùng năm cùng tháng cùng
ngày, vậy là nay chết cũng cùng giờ cùng ngày cùng tháng cùng năm, lúc mới
ngoài ba mươi tuổi. Tình huynh đệ đồng sinh đồng tử được vậy kể cũng là trọn
nghĩa, nhưng chỉ thương cho những người thân ở lại phút chốc hóa bơ vơ.
Ông Huỳnh tài phú phẫn uất và đau lòng vì mất
cùng lúc hai người con, quyết chí tái di cư. Được những anh em trong bang hội
Hoa kiều giới thiệu, ông mang theo ít vàng bạc, dắt theo cậu con út, xuống thuyền
tìm đường sang Cựu Kim Sơn, định khi quen thung thổ Hoa Kỳ sẽ dời cả dòng họ
qua theo. Song dọc đường ông bị ngã bệnh rồi mất, người con út theo cha từ đấy
cũng bặt tăm hơi, tuyệt không ai biết cậu mất hay còn. Bà tài phú từ đấy xuất
gia, mượn câu kinh tiếng kệ để nguôi quên thế sự vô thường.
Sáu An mất đi, để lại cho đời được ba đứa con.
Bảy Bình thì chỉ có mỗi mụn con gái. Cô Bảy Phương hôm ấy dắt con xuống bến
sông đón ghe chồng về, tưởng đâu được mừng họp mặt, nào dè lại hay tin dữ chồng
chết chẳng toàn thây. Đau thương quá độ, người quả phụ sinh trọng bệnh, mấy
tháng sau cũng nối gót theo chồng. Bé Ánh – con Bảy Bình và Bảy Phương – mới vừa
8 tuổi đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, không anh chị em ruột rà, một mình cui cút giữa
quê nghèo bộn bề giặc giã.
Cô bé được người dì mang về nuôi. Ông bà ta
thường nói: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”, nhưng bé gái sẩy cả cha lẫn mẹ nên
phải tự mình cậy mình. Ở nhà quê, người ta lại càng ham công tiếc việc. Tự biết
phận mình nên mới tí tuổi đầu bé đã phải quán xuyến việc nhà: giữ em, tắm heo,
chăn trâu, nấu cơm, giặt giũ… Người cô thứ Mười Một của bé sang thăm, thấy đứa
cháu mình ốm nhom đèo đẹt, da đen khét nắng, tóc cháy đỏ như râu bắp. Đang giữa
trưa mà bé phải na từng nạm rơm đút vô lò nấu nồi cơm to đùng, cơm chín thì bơi
xuồng mang ra đồng cho hơn hai chục người lớn dùng bữa.
Cô Mười Một bèn khăng khăng mang cháu bé về
chăm nom, người trong nhà chủ điền họ Lưu ngại mang tiếng bạc đãi cô nhi nên
xúm vào ngăn cản quyết liệt. Mười Một tuy là phận nữ nhi nhưng có lá gan hảo
hán, nhà họ Huỳnh xưa kia từng nuôi võ sư Tàu để truyền võ nghệ cho 14 anh em,
thì cô Mười Một là đệ tử ưng ý nhất của thầy Tàu. Bị cả đám đông hùng hổ bao
vây, cô một tay dắt cháu, một tay rút dao phay chém phập dính cột nhà, buông lời
thề độc:
– Mười Một này thề suốt đời không lấy chồng,
quyết một dạ ở vậy nuôi con Ánh, con anh chị Bảy, cho đến ngày nó lớn khôn. Nếu
sai lời thề, xin chết không đất chôn. Còn bữa nay, như người nào muốn cản tui
mang cháu đi, Mười Một xin phép bửa đầu kẻ đó!
Sau khi Sáu An và Bảy Bình mất, cô Mười Một tập
hợp những người thân tín, lại thay hai anh chỉ huy đoàn thương buôn len lỏi ngược
xuôi kênh rạch sông hồ. Về với cô, bé Ánh được rày đây mai đó, tuy mải miết kiếp
lênh đênh, thời gian sống dưới ghe nhiều hơn ở trên bờ, lại không có bạn đồng lứa
tuổi, nhưng bé lấy làm sung sướng lắm, vì đã có vòng tay cô vững chãi đùm bọc.
Nhưng những ngày tươi đẹp của cô bé chẳng được
bao lâu. Do lao tâm lao lực dãi nắng dầm sương quá độ, chỉ vài năm sau là cô Mười
Một từ trần. Lúc lâm chung, cô cầm tay bé Ánh dặn dò:
– Mệnh trời không cho cô được chăm sóc con đến
ngày khôn lớn rồi, thôi thì cô cháu mình từ đây chia tay. Con ở lại phải ráng sống
sao cho khỏi thẹn là con của Bảy Bình, là cháu cưng của cô Mười Một, nghe
không!
Lại một lần nữa bé Ánh quấn lên đầu vòng khăn
tang, đưa tiễn người thân về cõi vĩnh hằng.
Năm 12 tuổi, có người bà con xa về quê chơi,
khi trở lên Biên Hòa đã dắt Ánh theo. Từ đấy, cô bé đi ở đợ tự nuôi lấy thân.
Sáng dọn hàng cho sạp vải của người bà con ở chợ Biên Hòa, xong rồi đi gánh nước,
rửa bát thuê cho tiệm hủ tiếu, tối đi học nghề may.
20 tuổi, cô mở được một hiệu may ở cạnh rạp
hát Biên Hùng. Con bé nhà quê đen nhẻm gày guộc khi xưa giờ đã thành cô Hai Ánh
hoa khôi xứ bưởi. Các sĩ quan, danh ca, bác sĩ, kỹ sư đua nhau lượn lờ, xe hơi
choáng lộn xếp hàng dài trước cửa hiệu may mong được rước người đẹp về dinh,
nhưng tất thảy đều bị cô gạt phắt sang bên để đến với một anh trai Tàu cục mịch
quanh năm chỉ vận độc may ô quần đùi đẩy xe nước mát bán rong.
23 tuổi, cô về làm dâu một gia đình người Hoa
nhiều khuôn phép khắc nghiệt. Rồi năm sau, cô sinh ra… tôi.
Ngày tôi còn nhỏ, mẹ thường kể chuyện bên dòng
họ ngoại cho tôi nghe. Mẹ kể những đau thương bằng giọng tỉnh rụi, cứ như chuyện
của ai ai ấy, chẳng liên can gì đến mình. Những gian truân lầm than của đứa trẻ
mồ côi một thân chèo chống xuôi ngược chợ đời khiến tôi “bức xúc”, thường giậm
chân trách mẹ:
– Sao lúc đó… lúc đó… mẹ không kêu con để con
giúp mẹ?
Mẹ tôi cười ngất:
– Lúc đó mày còn ở dưới mắt cá mẹ, đã chui ra
đâu mà giúp với đỡ!
* * *
Ngày hòa bình thống nhất, mẹ thắp nhang vái
van ông bà ngoại tôi, rằng đất nước nay đã an bình, đúng như tâm nguyện của cụ
cố tôi khi xưa đặt tên cho hai người anh em sinh đôi. Mẹ vui vì từ nay các con
của mẹ sẽ không phải chịu đau khổ vì tai nạn chiến tranh như đời mẹ và cha ông
xưa.
Ba ngày sau đó, ba tôi gom vàng bạc trong nhà
toan bắt mối đưa cả gia đình ra nước ngoài. Đời ông bà nội tôi cũng vì họa cộng
sản Trung Quốc mà hóa phải mồ côi, lưu lạc sang vùng đất phương Nam này; giờ lại
thấy Cộng quân nắm quyền nên sợ lắm, phải lo mà tái di cư. Nhưng đang đi nửa đường
thì ba bị xe GMC do các chú bộ đội điều khiển cán phải, họ chạy xe giữa đường
phố mà lại phóng loạn xạ tưởng như giữa rừng Trường Sơn nên đã cho xe nghiến
lên ba tôi. Chiếc 67 của ba nát bét, sau đó chỉ có thể mang cân sắt vụn. May mà
ba tôi không chết, nhờ có người qua đường sau khi vét sạch vàng bạc trong người
ba, đã động lòng hảo tâm gọi điện báo tin cho mẹ tôi hay, kịp đưa ba đi bệnh viện.
Tai nạn làm gương mặt ba biến dạng ghê gớm, em
gái tôi sợ hãi khóc thét khi nhìn thấy ba. Cả hàm răng trên của ba sụp xuống phải
dùng niền inox gá lên; một chân ba bị gãy xương, tuy nối lại được nhưng trật khớp,
từ đó ba tôi chỉ có thể đi cà nhắc chậm chạp. Gánh nặng gia đình dồn hết lên
đôi vai gầy của mẹ tôi.
Một năm sau, cả nhà tôi bồng bế nhau về quê
ngoại sinh sống. Với chút tư trang còn sót lại, ba mẹ tôi mua mảnh vườn và khai
khẩn thêm. Mua xong mảnh vườn thì trong nhà tôi chẳng còn lại gì, cả nhẫn cưới
của ba mẹ cũng không còn. Tôi và thằng em thứ nhỏ hơn tôi một tuổi phụ mẹ rà miểng
bom, vỡ đất, đào mương. Cả nhà gồm ba mẹ và năm anh em tôi phải chen chúc nhau
sống trong căn chòi lá tạm bợ như chuồng heo, chỉ vừa đủ chỗ kê cái giường và
quây bồ đựng lúa. Những lúc gia đình lâm cơn túng đói ngặt nghèo, mẹ tôi vẫn cười
hồn hậu:
– Ráng lên, nhà mình nhất định sẽ qua được đận
gian lao này! Ngày xưa mẹ chỉ một mình tứ cố vô thân còn sống được, huống chi
nay cả nhà có đến 7 người chung sức chung lòng…
Mùa rẫy đầu tiên, nhà tôi trồng cải bắp. Đất tốt
nên cải lên xanh mượt, bắp cải nào cũng xanh mởn ngon muốn cắn, nặng trìu trịu.
Ba mẹ con thuê xuồng chèo qua chợ Đại Ngãi bên Sóc Trăng bán, bị chủ vựa ép
giá, mẹ quyết định mang ra đầu chợ ngồi bán lẻ từng bắp một, nhờ vậy mà có được
đồng lời đủ tiền mua hạt giống mới và phân bón cho mùa sau, lại còn sắm được cặp
heo con.
Đêm, mẹ thường thắp nhang, khấn vái rất lâu.
Tôi hỏi mẹ vái gì, mẹ mỉm cười:
– Mẹ vái cầu ông bà ngoại phù hộ độ trì cho
nhà mình…
Một hôm, mẹ mơ thấy ông ngoại tôi và ông Sáu về
than, hai anh em nằm ngoài bờ bụi trơ vơ lạnh lẽo lắm, hai ông bảo mẹ tôi rước
hài cốt hai người về. Trong mơ mẹ tôi hỏi làm sao mà tìm được cốt, vì mẹ nhớ
ngày xưa khi ông nội mẹ – cụ tài phú họ Huỳnh – đích thân đi lãnh xác con mà
không được, còn suýt bị Tây bắt. Trải qua bao khói lửa đạn bom cày xới vùng
quê, biết tìm đâu được nắm xương tàn của hai ông đây! Mẹ kể:
– Ông ngoại con nói là cứ tìm người hồi xưa
chém hai ông thì sẽ gặp!
Mẹ tin vào giấc mơ ấy lắm, làm tôi cũng nôn
nao xốn xang trong dạ. Mẹ còn nhắc hồi xưa ông ngoại sau mỗi chuyến đi buôn về
thường đặt mẹ ngồi lên vai, cõng đi khắp xóm. Trong nhà chẳng còn đồng bạc nào,
mà chuyến đi tìm ông ngoại phải dài ngày họa may mới mong tìm đặng. Gần nhà có
ông cán bộ xã muốn vét hồ cá tra nhưng ai nghe cũng gớm, chẳng ai chịu nhận
làm. Hồ cá nhà ông ta đào cạnh lộ, người đi đường mà chột bụng chỉ cần xé lá
chuối khô rồi bước vào an tọa. Đã vậy, ông ta còn xây thêm chuồng heo trên ao
cá. Đứng cách ao cả công đất còn nghe mùi cuồn cuộn…
Tôi và thằng em đến đòi giá cao, ông cán bộ bấm
bụng ưng thuận.
Lúc mới đặt chân xuống đáy ao, tôi gớm đến nổi
rùng mình ớn lạnh, chỉ muốn lộn mửa, nhưng sau một hồi thì quen, tay gàu sục
bùn lỏng xúc quăng lên lia lịa. Thứ bùn ao cá cầu tiêu nó bầy nhầy, lỏng bỏng,
trơn nhớt… Lúc khom xuống múc bùn, thấy phân người phân heo xanh xanh vàng vàng
còn đọng lại lợn cợn lềnh bềnh ngang mũi, tôi bật cười, nói với thằng em:
– So với anh em mình thì thằng Câu Tiễn là đồ
bỏ!
Làm chỉ hai ngày là xong cái ao cá vồ, lãnh được
món tiền cũng bộn, đủ cho chuyến đi tìm rước ông ngoại. Có điều, cả tuần sau,
trên người hai anh em tôi vẫn còn vương vấn mùi phân…
Bơi xuồng đến chợ Phong Thạnh hỏi thăm thì hai
mẹ con càng xanh mặt rởn ốc cục vì sự linh hiển của ông ngoại: Quả nhiên, người
đàn ông đao phủ Khmer khi xưa chém ông ngoại hiện vẫn còn sống! Ông lão giờ dở
điên dở tỉnh, không vợ con thân thích, đang ăn xin ngoài chợ. Khi nghe mẹ tôi hỏi
thăm chuyện xưa, ông vùng trợn trắng, giãy đành đạch như con cá lóc bị ai đập đầu.
Mẹ tôi cạo gió, giựt tóc mai cho ông cả tiếng đồng hồ ông mới hồi tỉnh, và rồi
ông tỉnh hẳn lại, đứng phắt dậy dắt hai mẹ con tôi đi vùn vụt, phăng phăng băng
đồng lướt bụi. Đến một thẻo đất um tùm ô rô cóc kèn bên bờ sông Phong Thạnh,
ông nhảy loi choi:
– Đây, đây, ở đây. Hai người. Đổ ruột. Giống
con trùn bị ngắt làm đôi. Tui nhớ, nhớ kỹ lắm. Người bị tui giết đó.
Ông phụ chúng tôi đào lên. Bàn tay khi xưa
vung mã tấu lên giờ run rẩy xắn lưỡi leng xuống. Đất mềm nên cũng dễ đào, chỉ độ
hơn nửa tiếng là chúng tôi thấy hai bộ hài cốt đen thui như gỗ mun chung một chỗ
nằm, lẫn lộn vào nhau. Cặp anh em sinh đôi này đến chết vẫn còn quấn quýt thâm
tình ruột thịt. Lạ thay, gần 40 năm vùi trong đất bùn mà xương cốt hai ông vẫn
chưa phân hủy, ý hẳn chờ người thân tìm đến rước về. Mẹ nhận ra bốn cái răng
vàng của ông Sáu, còn thì chia đều ra làm hai gói. Gói có răng vàng để dành
trao lại cho mấy người dì con ông Sáu, nay đã là mệnh phụ cấp huyện, dì Ba Hà
còn có người con bằng tuổi tôi đang du học đâu ở xứ Bún-cà-ri.
Cuộc đi tìm di cốt ngỡ phải mười bữa nửa
tháng, dè đâu chỉ hơn nửa ngày là hoàn thành. Mẹ tôi trút hết món tiền làm lộ
phí cho ông lão Khmer. Phải là con mẹ mới biết món tiền đó nặng cỡ nào. Mẹ tôi
tiện tặn cả đời, bòn mót được đồng nào là dành dụm để lo cho các con. Thèm ăn hủ
tiếu, nhưng khi sáng đãi ông lão, vào quán mẹ chỉ gọi có hai tô. Một tô phần
ông lão, tô kia sớt làm đôi mẹ con chia nhau. Chịu ảnh hưởng từ mẹ mà đến giờ
tôi vẫn có thói quen ăn cơm không để rớt nửa hột; vào quán xá ăn sáng, tôi húp
sạch đến cặn chẳng sót miếng nước lèo; uống cà phê là phải nhai đến cục nước đá
cuối cùng, quyết không chừa lại dù chỉ hạt đường dưới đáy ly. Các chủ quán quen
thường trêu tôi: Bán hàng cho tôi rất khỏe, khỏi phải rửa lại tô với chén, ly với
tách chi cho mệt, vì chúng sạch boong cả rồi!…
Mà số tiền đó lại là tiền công vét phân cho
người ta của hai anh em tôi, nên tôi xót lắm, trong bụng tính thầm: Lát nữa phải
tìm cách để mẹ đi về trước, còn mình lộn trở lại chặn đường lão Khmer này để trấn
lại phân nửa, nhiêu đó cũng là quá lắm rồi!
Nhưng ông lão ăn xin không chịu cầm lấy, ông sụp
xuống lạy mẹ tôi làm hai mẹ con tôi hoảng hồn phải quỳ xuống lạy trả. Lạy qua lạy
lại một hồi, tôi chịu hết xiết, xốc nách ông dậy:
– Nghiêm, đứng thẳng, đứng!
Mẹ vừa khóc vừa siết chặt đôi bàn tay từng vấy
máu ông ngoại tôi:
– Bác ơi, chuyện ngày xưa cũng qua lâu rồi, giờ
bác chỉ giùm cho cháu lấy được hài cốt cha cháu về thì bác là người ơn của gia
đình cháu. Số tiền này bác cứ nhận đi, coi như là nhận để xóa bỏ chuyện xưa lắc
xưa lơ cho nhẹ lòng, mà cha với bác của cháu ở dưới đó cũng được an dạ.
* * *
Sau đó, mẹ con tôi về bên Trà Cú cải táng cho
bà ngoại, rước bà về nằm cạnh ông ngoại (và có thể, cũng có cả một phần của ông
Sáu tôi nữa).
Lấy cốt ông ngoại về được hai tháng thì ông
lão Khmer qua đời. Nghe nói những ngày cuối đời ông không còn điên điên khùng
khùng nữa, ông cạo đầu vào chùa tu và được hỏa táng trong chùa Khmer.
Hàng năm, đến ngày giỗ ông ngoại, bao giờ mẹ
tôi cũng không quên khấn ông lão Khmer về uống chung với ông ngoại và ông Sáu
ly rượu. Mẹ nói:
– Chết rồi thì mấy ông gặp nhau cũng kết làm bạn
bè với nhau chứ kể gì ân oán hồi còn sống chi nữa!
Vinhhuy Le
(1) Vựa buôn lúa.
(2) Kiểu như thư ký, kế toán.
(3) Ở đây, tôi chỉ ghi lại theo lời kể của các
ông già bà cả, chứ quan niệm mỗi thời mỗi có khác nhau. Thời nay thì cán bộ nào
không có cái mặt… ngu ngu thì không phải thế cán bộ. Xin phép nói rõ: Sở dĩ ngu
ngu là do vì quanh năm suốt tháng chỉ biết có ăn với nhậu, hê hê!
Truyện
ngắn này, tôi viết hồi tháng 3-2011. Gõ một mạch, viết đến đâu nước mắt lăn dài
đến đó. Xót ông bà ngoại, thương phận mẹ, và tủi cho kiếp mình.
Tôi viết để tự nhắc nhở mình phải nhớ lấy lời
mẹ dạy: đừng nuôi oán thù.
Sống được ngày nào thì mở lòng ra yêu lấy và tận
hưởng thế gian này. Kiếp người vốn ngắn ngủi như gió thoảng bên thềm, sương tan
buổi sớm. Cưu mang thêm cừu hận chỉ làm chính kiếp sống mình thêm oan trái nặng
nề.
Nhưng không phải vì muốn xua đi năng lượng xấu
đi mà cúi đầu cam chịu bất công, để mặc cường bạo hoành hành. Mẹ ơi, mẹ còn nhớ
không, hồi đó ngăn sông cấm chợ, nhà mình gom tiền mua lúa đặng về quây bồ dự
trữ. Miền tây này nước lành trái ngọt, chỉ cần có bồ lúa đủ ăn một năm trong
nhà là đủ, còn thức ăn thì cứ nhảy xuống mương rạch, chịu khó lặn lội vài khắc
là đủ soạn mâm cơm.
Vậy mà ghe lúa nhà mình bị chúng nó chặn bắt,
hai mẹ con bị vu là gian thương phải bị giam trong văn phòng hợp tác xã. Nửa
đêm nước lớn, mẹ con mình cởi trói, tháo ghe xuôi dòng về nhà, con chống sào đằng
trước, mẹ bẻ lái đằng sau, tay lăm lăm dao bầu, nhứt định nếu chúng nó dám rượt
theo là đuổi bắt là ra tay chặt phăng vài thủ cấp, cho biết dòng dõi Bảy Bình
không phải thứ con sâu cái kiến cam chịu khuất nhược. Lúc đó, con đã cười sặc,
sảng khoái ghê gớm khi nhìn mẹ khẳng khái huơ dao nửa vòng trước mặt:
– Mẹ bà nó, thử đi thì biết. Người chết thì
lúa này mới chịu mất!
Mẹ sẵn sàng bỏ qua nhát mã tấu giết chết ông
ngoại, nhưng quyết không khoan nhượng, cam để bọn cường Cộng cướp đi bồ lúa
nuôi sống các con mẹ. Nếu cần, mẹ con nhà mình sẵn sàng hiện nguyên hình thảo
dã, chẳng ngán đứa nào…
* * *
Giờ thì mẹ đã lẫn, quên nhiều hơn nhớ. Chuyện
năm bảy chục năm trước mẹ nhắc rõ rành từng chi tiết nhưng lại không biết mình
sáng nay đã ăn gì chưa. Có lúc, mẹ ngỡ ngàng nhìn con chẳng biết là thằng nào,
con nhà ai sao lại bóp chân cho mẹ. Gần 80, mẹ không còn thể tự tay bưng ly nước
chén cơm, bước đi cũng phải tập lại từ đầu, chập chững như thuở sơ sinh đến thế
gian này.
Không oán không hờn, không thương không luyến,
mẹ tôi đang dựa lưng ra ghế, nhẹ nhàng ngắm mây chiều rực rỡ phía chân trời.
Vinhhuy Le
Nguồn: Facebook Vinhhuy Le
304Đen – Llttm -sgtc
No comments:
Post a Comment