"VIỆT NAM" NGHĨA LÀ GÌ?
LTS
/ TCDV : Chân thành cảm tạ anh Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết đã có bài viết này, Bố
tôi là người am tường tiếng Hán, nhưng không có tài liệu để tham khảo vì khi
nhà Thanh rút về Tầu, chúng đã đem tất cả văn kiện “đô hộ” về Tầu, sách chữ Hán
cũng bị chúng gom góp đem hết về Tầu. Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết gọi cụ Chánh Trí
Mai Thọ Truyền, chủ chuà Xá Lợi, đường Bà Huyện Thanh Quan, là Bác.
Năm
1963, tôi sinh hoạt GĐPT Chánh Đạo tại chuà Xá Lợi nên hàng tuần tôi đều gặp cụ
Chánh Trí, rồi xảy ra vụ tranh đấu do các ông Sư cộng sản phát động và tuyên
truyền, là chính phủ của TT Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo. Cụ Chánh Trí cũng
như Thầy tôi, Thượng Tọa Thích Tâm Châu đều bị ông sư cộng sản Thích Trí Quang
lừa bịp, cụ Chánh Trí đã để chùa Xá Lợi cho Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo làm trụ
sở tranh đấu.
Tôi
đã hơn một lần viết ra điều này “Chỉ những người trí thức mới biết mình
bị LỪA, và họ bắt đầu sống trong ân hận hối tiếc cho đến cuối đời”.
Germany, ngày
22.10.2024.
Chủ Nhiệm TCDV .
LÝ TRUNG TÍN
Yêu quý hai chữ “Việt Nam”: NHƯNG
… “VIỆT NAM” NGHĨA LÀ GÌ? (*)
1/
Không ít người bây giờ vẫn tưởng “Việt Nam” nghĩa là nước Nam
của người Việt. Hoặc là, qua một số em sinh viên trẻ cho tôi biết ở trường giải
thích: “Việt Nam” nghĩa là nước Việt nằm về phương Nam (so với
Trung Quốc). Mắc giống gì mà danh xưng một quốc gia lại đi lấy một quốc gia
khác làm “hệ qui chiếu”? Coi, quốc gia của người Hàn nằm về phía
đông nước Tàu, họ đâu giải thích nước họ là … “Hàn Đông”.
Để
rồi, hệt như có một làn gió mát mẻ, hết sức khỏe khoắn sau khi tôi may mắn tìm
hiểu được ý nghĩa đích xác của quốc hiệu “VIỆT NAM” vào buổi
chào đời. “Việt” trong quốc hiệu “Việt Nam” 越
南,
té ra không phải làm một với “Việt” trong quốc hiệu “Đại
Việt” 大 越 gì ráo (mặc dù nhìn vô mặt chữ hệt nhau)!
Mà “Việt” đàng nào cũng có cái hay, nhưng lại không giống
nhau.
2/
VIỆT NAM trở thành quốc hiệu chính thức, lần đầu tiên, là vào đời vua Gia Long,
năm 1804. Trước đó, theo dòng lịch sử qua các đời Lý, Trần, Lê… cho dù mang quốc
hiệu “Đại Việt” nhưng nước Tàu mặc kệ, họ cứ gọi xứ sở (lấy
Thăng Long làm kinh đô) là “An Nam”. Chỉ tới đời Gia Long sau khi đặt
quốc hiệu “Việt Nam” (với Huế làm kinh đô), bên Tàu mới từ bỏ
cách gọi truyền kiếp “An Nam” mà gọi nhứt quán luôn là “Việt
Nam”! Đời nay chúng ta mỗi khi hãnh diện về hai chữ “Việt Nam” thì
nên nhớ tới cái danh xưng đó do vua Gia Long đặt ra, đừng quên luôn cái nguồn
quốc hiệu đó từ đâu.
3/
Ban đầu, năm 1802, vua Gia Long đặt tên nước là “Nam Việt”, sai sứ
sang Tàu nói họ bỏ cách gọi “An Nam” đi, từ rày trở đi nên gọi
là: 南 越 Nam Việt. Nhưng nhà Thanh e ngại hai chữ 南
越
(Nam Việt) lặp lại y chang quốc hiệu “Nam Việt” mà Triệu Vũ Đế
(Triệu Đà, năm 204 TCN – năm 137 TCN) đặt ra, bấy giờ lãnh thổ không chỉ có
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đồng bằng sông Hồng cho tới Hà Tĩnh) mà bao trùm
luôn Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây).
(Mở
ngoặc nói thêm: Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: “Tự Triệu
Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất
phương” “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. TRIỆU ở đây tức Triệu Đà,
rồi Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông thảy đều xưng “đế”.
Thời Quang Trung hoàng đế cũng đã có ý định đòi lại Lưỡng Quảng, do các triều đại
nước ta như nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn… trong rất nhiều thế kỷ đều coi Triệu
Đà nằm trong dòng chính sử nước Việt đã từng sở hữu Lưỡng Quảng).
4/
Để tránh sự e ngại từ nhà Thanh, vua Gia Long đã đổi “Nam Việt” thành
VIỆT NAM (越 南). Dầu “Nam Việt” hoặc “Việt
Nam” cũng đều chung ý nghĩa. Trịnh Hoài Đức (1765-1825), sử gia nổi tiếng
sống dưới thời vua Gia Long, có mặt trong đoàn sứ qua Tàu đàm phán với nhà
Thanh, cho biết: “Việt Nam là quốc hiệu thích hợp để chỉ một lãnh thổ
thống nhứt giữa Đàng Trong với Đàng Ngoài”, và diễn giải ý nghĩa của quốc
hiệu này là: “chúng ta sở hữu đất của Việt Thường trước, và vùng An Nam
được thêm vào sau đó”. Hai chữ VIỆT NAM là sự kết hợp giữa VIỆT (THƯỜNG) với
(AN) NAM.
5/
Việt Thường là xứ mô? Theo những sách cổ xưa như “Hậu Hán thư”, “Thượng
thư đại truyện”, “Tư trị thông giám cương mục” thì nước Việt
Thường 越 裳 nằm về phía nam Giao Chỉ. Trong cuốn “Đại
Nam chính biên liệt truyện sơ tập” xác định tên gọi VIỆT THƯỜNG “là
tên cổ của xứ Champa”! Một nguồn khác cho biết cách gọi “Việt Thường” là
để chỉ lãnh thổ về phía nam của Giao Chỉ, bao gồm cả Phù Nam (sau này trở thành
vùng Thủy Chân Lạp).
Trịnh
Hoài Đức viết: “chúng ta sở hữu đất của Việt Thường 越 裳 trước”, để ghi nhận các bậc tiền nhân của vua Gia
Long (là các Chúa Nguyễn) đã hùng cứ tại Đàng Trong (Champa, Thủy Chân Lạp),
sau đó Nguyễn Phước Ánh (vua Gia Long) đã “thêm vào vùng An Nam 安 南 ” là xứ lấy Thăng Long làm kinh đô (tức
Đàng Ngoài).
*
THAY LỜI KẾT “Việt” (trong “Đại Việt” 大
越
) dùng để chỉ Việt tộc. Còn “Việt” (trong “Việt Nam” 越
南
) tuy cùng mặt chữ nhưng được lấy từ trong danh từ kép “Việt Thường” 越
裳
(định danh về địa lý).
Ghép
chữ “Việt” (trong “Việt Thường”) với “Nam” (trong “An
Nam”) thành quốc hiệu VIỆT NAM, là sự ghi nhận đàng hoàng về nguồn gốc của
từng vùng lãnh thổ!
Qua
đó, vua Gia Long cho thấy niềm hãnh diện trước việc thống nhứt Đàng Trong với
Đàng Ngoài. Lãnh thổ nước ta LẦN ĐẦU TIÊN trải rộng từ bắc chí nam, theo đường
cái quan đi từ Quảng Ninh cho tới mũi Cà Mau thành đường cong chữ S.
Tắt
một lời, VIỆT NAM là quốc hiệu mang ý nghĩa về SỰ HỢP NHỨT LÃNH THỔ (bao gồm
nhiều cộng đồng dân tộc; chứ không nói riêng cho tộc Việt).
Ý
nghĩa nêu trên của hai chữ VIỆT NAM, thiệt hay hết sức, độc đáo hết sức trong
tinh thần hợp quần các cộng đồng dân tộc ./.
——————————————————————————
(*) – Một số nguồn tài liệu cho rằng hai chữ “Việt
Nam” đã từng xuất hiện trong thư tịch xưa kia… XIN CHÚ Ý: “VIỆT
NAM” trở thành QUỐC HIỆU (tên nước) thì chỉ bắt đầu vào đời vua Gia Long
mà thôi. Mặt khác, ý nghĩa của QUỐC HIỆU “VIỆT NAM” phải dựa trên cách giải
thích từ Nhà Nguyễn (là triều đại đã đặt ra quốc hiệu này), như trong bài đã dẫn
ra, mang ý nghĩa về SỰ HỢP NHỨT LÃNH THỔ.
–
Bản đồ nước Việt Nam sau khi thống nhứt sơn hà vào năm 1802, để ý có “Thuận
Thành trấn”, theo sắc lịnh của vua Gia Long, là khu vực tự trị dành cho cộng đồng
người Cham; có “Nam Bàn” (cao nguyên miền trung, bây giờ gọi
là “Tây nguyên”) gồm một vài tiểu quốc, nổi bật nhứt là tiểu quốc J’rai, họ
chịu sự bảo trợ của nhà Nguyễn, nơi đây ngược dòng lịch sử xa xưa cũng thuộc
Champa.
Mai
Thanh Truyết
Nguồn: Tạp Chí Dân Văn
304Đen
– Llttm - BCT
No comments:
Post a Comment