Sunday, July 27, 2025

Thơ Xướng Họa - Nhóm Bạn thơ

 THƠ XƯỚNG HỌA - NHÓM BẠN THƠ

Xướng:
















Trường đời

Trường đời tốt nghiệp đã xong
Ba phần thế kỷ nỗi lòng cưu mang
Cháu con thế hệ rõ ràng
Lưu vong hiệp chủng bình an xứ người
Trời sinh cây cỏ tốt tươi
Trông về quê mẹ rả rời ruột gan
Thương ai lệ đổ hai hàng
Danh đề bảng hổ trái ngang sự đời
Về chiều sớm tối đơn côi
Đoạn trường thui thủi chơi vơi một mình
Đời người một kiếp phù sinh
Sớm còn tối mất nghĩa tình đầy vơi
Hương Lệ Oanh VA
Jun. 06, 2025

Họa 1:


Nỗi lòng

Dốc đời ngã rẽ vừa xong
Ta về vườn cũ cõi lòng mang mang
Từ ly cách biệt khó ràng
Hành trình lưu lạc tâm an đất người
Dựng xây cuộc sống hồng tươi
Nhớ về quê cũ rụng rời tim gan
Thương cha từ lúc tan hàng
Nhớ mẹ từ lúc ngổn ngang sự đời
Cuối đường mẹ sống đơn côi
Nỗi đau trần thế khó vơi phận mình
Phù du một kiếp nhân sinh
Chốn xưa còn đó ân tình nào vơi?!!

Nguyễn Cang
Jul. 14, 2025

Họa 2:


Kiếp người

Mộ nàng giờ đã xây xong
Bao nhiêu nỗi nhớ đáy lòng anh mang
Tình anh muôn kiếp rõ ràng
Mong em giấc ngủ chiêu an kiếp người
Cuộc đời nào có vui tươi
Tranh đua thù hận tách rời tâm gan
Nhớ em lệ đổ đôi hàng
Bao nhiêu kỷ niệm ngổn ngang trong đời
Giờ đây anh đứa mồ côi
Một thân một bóng vơi vơi một mình
Ngày ngày lầm lũi mưu sinh
Đêm đêm hồn thả nhạc tình chơi vơi
THT

chiêu an 招安: vỗ về

Họa 3:


Riêng tôi

Ở đời học dễ nào xong
Nên xin khép lại để lòng thôi mang
Vơi đi đôi chút buộc ràng
Tìm vui tại thế yên an cõi người
Tâm bình trí rạng hồn tươi
Tranh đua sai dúng sao rời tấc gan
Ai thua ai thắng ai hàng
Tương lai quá khứ ngổn ngang suốt đời
Thôi thì giữ niệm mân côi
Giúp người an lạc cùng vơi nỗi mình
Thiện hành góp với nhân sinh
Yêu ai một dạ chung tình khôn vơi.
TQ
Jul 14, 2024

Họa 4:

Chiều buồn


Cơn mưa tầm tả vừa xong
Gió hiu hiu lạnh cho lòng mênh mang.
Chuyền cành chim hót rộn ràng,
Như lời tâm sự giúp an lòng người.
Khuất dần vệt nắng hồng tươi
Lạnh lùng sương phủ rụng rời buồng gan.
Đèn đường loang loáng giăng hàng
Làm sao soi tỏ dọc ngang nẻo đời.
Lưng trời nhạt ánh trăng côi,
Cung đàn khoan nhặt mong vơi lòng mình.
Buồn vui đầy kiếp nhân sinh,
Vần thơ cung nhạc ươm tình chơi vơi.

Minh Tâm

 


 

Friday, July 25, 2025

Mênh Mông - Nguyễn Cang

 MÊNH MÔNG




 
















Dòng đời thế kỷ điêu linh

Trăm năm một cõi cho mình biệt ly

Trần ai mấy nẻo đi về

Đầu nguồn thác đổ chân đê cạn dòng

Mịt mù khói tỏa trời đông

Hải âu vỗ cánh bay trong chiều tà

Thả hồn theo hạt mưa sa

Đêm khuya nằm mộng thiết tha tình nồng

Bỗng nghe tiếng vạc bên sông

Giật mình tỉnh giấc tuyết đong mái nhà

Còn đây xao xác tiếng gà

Hoàng hôn buông xuống Trường Sa gục đầu

Mộng về đâu thực về đâu

Chiều nghiêng nắng đổ giọt sầu nào vơi?!!

Nguyễn Cang (Jul. 13, 2025)

 

Đặng Thế Phong - Nguyễn Đình Toàn

ĐẶNG THẾ PHONG




 

Đặng Thế Phong là một trong những nhạc sĩ tiền phong của chúng ta. Ông mất rất sớm, mới ngoài hai mươi tuổi. Ông chỉ để lại có ba bản nhạc.

Cũng có người cho rằng ông có tới bốn hay năm bài. Nhưng thực tế, không ai biết cái bài thứ tư, thứ năm đó. Vậy chỉ nên coi những bài mọi người đều đã biết: Giọt Mưa ThuCon Thuyền Không Bến và Đêm Thu, chính thức là những tác phẩm của ông.

Những người đồng thời với Đặng Thế Phong kể lại rằng ông thời với Đặng Thế Phong kể lại rằng ông muốn trở thành họa sĩ chứ không phải nhạc sĩ.

Cũng như Nhất Linh, Đặng Thế Phong đã thi vào trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội, nhưng rồi bỏ dở ý định theo đuổi hội họa.

Và cái việc Đặng Thế Phong thi vào trường Mỹ Thuật ấy, đã để lại một huyền thoại. Nghe nói ông đã vẽ một thân cây cụt (không có ngọn), rất đẹp. Vị giáo sư người Pháp chấm bài, khen ngợi, nhưng nói rằng: “E Đặng Thế Phong không sống lâu được.”

Nhớ, xa hơn nữa, các cụ ta cũng truyền lại rằng, một học giả Trung Hoa, sau khi đọc xong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đã nói: “Người này nhiều lắm 5 năm nữa sẽ chết, vì tinh hoa trút hết ra cả đây rồi”.

Cả hai sự tiên liệu đều đúng.

Như thế, cả Tây lẫn Tàu đều trông vật mà biết bệnh? Hay đó chỉ là điều giản dị như Shakespeare đã nói “trái nào chín trước nhất thì rụng trước hết?”

Ba ca khúc của Đặng Thế Phong được viết vào những ngày nền tân nhạc của chúng ta khởi đầu, và đều là những tình khúc.

Và tình khúc Đặng Thế Phong, ngay từ những ngày xa xôi ấy, đã có một tầm vóc khác:

Biết đâu bờ bến

Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu

Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu

Nhớ khi chiều sương

Cùng ai trắc ẩn tấm lòng

Dứt bao tình thương

Thuyền mơ buông trôi theo dòng

Bến mơ dù thiết tha

Thuyền ơi đừng chờ mong

Trong ngần ấy lời ca chữ nào nói đến tình yêu, chữ nào không? Hình như không phải chỉ là con thuyền buông trôi theo dòng mà có cả kiếp người trôi trong dòng đời, cái có thật và cái tưởng tượng đều lẩn khuất sau một màn sương, chúng ta nhìn nhau với lòng trắc ẩn, hạnh phúc khó khăn hay chỉ sống không thôi đã là một điều khó khăn, “bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong”, chúng ta chẳng thể nào tới được nơi mong ước cũng không biết đã ra đi từ đâu:

Thu xưa xa xăm ngoài chân mây

Thu nay bơ vơ thuyền trôi đây

Phải chăng thuyền nhớ nơi non bồng

Nơi đã bao phen chùng tơ lòng…

Con sông nào chẳng có hai bờ, nhưng bờ có phải là bến không?

Nghe nhạc Đặng Thế Phong là nghe lấy những tiếng ở giữa chừng đời sống ấy, tiếng va chạm của cái chốn xa xăm ngoài chân mây với cái cõi bơ vơ thuyền trôi đây.

Người ta không hiểu sao ở ngưỡng cửa của tuổi hai mươi Đặng Thế Phong đã nghe ra cái tiếng nhân thế bao la sầu như ông viết trong Giọt Mưa Thu:

Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây

Phòng vắng bốn bề không liếp che gió về

Ai nức nở thương đời châu buông mau

Dương thế bao la sầu…

Nghe nói khi mới viết xong ca khúc này Đặng Thế Phong đã đặt tên là Vạn Cổ Sầu rồi sau đó mới đổi thành Giọt Mưa Thu.

Cả ba ca khúc Đặng Thế Phong để lại cho đời đều là những bản thu ca.

Điều này nữa có phải cũng là một báo hiệu cái mùa đông sửa đang đón đợi ông?

Lấy những cái đã xẩy ra rồi để giải thích sự việc, người ta thường tìm cách ráp sao cho ăn khớp, điều ấy dễ thôi. Nhưng quả thật nghe lại nhạc Đặng Thế Phong, chúng ta sẽ thấy, chỉ cái mùa vạn vật dường như đắm một nữa trong mộng ấy, mới thích hợp với tâm hồn ông.

Tất cả các lời ca của Đặng Thế Phong đều long lanh sáng. Nhưng chúng không sáng cái ánh sáng của mặt trời, mà sáng cái sáng của lân tinh, của ánh trăng. Cái buồn trong nhạc của Đặng Thế Phong còn có thêm một cái buồn lây của đóa hoa đứng im như mắc buồn, nỗi buồn đọng lại hay mùa đông buồn trong ánh sao, cả ba cách dùng đều có nghĩa.

Cũng nên nói thêm là gần đây, những bài hát gọi chung là tiền chiến, được thu thanh ở cả trong lẫn ngoài nước, có đến chín phần mười sai. Sai cả nhạc lẫn lời. Nói sai là căn cứ vào những gì đã được in ra, phổ biến trước đây.

Trường hợp chính tác giả viết lại thì đành chịu, không thể nói là sai được.

Trở lại với Đặng Thế Phong.

Ông đã bỏ không đặt tên ca khúc của mình là Vạn Cổ Sầu.

Nhưng ông đã để lại nỗi sầu ấy cho chúng ta và có lẽ cho cả những người sau này nữa.

Cái chết của Đặng Thế Phong, cái chết của Nguyễn Nhược Pháp, của Thạch Lam, cho đến bây giờ, nhớ lại, nghe nhắc lại, chúng ta vẫn chưa hết ngẩn ngơ, vì không muốn tin, không tin được đó là sự thật, những bậc tài hoa như thế, tiếc thay tài sao đành lỡ làng (Dương Thiệu Tước).

Chúng ta tiếc vì nghĩ rằng, nếu những người ấy không chết yểu như vậy, chắc chúng ta còn được thưởng thức thêm nhiều tác phẩm. Có đúng như vậy không?

Giả thử ước muốn của chúng ta có thể trở thành sự thật thì những cuộc sống thêm ấy sẽ là bao lâu?

Chính xác là bao lâu sẽ vừa với ước muốn của chúng ta?

Và, liệu chính những người ấy, có ưng vậy chăng?

 

Nguyễn Đình Toàn

Quận Cam, California.

(Trích Khởi Hành)

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn sinh năm 1936 tại Hà Nội, tị nạn Cộng Sản lần thứ nhất năm 1954; trước 1975 làm việc tại Đài Phát Thanh Sài Gòn, nổi tiếng với chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài này, trong khi cộng tác với các tạp chí văn học bằng các truyện ngắn, và thơ. Năm 1998 ông tị nạn Cộng Sản lần thứ hai, qua Hoa Kỳ và trở lại hoạt động mạnh trong lãnh vực âm nhạc, cho thực hiện hai cuốn CD ngay khi phát hành đã được đón nhận nồng nhiệt: Hiên Cúc Vàng với chỉ một giọng ca Khánh Ly, và Tình Ca Việt Nam với Duy Trác, Khánh Ly, Sĩ Phú, Thái Thanh, Võ Anh Tuấn, Lệ Thu. Tác phẩm văn chương của ông có thể kể: Chị Em Hải, 1961, tác phẩm đầu tay, nhật báo Tự Do xuất bản, Những Kẻ Đứng Bên Lề, 1964, Con Đường, 1967, Ngày Tháng, 1968, Đêm Hè, 1970, Giờ Ra Chơi, 1970. Không Một Ai, 1971, Thành Phố, 1971, Tro Than, 1972. Năm 1973 Nguyễn Đình Toàn được trao giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc (VNCH) bộ môn truyện, với tác phẩm Áo Mơ Phai. Ông và gia đình hiện cư ngụ tại thành phố Westminster, California.

 

  

Bâu Đi Xứ Khác - Vũ Thế Thành & Bởi Vì Em Nấu Hủ Tíu Chờ Anh - Minh Lê

 

BẬU ĐI XỨ KHÁC…

Hôm qua ra phố, lần đầu tiên nhìn thấy bảng hiệu có dòng chữ “Phường Sài Gòn” ở một cơ quan công quyền. Cảm giác của tôi là hờ hững, dửng dưng, không buồn, không vui. Tôi có một Sài Gòn riêng, với cả thế giới tuổi thơ, thời đi học, thời biến động, biết bao thế thái nhân tình,… Sài Gòn đó không có chữ “phường”. Vô cảm như đọc tin tham nhũng mà báo chí giựt tít câu view. Với tôi, chỉ có người lộ và chưa bị lộ. Cảm xúc làm gì!

Vũ Thế Thành

 


Nhưng khi Phú Yên, Bình Định mất thân phận, tôi tiếc. Buột miệng:  “Chết mẹ, Nẫu của tôi rồi!”.

Tôi không phải dân Nẫu, nhưng thích giọng Nẫu, nhất là nghe mấy bà Nẫu càm ràm chồng, cái giọng đều đều, trơn tru, nửa cải lương, nửa tuồng cổ. Nghe thấy đã lỗ tai, dù chẳng hiểu con… mẹ gì hết.

Giọng Nẫu Phú Yên dễ nghe, ra tới Bình Định thì khác. Nẫu Quy Nhơn cũng tương đối dễ nghe vì dân nơi đây xa cạ khắp chốn. càng đi ngược lên phía Bắc, ráp giới Quảng Ngãi, giọng Nẫu rất khó nghe, có khi tôi phải nhờ tới…thông dịch.

Nẫu là tiếng dân dã để chỉ người dân ở hai tỉnh Phú Yên và Bình Định. Bây giờ cả hai phải đổi sang họ mẹ, sống thời mẫu hệ cho có nhơn quyền phái tính hơn, cho bọn DEI ở Mỹ biết sợ.

Nẫu, kẻ đổi họ Daklak, người đổi họ Gia Lai. Đổi gì tôi cũng mặc kệ, nhưng tôi nhất định không gọi là giọng Nẫu Daklak hay giọng Nẫu Gia Lai. Với tôi, chỉ có giọng Nẫu Phú Yên và giọng Nẫu Bình Định.  

Đi đâu cũng giữ cho được giọng Nẫu. Bài hát nào tôi không nhớ, có câu : “…Bậu đi xứ khác Qua rầu lắm nghen!”

Vũ Thế Thành

304Đen – Llttm - sgtc

 

BỞI VÌ EM NẤU HỦ TÍU CHỜ ANH…

Sẽ có bạn cắc cớ bắt bẻ trước: Viết có sai chính tả hôn vậy, hủ tíu hay hủ tiếu? Bảng hiệu các quán thường viết rành rành “hủ tiếu”, nhưng bạn dám chắc dân Sài Gòn chánh hiệu đọc khác nhau hai chữ “tíu” và “tiếu” không?

Minh Lê



Có nhiều món ở Sài Gòn mang tên địa phương khác nhưng mùi và vị thì khác xa lắc xa lơ với bản gốc bởi đã “Sài Gòn hóa”. Chẳng hạn hủ tíu ở Sài Gòn có nhiều phiên bản, như hủ tíu Nam Vang, Sa Đéc, Mỹ Tho, nhưng vẫn có nhiều nét chung không nơi nào khác có được. Vì vậy tôi muốn gọi chung các phiên bản này bằng một tên thôi: hủ tíu Sài Gòn.

Sẽ có bạn cắc cớ bắt bẻ trước: Viết có sai chính tả hôn vậy, hủ tíu hay hủ tiếu? Bảng hiệu các quán thường viết rành rành “hủ tiếu” nhưng bạn dám chắc dân Sài Gòn chánh hiệu đọc khác nhau hai chữ “tíu” và “tiếu” không? Tôi đã nhờ vài người bạn dân Sài Gòn chánh hiệu con nai vàng đọc giùm hai chữ này, họ đọc y chang nhau, âm nghe giống “tíu” hơn là “tiếu”. Do đó tôi giữ chữ “tíu”, mà chữ “tíu” nghe dễ thương nha, giống như chữ “tí xíu” trong câu nói cửa miệng Sài Gòn: “Đi đây tí xíu hà!” 

 

Rồi tình cờ tôi tra được bài trả lời của học giả An Chi trên trang honvietquochoc.com: “Hình thức ngữ âm ban đầu của hủ tíu là củ tíu và củ tíu là hình thức phiên âm từ hai tiếng mà người Triều Châu dùng để chỉ món ăn này… Dùng chữ tíu để ghi hình thức phiên âm sang tiếng Việt như Lê Ngọc Trụ đã làm thì chúng tôi hoàn toàn tán thành vì người Nam Bộ luôn luôn phát âm -iêu thành –iu…” (An Chi 14/9/2010).

Đúng là “chó ngáp phải ruồi”, tôi yên tâm có người “đứng đàng sau” cho chữ “tíu”, lại còn biết nguồn gốc tên gọi “hủ tíu” nữa. 

 Tiếc thay Sài Gòn không có một Vũ Bằng và “Thương nhớ Mười hai’; các cụ Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cả Minh Hương không viết nhiều về các món ăn Sài Gòn kể cả hủ tíu, nên tôi tra sách vở hoài mà không tìm được hủ tíu có mặt ở Sài Gòn từ khi nào. Có lẽ hủ tíu đã theo người Triều Châu và Quảng Đông di cư đến Sài Gòn vào thế kỷ thứ 19 và dần dần thay đổi theo khẩu vị Việt. Có điều chắc chắn là hủ tíu hiện diện ở Sài Gòn trước phở xa lơ xa lắc; phở chỉ vô Sài Gòn từ năm 1954 khi người Bắc di cư vào Nam. Đây là một đoạn viết về hủ tíu có nhắc tới phở tôi sưu tầm được trên mạng:

  “Tôi là dân Nam Kỳ, sinh đẻ ở Sài Gòn… Từ nhỏ đến năm 1954 tôi chẳng nghe ai nói đến món phở trong gia đình mà chỉ nói đến hủ tíu và ít khi ăn món hủ tíu nấu trong nhà mà chỉ đợi đến tối khi nghe tiếng gõ “Cắc! Cắc! Cắc!” của chú Chệt (xin lỗi các bạn gốc Hoa) đẩy xe bán dạo hủ tíu mì thì ra mua hoặc anh em tôi đem gà-mên (gamelles) đến xe mì hủ tíu ở góc phố, ngồi ăn mỗi người một tô tại chỗ và mang hủ tíu về cho ba má trong gà-mên. Tôi thích ăn hủ tíu, ngày Chủ nhật nào tôi cũng đạp xe ra đường Lê Lợi ăn hủ tíu tôm cua của tiệm Phạm Thị Trước, ăn kèm với một bánh pâté chaud. Quê bà nội tôi ở Mỹ Tho nên món hủ tíu Mỹ Tho, khô hay ướt, tôi đều ưa cả và ngay món hủ tíu Nam Vang có tim, gan, lòng heo tôi cũng thích, ăn kèm với bánh dầu cháo quảy. Nhưng là loại hủ tíu nào ta đều bỏ giá sống vào tô khi nước lèo còn sôi nóng.” (Trần Hữu Chí – Hủ tíu và Phở, 2010, Trang Cựu Sinh viên Khoa học Sài Gòn: khoahocsaigon.com)

Xém nữa thì tôi “Eureka” giống Archimedes hồi ông tìm ra định luật về tỷ trọng khi đang tắm, bây giờ tôi biết “giá trong phở đến từ đâu” rồi. Ảnh hưởng từ hủ tíu chớ đâu! Chớ tô phở Bắc hồi mới vô Nam không có giá nghen, nghe dân Sài Gòn Trần Hữu Chí trong bài đã dẫn ở trên tả nè:

                  “Tôi gọi phở tái cho toàn đội và tất nhiên những câu “thịt bò còn sống” hay “cho xin giá sống” lại vang lên và tất nhiên tôi lên mặt dạy đời:

                  – Đây là phở Bắc chớ có phải hủ tíu đâu mà đòi giá sống.”  

                  (Tại cô hàng phở xinh quá nên ảnh làm oai chút đó mà.) 

  Thêm một người Sài Gòn khác tả hủ tíu ngày xưa thời 1960-1970:

  “Người bồi bàn bưng mâm ra để tô hủ tíu trên bàn, mùi nước lèo xông lên mũi, nếm thử “nghe” được mùi thơm của nước lèo, thêm chút gia vị vào và cầm đũa ngay. Hủ tíu Thanh Xuân thì phải có rau tần ô, rau cần tàu, giá sống. Hủ tíu Phạm Thị Trước hay Thanh Thế cũng thế, nhưng không có rau tần ô. Riêng hủ tíu Gà Cá thì chỉ có giá sống.” (Nguyễn Ngọc Chính – Nhớ lại món ngon Sài gòn ngày trước, 8/10/2016, trang Cà phê Văn nghệ: caphevannghe.wordpress.com)

 Nguyễn Ngọc Chính cũng kể:

 “Kể từ khi người Bắc di cư vào Nam, tiệm phở đánh bạt các tiệm hủ tíu, vốn là món “đặc sản” của miền Nam. Các tiệm hủ tíu nổi tiếng Sài Gòn phải kể đến hủ tíu Thanh Xuân đường Tôn Thất Thiệp (gần chùa Chà Và), hủ tíu Phạm Thị Trước ở đường Lê Lợi (khúc gần Pasteur), hủ tíu Gà Cá ở đường Hàm Nghi gần khu Ngân hàng Quốc gia và hủ tíu Thanh Thế trên đường Nguyễn Trung Trực.” 

 Hủ tíu Thanh Xuân nấu theo phong cách Mỹ Tho, từng một thời vang bóng: “thời hoàng kim, quán có tới 40 bàn kê khắp con đường nhỏ Tôn Thất Thiệp” (P.V. – 70 năm hủ tiếu Chùa Chà Thanh Xuân, 10/8/2014, báo điện tử Thanh Niên). Nay quán nhỏ vẫn ẩn mình ở cổng ra vào mấy căn nhà phía trong khu Chùa Chà, và đang được thế hệ thứ tư tiếp nối. Món hủ tíu theo đánh giá của dân mạng là vẫn ngon, và thái độ phục vụ vẫn niềm nở như xưa. Hủ tíu Phạm thị Trước và hủ tíu Thanh Thế thì đã hết bán từ lâu, riêng hủ tíu Gà Cá Hàm Nghi nghe nói giờ là hủ tíu Nam Lợi đường Tôn Thất Đạm, bị dân mạng chửi tan tành vì giá mắc và thái độ phục vụ cực kỳ chảnh. Ai tò mò có thể coi ở đây: https://www.foody.vn/ho-chi-minh/nam-loi-quanTôi thật sự tiếc ngẩn tò te, một quán lâu đời lại có tiếng như vậy, không hiểu người chủ nghĩ sao mà tự “phá nát đời hoa” kiểu này, còn ai dám ghé? Bán kiểu này thiệt không dám xếp vô hàng “hủ tíu Sài Gòn danh tiếng”!

 Từ những năm 90 đến nay, quán nổi tiếng nhứt tôi biết là hủ tíu Hồng Phát và Liến Húa, cả hai đều ở ngay đường Võ Văn Tần, cách nhau không xa. Sau này gần đó có hủ tíu Nhân Quán ở Nguyễn Thượng Hiền, món khô món nước đều ăn rất được. Dường như tôi có duyên với hủ tíu, bởi mấy quán này đều ở gần nhà, nhưng thú thật chỉ có Nhân Quán sau này rủng rỉnh mới đi ăn thường xuyên, còn Hồng Phát và Liến Húa ít khi vô, có lẽ vì hồi xưa hai quán này nổi tiếng ngon đồng thời… cắt cổ, thời lương ba cọc ba đồng đâu dám ghé. Sau này có lần vô ăn thử thì chắc do “hổng có duyên” sao mà không thấy ngon bằng hủ tíu lề đường Lê Văn Sỹ, Phú Nhuận thuở hàn vi. 

 Giờ còn có Ty Lum quảng cáo chánh hiệu hủ tíu Nam Vang. Nghe nói ông chủ từng là đầu bếp trong hoàng cung Campuchia chuyên nấu hủ tíu cho vua ăn, từ năm 1998 về Sài Gòn mở tiệm (theo http://www.tylum.vn). Quán chính bây giờ ở Huỳnh Mẫn Đạt, các quán kia là nhượng quyền. Theo dân mạng thì quán chính nấu hủ tíu nước ngon, ông chủ rất vui vẻ và thân thiện, phục vụ dễ thương. Có cái đặc biệt là quán trang trí một màu tím Huế từ trong ra ngoài, không rõ ông chủ mang từ hoàng cung Campuchia về hay có mối tình đầu không quên là một cô gái Huế? Ông chủ bật mí hủ tíu Nam Vang bắt đầu từ hủ tíu Tiều do một gia đình người Hoa bán từ 1920 ở Bếtchan, sau đó dời về Nam Vang (Phnompenh) (theo P.V. –Hành trình thú vị của một phiên bản hủ tiếu Nam Vang, 02/04/2013, báo điện tử Thanh Niên). Về Sài Gòn ông lại cải tiến lần nữa nên phiên bản bây giờ chắc khác xa lắc với phiên bản hủ tíu đầu tiên ở Campuchia. 

 Còn tại sao có hủ tíu mang tên Sa Đéc ở Sài Gòn là do hủ tíu Cả Cần ở ngã tư Công Lý (Nguyễn Văn Trỗi bây giờ) – Trương Quốc Dung trước 1975. Ông chủ tên Trần Phấn Thắng, ăn nói khéo léo và giao thiệp rộng, bà người gốc Bến Tre nấu ăn rất ngon. Ông có người bạn tên Cần mất sớm, ông liền ghép thêm chữ Cả cho cùng vần, bởi ông nổi tiếng thích chơi chữ cùng vần. Câu quảng cáo nổi tiếng của quán ông là “Có Cả Cần Cần Chi Có Cả”. Quán Cả Cần bán hủ tíu Mỹ Tho và bánh bao ngon, được nhiều người thích. Năm 1969, ông Thắng mở quán thứ hai liền mời bà Năm Sa Đéc, nghệ sỹ cải lương nức danh thời bấy giờ, đứng tên để quảng cáo cho tiệm. Từ đó mới có tên hủ tíu Sa Đéc. Sau 1975, ông định cư ở Canada, rồi về lại Sài Gòn những năm 90 để dựng lại thương hiệu Cả Cần. Nghe nói hiện gia đình ông phụ trách quán buổi chiều, buổi sáng chủ hiện tại vẫn bán. (theo P.V. – Hủ tiếu Cả Cần – một phần di sản Sài Gòn, 12/12/2012, báo điện tử Thanh Niên)

Dù lúc đầu nhiều phiên bản nhưng hủ tíu Sài Gòn giờ giống nhau khá nhiều. Hủ tíu nước có nước lèo trong vắt, thơm mùi tỏi phi và loáng thoáng chút vàng cam của củ cải muối (xá bấu) băm nhỏ, ngọt vị xương hầm lẫn vị đậm đà của tôm và mực khô. Sợi hủ tíu nhỏ bản hơn sợi phở và hơi dai, màu trắng ngà chớ không trắng bóc như sợi phở. “Nhân” hủ tíu có thịt heo nạc xắt lát mỏng, tôm đỏ thắm lột vỏ,  trứng cút trắng trắng tròn tròn, thêm vài miếng gan, cật, tim nâu hồng xắt dày vừa phải, có nơi còn thêm mực và cá lóc thái lát. Chỗ đặc biệt của hủ tíu là lớp thịt bằm óng ánh ẩn hiện dưới mấy lá hẹ dài dài và hành lá xanh tươi xắt nhỏ. Tất nhiên không thể thiếu dĩa giá trụng, tần ô, cần tây và xà lách. Khách ăn thường thêm ít ớt tươi xắt lát và nặn chanh. Hủ tíu khô thì chén nước để riêng, và trên hủ tíu chan lớp xốt chua chua ngọt ngọt ăn dễ ghiền. Ở Sài Gòn còn có hủ tíu Tiều, gồm hủ tíu hồ và hủ tíu sa tế, nhưng hai món này khác xa phiên bản phổ biến này, nên tôi mạn phép tách riêng không gộp vào cái tên “hủ tíu Sài Gòn”.

So ra nước Việt mình có bốn món “bún” nước nổi tiếng nhứt: phở, bún bò, mì quảng và hủ tíu. Phở gốc Bắc nên mang dáng thanh lịch đất Tràng An, chỉ bò hay gà chớ không lẫn nhiều thứ thịt được, nước cũng trong và thơm mùi thanh cao của hoa hồi và gừng. Bún bò Huế thì sâu sắc và nồng nàn như cô gái Huế, có mùi sả thơm lừng cùng sự kết hợp hài hòa của bò nạm và giò heo. Mì Quảng chân chất, tôm thịt đề huề lại thêm đậu phụng và bánh tráng giòn giòn, ăn nghe rôm rốp như người xứ Quảng thích ăn to nói lớn. Hủ tíu ra lò từ đất phương Nam giàu có nên nước lèo có đủ vị xương và hải sản, thơm mùi tỏi phi, tôm, thịt, trứng cút, tim, gan, thậm chí cá, mực đều có đủ. Kể ra hủ tíu vẫn phóng khoáng nhứt, bởi “nhân” nào cũng được, miễn làm cho thấm cho ngon.  Thì “đặc sản” Sài Gòn mà, tính cách này nơi nào giống được! Nếu nhà thơ Nguyên Sa sống lại thời nay, khi áo lụa Hà Đông đã thành dĩ vãng, biết đâu ông sẽ viết lại bài thơ của mình:

                  “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt…đói,

                  Bởi vì em nấu hủ tíu chờ anh.

                  Anh vẫn yêu hủ tíu em nấu vô cùng…

                  Anh vẫn yêu hủ tíu ngày xưa ấy…em ơi…”

Thôi, đừng hát nữa, kẻo tôi lại thèm ăn…hủ tíu!

Minh Lê (Suối Tiên, Khánh Hòa)

304Đen – llttm - sgtc

 

Tuesday, July 22, 2025

Đặng Thế Phong - Tài Hoa Bạc Mệnh (1918 - 1942) - Nhạc Sĩ Lê Hoàng Long

 

ÐẶNG THẾ PHONG – TÀI HOA BẠC MỆNH (1918-1942)




Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau

(Nguyễn Du)

Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc nước ta, nhạc sĩ Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.
Ðặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiếu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông cơ sở). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!
Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.
Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da – Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà Đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!
Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong “kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).
Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài: Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi! Qua Ðặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa). Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi. Với âm nhạc, người chuyên sử dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thể điệu nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ! Nói đến điều này, điển hình trong làng nhạc nước nhà, chúng ta nhìn vào ông nhạc sĩ tiền bối Th.O, ông này là một trong số ít người đi tiên phong trong việc sáng tác tân nhạc. Từ đó cho đến sau này, suốt hơn 40 năm, ông có một tập sáng tác khá đồ sộ, trên dưới 500 bài nhưng cho đến ngày hôm nay không có lấy một bài nhạc nào đi vào lòng người nếu ta không muốn nói là sáng tác của ông đã hoàn toàn bị chìm trong quên lãng! Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.
Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp:
Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có đuyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế Phong, khi biết mối tình của cặp Phong – Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!
Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:
– Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn !
Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu, thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.
Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt ! Ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?…
Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô . Khi hát xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: “Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!”
Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ : “Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự, một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi..” Đến lúc ấy chị Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.
Chính vì thế mà có một ngườl ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình ! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công !
Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm, không hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong :
– Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm? Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm? Anh đi nhà thương khám và thuốc men , cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai !
Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương ông lấy cho Đặng Thế Phong. Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình. Trong các cuộc ao đẹp của văn nghệ sĩ nước nhà, có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc,thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng !
Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội. Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ tối đa mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.
Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi. Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng.
Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì để bám víu!
Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!
Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu. Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong – Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng ? Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về.
Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.
Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu. Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.
Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình cho, mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.
Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di cư vào Nam hiện ở Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tự Do, thấy quảng cáo trước cuốn Nhạc Sĩ Danh Tiếng Hiện Đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa ngay. Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong trở vào gửi trả lại tôi. Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về chuyện tình tươi đẹp như bài thơ, trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết. Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe. Bà cười và nói:
– Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tính bạn bè, nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ !
Sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :
– Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.
Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thể trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này. Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá. Nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !
Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.

Nhạc sĩ Lê Hoàng Long,

Trích từ Vietnet

 

 

 

Nghẹn Lời Chân Đi - Nguyễn Đạm Luân

 Nghẹn Lời Chân Đi




Tầm Với Người Cho Người - Thuyên Huy

 

Tầm Với Người Cho Người

Chuyện hư cấu tự dựng, để tặng đám bạn ngày xưa trong đó có người thương chưa thương người thương đã thương

 

1

     Luân về Gò Chùa ăn tết với gia đình Tấn. Tấn mượn cái xe Honda của ông anh ba, chở đi thăm mộ mẹ Luân mỗi ngày, từ chiều ba mươi tới mùng ba tết. Chiến trận tăng dần, một ngày một nặng nề hơn. Nghĩa trang nơi chôn cất bà bây giờ không mấy an ninh, cho nên hai người không dám ở lại lâu như ngày trước. Mẹ Luân mất cuối mùa hè. Đám tang không có mấy người đưa, lặng lẽ và nghèo nàn như cái nghèo của mẹ Luân trong suốt những năm làm phu cạo mủ.

    Ngôi chùa cuối đồi, mé bờ sông  không còn ai nữa, ngay cả ông sư già cũng đã bỏ đi. Mái ngói sụp phủ xuống gần phân nửa chánh điện. Nhang khói lạnh lùng, chuông treo tội tình nhện giăng bụi bám. Chắc có lẽ lâu lắm rồi Trà Vỏ không còn tiếng chuông Bến Đình của ngày rằm tháng bảy, tiếng chuông mà Luân trông đứng trông ngồi, để được theo mẹ đi chùa ăn cái bánh bò màu đỏ, sau khi cúng Phật trong những ngày còn nhỏ và còn có mẹ.

*



    Phố chợ bắt đầu đông đảo trở lại sau những ngày Tết. Tiệm cơm bác sáu còn đóng cửa nghỉ cuối năm, cho nên Luân rảnh rỗi được đôi ngày. Học trò vào học lại, đem theo dư âm của bánh tét pháo lân thèm thuồng mất mác. Hàng phượng già đứng trơ vơ buồn hiu, trời đã đầu xuân. Hoa giấy đỏ phủ đầy cái cổng trường trơ gan cùng mưa nắng. Mùi pháo đốt vội từ phía dãy nhà bên kia sân trường, vẫn còn lang thang quanh quẩn theo tiếng nhạc mừng xuân, trong quán nhạc vẳng ra, làm người qua đường bước ngập bước ngừng, nửa đi nửa ở. Hân đứng chờ Luân ngay đầu ngõ rẽ về nhà, đưa cho cái thư của Hiên nhờ trao lại. Cầm thư trong tay, Luân cùng đi với Hân dọc theo đường Trần Hưng Đạo là đường về nhà Hân thay vì về gác trọ. Hân kể cho Luân nghe vài chuyện tâm tình mà Hiên đã nói, trong đó có Luân, với những cảm thông nào đó. Luân chào Hân trong vội vã khi đến cuối đường vào phố.



*

    Thư Hiên viết không nhiều nhưng có vẻ gói ghém đủ những gì muốn viết. Hiên xin Luân đừng cho Hiên là người vô tình nếu Luân chịu nhớ lại đôi chuyện vụn vặt ngày xưa, khi hai đứa còn đầu chợ cuối chợ. Hiên hiểu và hiểu thật nhiều cái mặc cảm con nhà nghèo của Luân mỗi khi Luân cố tình tránh đường, không chịu đi ngang hành lang có treo cái trống trường làng, trong giờ chơi buổi sáng.

    Luân không biết là Hiên đã vui mừng tở mở, khi thầy Ngôn gọi tên Luân lên lãnh phần thưởng hạng nhất, ngày lễ phát thưởng cuối năm lớp nhất. Hiên đã cất dấu nụ cười thơ ngây trong đời mình cho mãi đến bây giờ. Trong thư, Hiên hỏi Luân còn nhớ có lần Hiên qua nhà hỏi mượn tập thơ TTKH, trong đó có bài “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” khi Luân về thăm nhà từ trường tỉnh, mặc dù Luân và Hiên không học chung trường. Ngày mẹ Luân mất, Hiên đứng khóc ngỡ ngàng một mình, từ bên này chợ khi cái quan tài được khiêng đi, khuất dần theo con đường mòn cuối xóm.

    Cái khóc một mình đó Hiên cũng còn cất giữ trong đời mình. Cuối thư, Hiên xin lỗi đã ngại ngùng phải nhờ Hân trao lại thư cho Luân, xin Luân xem Hiên là một người đáng thương hơn là đáng ghét. Luân xếp lá thư nằm gọn trong tay, nhìn mông lung xuống đường, hình như đám hoa sứ già, trong sân vườn của cái biệt thự bên kia đường chợt như run rẩy rụng.

*

    Trưa chủ nhật, anh Hoàng, Liêm đem xe Honda đến chở Luân và Tấn vào chợ Long Hoa ăn cơm chay vì hôm nay là ngày rằm. Mùa thi sắp tới nơi rồi, chưa người nào chịu chong đèn đọc sách, cứ tụm năm tụm ba lang thang ngoài phố, nhìn trời nhìn người, dù ai cũng biết rằng quân trường đang rộng cửa chờ đâu đó. Họ  chạy xe vòng vòng đủ hết nhà đám bạn trong chợ, giữa cái nắng chang chang ươm mùi bụi đỏ của đường trong ngõ ngoài. Ghé tạt vào chợ Thương Binh, mua vội mấy trái bắp mới hái trên đường về, bỏ lại sau lưng bụi đỏ Long Hoa vẫn còn vương vương mấy ngõ.




    Qua ngang trường Văn Thanh, thấy quán sinh tố Hằng, nằm cách tiệm sách Diễm một khoảnh vườn cây nhỏ, học trò tấp nập, bọn Luân tấp vào theo lời anh Hoàng. Trời vẫn còn ngập nắng, Bộ chỉ huy Cảnh Sát tỉnh bên kia lặng im và trống vắng. Tấn đi qua tiệm sách, bỏ bọn Luân ngồi lại quán, vài người bạn cùng lớp bước vào, trên tay mân mê quyển “Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Triết Học” thơm mùi giấy mới. Thì ra hôm nay tiệm sách Diễm vừa có, cô Quý đã mua giùm Luân cuốn này, mươi ngày trước đây, khi cô về Sài Gòn thăm nhà trở lên tỉnh lại.

*

    Trong sách có bài viết của Phạm Công Thiện, đáp lời bài “Nói Với Tuổi Hai Mươi” của Nhất Hạnh bằng tâm tình và bực dọc của những người trẻ, qua hình thức lá thư, gởi cho nhân vật tên Hồng. Bài viết rất hay, đám học trò đang chuẩn bị thi Tú Tài, Một hay Hai gì, không ai không đọc, ít nhất cũng một lần vì ai cũng đã ngẩu nhiên thấy mình trong bài viết, những người đang đứng chơi vơi giữa đôi bờ chiến tranh và sách vở.

    Luân lặng người đi, khi thấy Tấn trở lại có Hân và Hiên theo sau. Anh Hoàng đứng dậy kéo ghế rồi đi kêu thêm mấy ly sinh tố. Liêm nhanh nhẩu nhìn Hiên cười nhưng nói về hướng Luân:

- Chị Hiên chiều nay mặc cái áo vàng đẹp quá!

- Liêm quên là có người khác đẹp hơn đó nghe. Hiên hồn nhiên đáp lời Liêm nhìn Hân nheo mắt:

- Dù có ai đó đẹp hơn, nhưng thử hỏi anh Luân xem, chiều nay anh về yêu hoa cúc hay mến lá sân trường?

- Anh Liêm nhà ta bữa nay thơ văn quá nghe! Anh Hoàng buột miệng rồi quay qua Hân:

- Hai cô đi lạc đâu đây?

   Hân đánh nhẹ vào tay Hiên:

- Thì em nghe lời Hiên nè, đi mua cuốn sách mới của Phạm Công Thiện. Hiên nói là có bài viết thấm thía lắm, nhất là nếu mấy anh đọc.

    Hân vừa nói vừa lấy sách trong bao giấy ra để lên bàn. Tấn cầm lấy cuốn sách lật qua lật lại vài trang rồi nhìn Hiên:

- Hiên đọc trang nào chưa?

- Em mới nghe chị Nguyên nói hay lắm nên rủ Hân đi mua. Hiên nhỏ nhẹ đáp.

- Đùa cho vui, chớ tụi này đọc nhiều lần rồi, càng đọc càng thấy thấm thiệt đó. Tấn bỏ lửng lời, nhìn ra ngoài đường. Anh Hoàng nhìn Luân ra chiều hỏi ý. Từng chữ viết trong thư Hiên hình như vẫn còn hằn rõ, trong khoảnh khắc nào đó, Luân muốn nói với Hiên thật nhiều, nhưng có cái gì vướng mắc quẩn quanh làm Luân lặng thinh, một cái lặng thinh cố tình. Luân nhìn Hiên cám ơn cái thư mà Hiên đã viết cho Luân và hứa sẽ trả lời. Hiên cầm lấy tay Hân xiết nhè nhẹ khi Luân dứt lời. Mắt Hiên chợt ửng đỏ, cúi mặt không nhìn Luân nói nhỏ, dường như muốn chỉ nói cho Luân:

- Hiên cám ơn anh Luân!

    Anh Hoàng đứng dậy trả tiền. Đèn đường ngoài kia lên thì đêm cũng vừa xuống thấp. Tiếng quân xa bắt đầu ầm ỉ hơn trên phố. Hỏa châu cũng lại bập bùng nhạt nhòa như những đêm trước đó. Bọn Luân đứng chờ xe đạp của Hân và Hiên đi khuất cuối bờ tường Toà án tỉnh rồi mới chịu bỏ đi.

*

    Bài vở học thi càng lúc càng nhiều, bọn Luân ít gặp nhau hơn trừ những giờ trong trường trong lớp. Đường phố không còn ai đó lang thang sau giờ tan học. Cành lá khẳng khiu rớt nằm trơ trọi bên lề, không còn ai đó bẻ vụn bẻ vặt, ấp úng thẹn thùng khi nghe người ta nói đã mến đã thương. Công viên đầu sông, chia đôi cái thành phố nhỏ nhoi, giờ đây buồn hiu vì vắng người ngồi bên nhau, thả tóc bay dài theo chiều gió muộn khi hoàng hôn xuống. Tiếng ve sầu bắt đầu rộn rã quanh trường. Hàng phượng già nua tỉnh mình sau giấc ngủ dài, rộ trải hoa đỏ bầm màu máu. Học trò lớp nhỏ rạo rực nhặt hoa rơi, ép vào tập sách, nao nức chờ trao nhau viết trang lưu bút. Tiếng ai đó trong bài “Nổi Buồn Hoa Phượng” buồn tênh như đoạn kinh thánh chiều chủ nhật.

    Luân đón Hiên ngay cổng trường, đưa lá thư trả lời như đã hứa. Thư viết thật ngắn để Hiên yên lòng là Luân đã đọc thư Hiên rất nhiều lần, Luân sẽ cố hiểu những gì mà Luân đã một thời không chịu hiểu. Hiên cầm thư trong tay cười trọn vẹn, một cái trọn vẹn Luân chưa thấy lần nào, kể từ ngày gặp Hiên trong quán nước hôm mưa đó. Đến tiệm cơm, nghe bác sáu gái hỏi vọng ra, “hôm nay có chuyện gì xem thằng Luân vui vẻ quá”, Luân mới chợt nhận ra là mình đã hát vu vơ bài tình ca nào đó trên đường về.

*

    Rồi hè cũng đến, đến không đợi không chờ, xác phượng rơi ngập đầy lối rẽ trong sân trường vàng úa cỏ. Người đi xa mang theo trời nhung nhớ, người ở lại nén lòng buồn hắt buồn hiu. Ai đó khẽ trộm nhìn quanh sân trường quạnh quẽ, chợt thấy hồn mình tan tác theo từng một tiếng ve. Ôm ấp quyển lưu bút trong tay để không còn phải luyến lưu với mớ sách vở giờ đã thành vô nghĩa, tay nắm lấy tay, nhìn nhau không rời, không con tàu không sân ga, tạm biệt không là giã biệt. Tiếng chuông reo lần cuối tan trường. Hè ngấp nghé quanh sân chờ cổng khép.

*

    Buổi chiều, trước hôm xuống Sài Gòn, chuẩn bị cho kỳ thi, anh Hoàng đến nhắc Luân mang một số đồ đạc về nhà anh cất, vì Luân sẽ vắng nhà ít nhất hơn tuần lễ. Luân sẽ ở tại nhà ông chú của anh Hoàng thay vì qua ở với Tấn bên cư xá Bắc Hải, Tấn xuống Sài Gòn sau Luân mấy ngày. Chưa chọn lựa được gì thì Hiên đến. Anh Hoàng hỏi Hiên vài câu qua loa rồi bỏ đi, hẹn tối trở lại đón.

    Anh Hoàng đi rồi, Hiên vẫn còn đứng ngập ngừng ngoài bao lơn gác. Luân quơ vội mớ sách ngổn ngang trên bàn bỏ lên kệ sách, rồi mời Hiên vào trong. Hiên ấp úng nói lời xin lỗi cho sự có mặt của mình. Không đợi Luân trả lời, Hiên nhìn Luân hồn nhiên:

- Chừng nào anh Luân đi Sài Gòn?

- Sáng mai đi cùng với gia đình anh Hoàng. Luân vừa nói vừa nhìn tờ lịch trên tường.

- Ngày mai Hiên cũng về Trà Vỏ, ở đó rồi đi Sài Gòn luôn. Chiều nay sau khi đến từ giã Hân về, em năn nỉ lắm Hân mới cho biết anh ở đây.

- Hân kín miệng thiệt, chỗ anh ở có gì đâu mà dấu.

    Tuy trả lời vậy nhưng Luân biết là Tấn đã bảo Hân không cho biết chổ Luân ở, mặc dù Luân không hề yêu cầu chuyện này. Luôn miệng Luân cám ơn Hiên đã đến chào.

- Anh còn ghét Hiên dữ lắm sao?

- Sao Hiên lại hỏi như vậy, Hiên chưa đọc thư sao?

- Vì còn ghét cho nên anh viết thư có chừng đó chữ!

- Viết ít mà có nhiều ý nghĩa lắm đó.

    Luân trả lời Hiên trong tâm trạng dối lòng. Thật ra Luân cũng định viết một cái thư dài cho Hiên, nhưng những ý tưởng mà Luân gói ghém viết ra lúc đầu hình như chỉ là đôi lời định mạng, trách móc thân phận nhiều hơn là thông cảm.

- Hiên đến thăm anh lần này vì không biết là mình sẽ còn có dịp gặp nhau thường nữa không, sau kỳ thi. Là con trai, anh biết rồi, chuyện gì sẽ xảy ra nếu một mai có người thi rớt. Định mệnh đôi khi nghiệt ngã quá phải không anh. Hiên chúc anh thi đậu và Hiên cũng sẽ cầu nguyện đất trời và hương hồn hai bác phù hộ cho anh như Hiên đã làm từ ngày anh bỏ Trà Vỏ đi.

    Luân sững sờ lặng người, cố nén cái xúc động thật lòng, mà chưa bao giờ Luân nghĩ là sẽ có trong đời mình, khi Hiên nói.

- Con người ai cũng có số mạng mà Hiên!

    Luân nhìn Hiên gượng cười tìm cách nói qua chuyện khác:

- Bài vở Hiên ra sao, chắc thuộc hết rồi, cố gắng nghe!

    Hiên nhoẻn miệng cười thật đẹp. Luân cùng Hiên bỏ lững câu chuyện ở đó. Anh Hoàng cũng vừa đúng lúc trở lại đón. Trời sụp tối và có phần nhuốm lạnh, anh dựng xe chờ dưới sân trước. Luân tiễn Hiên ra cổng, Hiên chào anh Hoàng rồi quay qua Luân nói nhỏ:

-  Anh còn có một người nhớ người thương!

    Trong bóng đêm vàng vỏ, Hiên khuất ở cuối đường như một thiên thần sáng rực trong mắt Luân.

 

2.

     Luân và Tấn đón xe đò về Tây Ninh thật sớm sau ngày có kết quả thi Tú tài Một. Tấn về luôn Gò Chùa còn Luân thì xuống xế chợ Trà Vỏ. Theo con đường đất ngang làng, Luân cố đi thật nhanh để thăm mộ mẹ, trước khi có thể bắt kịp chuyến xe chót từ Gò Dầu Hạ về tỉnh. Nắng trải dài trên mộ một màu vàng hực. Đám hoa mười giờ mà Luân với Tấn trồng chung quanh hôm trước Tết giờ đã nở rộ. Tình hình làng xóm có vẻ không mấy an ninh cho lắm. Thỉnh thoảng vài người lính Nghĩa quân mang súng đi ngang nhìn Luân không hỏi lời gì. Luân ràng rụa nước mắt báo mẹ tin thi đậu, rồi ngồi bên cạnh mộ cho đến giữa trưa. Khu rừng cây Sao ngày xưa Luân cùng đám bạn con nhà nghèo, thằng Kẹo, thằng Côn chơi đùa bên kia nghĩa trang vẫn còn vài tiếng ve gọi hè lẻ bạn.

*

    Một người phu cạo mủ về nhà nghỉ trưa, cho Luân quá giang theo xe đạp cũ của anh ra đến tỉnh lộ. Mùa này rừng cao su vẫn chưa thay màu lá. Chuyến xe chót vừa về tới bến, thành phố cũng chập chững lên đèn. Luân đón xe lôi máy về tiệm cơm bác sáu trước, thay vì về nhà mình. Mấy hôm Luân vắng mặt, có đứa cháu gái xa của chị Ánh đến giúp vì nó đang nghỉ hè. Hay tin Luân thi đậu, hai bác sáu vui mừng khôn xiết, chị Ánh lăng xăng nói nhỏ nói to gì đó với mấy người quen trong tiệm, bác gái hối hả giục Luân ăn cơm vì sợ Luân đi xe cả ngày rồi đói. Luân ở lại phụ dọn dẹp, nói chuyện với hai bác, về đến nhà trời đã khuya từ lâu.

    Luân đến phụ hai bác buổi chiều như trước những ngày sau đó. Bọn Luân lại tụm năm tụm ba hát hò lang thang đầu sông cuối phố, sau khi lãnh cái chứng chỉ trắng phao in hằn con dấu đỏ của hội đồng khảo thí. Cả bọn đôi khi kéo đến tìm Luân ở tiệm cơm, rồi dẫn nhau đi chơi biền biệt, hai bác chỉ nhìn theo cười nhăn cả mặt. Không nhắc nhở gì tới Hiên nhưng thật tình lòng Luân vẫn mong muốn gặp, trong nỗi ray rứt nhớ nhung ngày xưa và thổn thức bây giờ. Luân chợt biết ra là mình còn có một người thương như Hiên đã nói thật rồi.

*

    Ngày nộp đơn ghi danh học đệ Nhất, Luân đến trường thật sớm. Buổi sáng vẫn còn lờ mờ sương, dù trời đã có pha chút nắng. Hành lang thơm phức mùi tường vôi mới. Sân trường bắt đầu có người. Nhóm hai nhóm ba hỏi han to nhỏ, học trò cũ ung dung thư thái, học trò mới từ trường khác bước thẹn bước thùng. Bạn bè cùng lớp, có gặp mặt trong mấy ngày nay mới biết ai đi ai ở. Văn phòng bắt đầu phát mẫu đơn, thầy Giám học lăng xăng đi ra đi vào với mấy xấp giấy quay rô-nê-ô còn thơm mùi mực, miệng không ngớt dặn dò thầy cô phụ việc khác. Luân bỏ lên lầu, đứng nhìn xuống cái xóm chài bên kia sông. Đâu đó vẫn còn mấy ngọn đèn dầu lẻ loi chưa chịu tắt. Hoa phượng tàn cuối hè nằm bầm tím dọc theo sân trường, lặng câm theo từng gót chân người.

*

    Anh Hoàng gọi Luân từ phía dưới cuối sân, ra dấu tay chỉ về hướng mấy cái băng ngồi bằng đá gần ngõ lên văn phòng. Luân gật đầu đi xuống, anh Hoàng không chờ Luân lách người qua đám đông đi trước. Cả đám bạn thân, trai có gái có, ngồi xúm xích chung quanh, chăm chú giành nhau xem từng tấm hình Tấn chụp ở Sài Gòn. Không ngờ Hiên cũng có ở đây. Luân quay ngưòi đi, làm ra vẻ tự nhiên nhưng thật ra là để cố dấu chút niềm vui đang dâng tràn trong mắt. Hiên nhìn Luân thật lâu, ai nấy chợt dưng lặng im, trong cái xúc động có được của buổi chiều từ giã Luân trên gác trọ trước ngày thi, Hiên bỗng chợt khóc. Hân nhìn Luân, nhìn Tấn đỏ cay đôi mắt. Luân đứng lịm người đi, không biết phải làm gì và nói gì.

    Anh Hoàng cuối xuống nhặt một vài cánh phượng tím bầm, thả tung theo chiều gió trong cái nắng giữa trưa, Luân vụng về vỗ nhẹ vai Hiên mà không biết là mình đã có Hiên trong đời, có trong một tầm với tự bao giờ. Không bao lâu, đám học trò ghi danh thưa thớt dần trong sân trường rồi mất hút trên đường. Cái cổng sắt nặng nề từ từ hờ hững khép. Kéo nhau về tiệm cơm, dọn riêng một cái bàn dài giữa sân vườn trước nhà, hai bác để bọn Luân mặc tình ăn uống, cười nói huyên thuyên.

*

    Luân thật sự không có một nơi để gọi là nhà sau ngày ba mẹ nằm xuống. Cho đến bây giờ và có lẽ còn lâu lắm, Luân phải dong ruổi đời mình theo từng quán trọ, một gác lửng buồn thiu hay một căn phòng lặng lẽ. Ba Luân nằm cô độc bên trời Long Thuận, mẹ lẻ loi trong nghĩa địa Trà Vỏ lạnh lùng. Luân đã khóc trong đêm mỗi khi chút lửa nhang cuối cùng chợt tắt trên bàn thờ không di ảnh.

    Tháng bảy trời vẫn có một vài cơn mưa bụi nhỏ, lá me bay phủ lờ mờ trên đường, hắt hiu theo từng bóng nắng. Buổi chiều, đúng một năm ngày mẹ Luân mất, bọn Luân, có Tấn và anh Hoàng, âm thầm làm bữa cơm cúng giỗ trên gác trọ với vài món ăn mà Luân đã mang về từ tiệm cơm bác sáu. Bữa giỗ đơn sơ và hiu quạnh.

 

Thuyên Huy

Góp nhặt ý từ một câu chuyện cũ - 2025