Thu Nghĩa Trang
Wednesday, July 31, 2024
Tát Đìa Ăn Tết - Trần Mộng Lâm
TÁT ĐÌA ĂN TẾT
Đìa là chỗ trũng ngoài đồng có đắp bờ
để giữ nước và cá.
Tục ngữ có câu:
Nay tát đầm, Mai tát đìa, ngày kia giỗ
hậu.
Truyền thống của người dân vùng sông
nước Cửu Long là gần đến Tết, họ tát đìa, dỡ chà, bắt cá tôm, kiếm tiền xài Tết,
và có cá để dành tiếp khách.
Thời gian tát đìa thích hợp nhất là từ
tháng Chạp đến tháng Hai Âm Lịch. Người nông dân tính toán rất sít sao: Dứt lúa
tới đìa, dứt đìa tới ruộng, đủ ăn quanh năm.
Khi tôi bị đi học tập tại vùng Đồng
Tháp Mười, năm 1976-1977, chỉ cần ra đồng ruộng là nhìn thấy từng đàn cá bơi lội,
cá lóc với bầy con ròng ròng, cá rô đồng, những con rùa, và các con rắn xà nẹo
trên các bụi cây trên bờ, khi bơi hay chống thuyền trên các sông, rạch. Chỉ cần
bước chân xuống ruộng là bắt được cá.
Tại nơi muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh này, vào những ngày cận
Tết, nhà nào tát đìa là cả xóm đến cùng nhau bắt phụ. Mỗi người một việc: be
bè, nhét bọng, quăng chà ra khỏi đìa, dùng đăng chặn hết các ngõ ngách không
cho cá thoát ra khỏi đìa, rồi dùng gầu, dùng thùng tát đìa.
Muốn một cái đìa có nhiều cá, thì khi
đào nó, phải tôn trọng các nguyên tắc, các kinh nghiệm mà người dân quê đã truyền
cho nhau như ngó hướng sông, hướng gió, thế nước, cách mở miệng đìa, sao cho cá
vào nhiều trong đìa. Bởi vậy mới có các ông «thầy đìa», chỉ dẫn từng ly, từng
tí bí quyết đào mới mong có kết quả sau này.
Cũng như con người, chết vì danh vọng,
của cải, con cá chết vì đìa sâu, rộng, lại ấm, cho nó bơi lội thải mái. Người
kinh nghiệm có thể đánh giá một cái đìa có nhiều cá hay không. Thường thì bờ
đìa cỏ mọc tùm lum, người ta nằm xuống, lấy tay rờ qua rờ lại coi thành bờ xem
nó láng hay sần sùi. Nếu mép bờ đìa láng o, thì đìa có nhiều cá.
Nghe tiếng cá táp cũng có thể biết cá
trong đìa to hay nhỏ. Cá lóc lớn khi táp mồi chỉ nghe một tiếng rất êm, nhẹ.
Trái lại những con cá nhỏ lại táp mồi một cách ồn ào hơn. Ngay cả khi nhìn tăm
cá trên mặt nước cũng không chắc ăn. Mặt đìa khi cá ăn móng như cơm sôi cũng
chưa chắc có nhiều cá.
Tát đìa thường vào buổi sáng, khi gà
vừa gáy.
Không khí một buổi tát đìa thường rôm
rả khác thường. Kẻ tát, người nghỉ để hút thuốc, nói chuyện trời trăng mây nước,
tâm sự vợ con, nhộn nhịp vô cùng. Thường thì những người đứng gầu chỉ làm việc
chừng nửa tiếng, sau đó đổi tay. Ngày nay, có khi người ta dùng máy bơm, bơm nước,
nhưng làm như vậy, mất hết vẻ quyến rũ của một ngày tát đìa thuở xa xưa, khi
ông bà đi mở đất. Thật là một điều đáng tiếc nếu một ngày kia, chiếc gầu dai
không còn được sử dụng nơi đồng quê. Số phận của chiếc gầu dai, một ngày nào đó,
sẽ giống như số phận của chiếc cối xay gió, mà ông Alphonse Daudet đã ghi lại
trong văn học Pháp mà thôi.
Tát đến khi mặt trời đứng bóng là được
phân nửa đìa. Cá bắt đầu động đậy dưới lớp nước đã vơi đi. Ông thầy đìa nhìn mặt
nước sôi bọt, đã biết sẽ có nhiều cá lóc hay cá trê.
Chừng nửa tiếng sau là cá lóc có con
to bằng bắp chuối đã hiện ra, trườn qua, trườn lại, lóc vào các chỗ cạn để tìm
đường thoát. Khi đó, người chủ đìa sẽ nhẩy vội xuống bắt ngay mấy con, quăng
lên bờ cho mấy cô gái, hối thúc mấy cô này đốt rơm nướng, chuẩn bị cho món cá
lóc nướng trui để đãi chòm xóm đã giúp tát đìa.
Bữa cơm với cá lóc nướng trui ngon và
vui hơn đám giỗ. Tiếng cười nói rổn rảng, dân làng quây quần bên nhau, đàn ông
con trai ngồi chồm hỗm, đàn bà, con gái, xếp bằng. Thịt cá lóc, gỡ bằng tay, cuốn
trong bánh tráng, đọt soài, bông điên diển, khế chua, rau cải trời, chấm mắm,
hay nước mắm giầm chanh ớt, cay xé miệng, ăn ngon gì đâu.
Ăn uống xong họ tát tiếp cho đến khi
đìa cạn. Cá phơi lưng ra. Những người đàn ông săn quần nhẩy xuống bắt cá. Đàn
bà cầm đuốc để soi sáng và đuổi muỗi, hay chuyển cá lên bờ. Nào cá trê, cá lóc,
lươn, rắn, rùa, ốc bươu, lúc nhúc trong lớp bùn lên tới gối,tha hồ bắt. Rắn thì
thường là loại rắn hiền, rắn ri voi, ri cá, rắn bông súng. Các con cá lóc bự cắm
đầu vào sình non trốn, nhiều khi phải thọc tay vào thật sâu mới kéo được chúng
ra. Sau khi chủ đìa đã bắt được khá bộn, bọn bắt cá hôi mạnh ai nấy mò, nhiều
khi cũng trúng mối.
Cá bắt được cho vào bao, cho trâu kéo
về. Chủ đìa chia cho các người tát đìa mỗi người một bao để trả công. Cá được rọng
lại để ăn dần qua Tết. Còn dư, đem biếu xóm giềng. Xóm giềng cũng xúm lại giúp,
đánh vẩy, móc ruột. Cá nhỏ làm mắm, cá lớn, chết, phơi khô.
Người dân Đồng Tháp ăn ở với nhau hiền
hòa, nhân hậu, thấm đậm tình chòm xóm láng giềng, không giống với người dân
thành thị, như hiện nay, tại Sài Gòn, người ta nhiều khi dùng dao chặt tay nhau
để cướp đồ.
Tháp Mười gió thổi lao xao.
Ngàn hoa điên điển rì rào trong đêm.
Hương ngàn cỏ lạ không tên.
Dâng từng bông súng, đầm sen ngọt ngào.
Tôi đã có thời gian sống tại Đồng
Tháp Mười tuy tôi được sinh ra tại Miền Bắc.
Từ nhỏ đến lớn, tôi là người sống tại
thành thị. Ngay khi còn ấu thơ, tôi cũng chỉ về quê, nơi ông bà nội tôi sống,
trong những ngày Tết hay trong một thời gia ngắn đi tản cư, những năm cuối thập
niên 40. Khi ấy, tôi chưa được 10 tuổi, nhưng cũng còn giữ lại được trong ký ức
việc bắt cá nơi thôn quê.
Tát đìa, ngoài Bắc người ta gọi là
tát ao. Nhà ông bà nội tôi có 2 cái ao, và khi gần Tết, cũng có những người đến
tát ao để bắt cá. Khác với trong Nam, mỗi khi tát ao như vậy, cảnh tượng cũng y
chang Miền Nam, nhưng thay vì bắt được những con cá lóc (ngoài Bắc gọi cá quả),
thì người ta bắt được các con cá «chắm», cá mè.
Con cá mè thì tôi còn nhớ, vì có các
vẩy nhỏ li ty như những hột mè, trắng lóng lánh. Còn con cá «chắm», tôi quên mất
nó ra làm sao, nhưng tôi còn nhớ một điều là ông nội tôi hay ăn gỏi cá sống, chắc
cũng giống như người Nhật ăn món shushi ngày nay. Trong Nam, tôi chưa thấy ai
ăn cá sống bao giờ, nhưng người miền Bắc, có ăn cá sống. Tuy nhiên, việc làm gỏi
cá sống rất phức tạp, cầu kỳ. Cá phải được tẩm vào các lại thính đặc biệt, và
rau để ăn gỏi cá gồm 8 hay chín loại gì đó, không hơn, không kém, không gia giảm.
Tôi biết điều này vì người thường làm gỏi cá cho ông tôi thường là mẹ tôi.
Trong thời kỳ tôi sống nơi quê nhà, chỉ chừng 1 hay hai năm.
Ông tôi may mắn chết trước khi Cộng Sản
phát động cuộc cải cách ruộng đất, nên các cụ thoát được cuộc Tố Khổ chỉ xẩy ra
ít năm sau đó.
Cảnh tượng tát ao ăn Tết vẫn là một kỷ
niệm rất đặc biệt, rất êm đẹp của thời thơ ấu, khi tôi còn trong nước.
Hiệp Định Genève đưa tôi vào Miền Nam
năm 1954. Tôi sống tại Sài Gòn, Cần Thơ mãi tới sau 1975 mới biết đến Đồng Tháp
Mười, khi tôi bị bọn giặc xâm lấn, dùng vũ khí ngoại bang, chiếm đoạt Miền Nam,
và đầy ải chúng tôi đến vùng đất xa xôi này. Trong cái rủi, có cái may, là nhờ
đó tôi biết khá nhiều về Đồng Tháp Mười, biết thế nào là đỉa, là muỗi, là chim
bìm bịp, là cá thác lác, là cây bần, cây chàm, cây dừa nước, là rừng sậy…v.v
Và tôi biết được thế nào là người dân
Đồng Tháp.
Họ hồn nhiên, hiền hòa, và không cần
ai giải phóng.
Hãy đọc đoạn văn này của một người bạn
gốc gác tại vùng này, nay đang sống đời lưu vong tại hải ngoại, vì giặc Công Sản:
- Đời nọ sang đời kia, ông cha chúng ta cầy cuốc, lấy
mồ hôi nước mắt đổi miếng ăn, có cướp giựt ai đâu. Đất Nam Việt của người Nam
Việt, giải phóng cái con khỉ gì ??….. Cám ơn bác, cám ơn đảng, chúnng tôi luôn
nhớ ông bà cha mẹ chúng tôi dân đồng chua, nước mặn, ăn chắc mặc dầy….«phỏng
trán» chay tay dựng nên MIỀN NAM NƯỚC VIỆT .
Đó chính là đoạn tôi đọc được trong
tác phẩm «Chiều chiều, ra đứng ngõ sau» của nhà văn Nguyễn Phương, Paris.
Tôi đọc tác phẩm này khi ngồi tại
Montréal trong mùa Đông năm 2014, thời tiết bắt đầu lạnh, và chỉ ít bữa nữa
thôi, tuyết trắng sẽ rơi đầy.Biết bao giờ tôi mới được tham dự thêm một lần một
buổi Tát Đìa ăn Tết ?? tại Đồng Tháp Mười.
Tất cả đã đi vào dĩ vãng, kể cả nơi
chốn, và con người, những dân quê hiền lành, chất phác, nhìn con trăng hạ tuần
tháng chạp, nghe gió bấc lao sao thổi về, nghĩ tới chuyện Tát Đìa Ăn Tết.
Trần Mộng Lâm.
Nguồn: Sáng Tạo
Người chuyển bài – N Nguyên
Nam Mô Chiếc Áo Cà Sa- Khuất Đẩu
NAM MÔ CHIẾC ÁO
CÀ SA!
Khuất Đẩu
“Giữ chùa
mà thế này à? Tôi xin hỏi bà con: để làm trụ trì hay nên thôi?”
«Thôi!
Thôi! Người ta gào lên. Đuổi lão ra khỏi chùa, đồ sư hổ mang!»
Nhưng cũng
có kẻ bênh vực: «tại con đĩ đó chớ đâu phải tại thầy».
« Chùa
phải ra chùa, đại gia trưởng ban nói, bước đầu tôi xin cúng dường một tỷ ».
Thôi thì
cũng đành một nhẽ, chùa đẹp như thế, tinh khiết như thế, nhất định là sẽ có
Phật vàng.
Khuất Đẩu
304Đen – Llttm - sgtc
Saturday, July 27, 2024
Thương Quê - Nguyễn Cang
THƯƠNG QUÊ
Thuyền ai
thấp thoáng ở bên sông
Xuôi ngược
về đâu chảy ngược dòng
Bờ bắc
con đò trôi bến vắng
Trời Nam
lúa sớm chín hừng đông
Trưa hè
bìm bịp kêu con nước
Chiều mát
trẻ em bắt cá đồng
Một thuở
thanh bình đâu thấy nữa
Miệt mài
tay trắng cũng bẳng không!
Nguyễn Cang (Jul. 20, 2024)
Chút Mảnh Vụn Đời Để Nhớ - Thuyên Huy
Chút Mảnh Vụn Đời Để Nhớ
Ngồi ở một góc tiệm kem, sát cửa kiếng, nhìn ra, ngoài đường dập dìu người,
nô nức xe, chiều thứ bảy, Sài Gòn chắc chiều thứ bảy nào cũng vậy, là thằng nhà
quê tỉnh lẻ, con nhà nghèo, chân ướt chân ráo, không bà con, không người thân
thích, bỏ trường tỉnh, tập tểnh lên đại học, ước mơ khiêm nhường, nhỏ nhoi, vậy
thôi, trừ những ngày mùa thi, cũng nhớ chút Sài Gòn thoáng qua, giờ mới thật sự
sẽ sống với phố phường ngựa xe của nó, ít lắm cũng phải qua đủ bốn mùa của một năm.
Giờ này vẫn lưng chửng chiều, nắng nhẹ và gió mát, tiệm kem, càng lúc
càng đông người, Thuận đọc qua đọc lại trang Rao vặt của tờ Chính Luận nhiều lần,
chưa tìm được chỗ trọ nào vừa với số tiền mình có, Thuận thở dài, chắc phải ở tạm
tại nhà người quen của bác tài xế xe đò, thương tình gởi hai ba hôm nữa, đành vậy
biết làm sao hơn. Thuận để nguyên trang rao vặt trên bàn, nhìn bâng quơ ra đường,
người ngoài đường cứ đông, từ cửa tiệm đi vào, hai cô gái, xem ra như hai chị
em, tóc dài ngng vai, tới cái bàn, sát bàn Thuận đang ngồi, không biết sao, nhiều
người vào, lại không thấy bàn này trống. Thuận quay vào, gật đầu cười chào, hai
cô vừa chào lại, vừa liếc nhìn trang báo mà anh chưa kịp xếp lại, nhận ra cái
liếc mắt vô tình đó, Thuận hơi bối rối, lặng thinh lật qua trang khác, không cần
biết là trang gì.
Không còn nhìn ra đường vì đã bị hai cô gái che khuất gần hết, sực nhớ
việc phải làm, Thuận đành “phớt tỉnh Ăng – Lê”, lật lại trang rao vặt,
chỗ cho thuê mướn nhà, chỗ cho học sinh sinh viên trọ, đọc nữa. Cô ngồi kế bên,
có lẻ là người chị, trong mắt Thuận thì khá đẹp, cũng nhìn qua trang báo, cười
nhẹ bắt chuyện, hỏi qua lại vài câu, đúng là hai chị em, cô chị cho biết, gần
nhà có một căn nhà đang trống, chủ muốn cho ai đó, phải là sinh viên hay học
sinh ở, mà không cần trả tiền gì cả, vì họ làm ăn phương xa, nên cần người giữ
giùm, đôi khi mười họa từ Đà Lạt mới ghé về, không ở, vì họ cũng có căn phố
khác đâu đó trên đường Hồng Thập Tự.
Thuận bất ngờ quá, cứ buột miệng nhiều lần hai tiếng cám ơn, Thuận xếp
trang báo lại, hai cô kéo ghế qua ngồi chung bàn, cô em cứ bẻn lẻn cười mà
không nói gì hết. Họ quen nhau từ đó, cô chị viết địa chỉ nhà mình, bảo anh cứ
tới rồi, cô dẫn chỉ cho, trước khi hai chị em chào tạm biệt, Thuận xếp tờ báo,
bỏ vào túi xách, theo sau ra đường tiễn, hai người đi xa về hướng quốc hội, Thuận
quàng túi xách lên vai, thả bộ xuống chợ Bến Thành, đón xe lam về ngã tư Bảy Hiền,
chỗ anh đang tạm ở nhờ.
*
Căn nhà vừa vặn, có gác lửng trên, nằm gọn không xa đầu vào con hẻm bao
nhiêu, xế ngã tư Cao Thắng một chút, ngỏ vào cũng trên đường Phan Thanh Giản, hẻm
chạy sâu nối với phía trong cư xá Đô Thành, cách nhà chị Quyên, và cô em gái,
Tuyền, hai chị em mà Thuận gặp ở tiệm kem ngoài phố chính, chừng bốn năm căn phố
lầu khác. Nhà có sẳn bàn ghế, giường ngủ, tủ đựng áo quần, tủ đựng ly tách, dưới
nhà bếp thì nồi niêu soon chảo, chén bát, muỗng đủa, không thiếu thứ gì, Thuận
ngỡ ngàng, lúng túng khi theo chị Quyên vô nhà. Hỏi ra mới biết, hai bác chủ
nhà là bạn làm ăn với ba mẹ chị Quyên, ba chị hiện làm gì đó chắc cũng lớn và
có phần hùn với công ty bột giặt VISO, bác gái, mẹ chi làm công chức ở bộ Nội vụ,
chị Quyên năm nay là năm cuối trường Dược,
Tuyền thì lên đệ Nhất trường Nguyễn Bá Tòng, vì vậy họ giao trọn căn nhà cho ba mẹ chị Quyên tính
sao thì tính.
Nhận nhà xong, Thuận theo chị qua nhà, chào cám ơn gia đình, thì trời chập
choạng chiều xuống, cả nhà bảo anh qua ăn cơm, khỏi lo bữa này, mai rồi tính,
Thuận hứa rồi đón xích lô xuống phố tìm mua mền gối cho đêm nay, đêm đầu tiên
làm người Sài Gòn. Cuối cùng, tạm gọi là xong, hy vọng từ nay, chắc không còn
phải lang thang, đời ở trọ, từ chỗ này chỗ kia rày đây mai đó như suốt bảy năm
trung học ở tỉnh nhà nữa.
*
Thuận cũng gọi là giỏi toán nhưng không biết phần số thế nào mà trời
chưa chịu thương nên, thi vào Phú Thọ, không đậu, qua Sư phạm cũng “trợt vỏ
chuối” luôn, đành chịu phép, lũi đầu vào Luật xem sao rồi tính tiếp. Hai
bác và hai chị em chị Quyên thấy Thuận hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, bặt thiệp,
vui tính, có chí ham học nên thương tình, giúp lo cái này cái kia, nhiều đến nổi
làm cho anh lo ngại quá, đôi lúc phải giả bộ kiếm chuyện, bận này bận nọ, không
qua bên nhà chị ăn cơm chiều, đã có xe bánh mì góc Cao thắng rồi, đủ no bụng.
Chiều chiều hai chị em thường thả bộ qua, kiếm Thuận, ngồi tán gẩu chuyện trời
trăng mây nước, xuân hạ thu đông trước hiên nhà, bên kia đối diện cũng réo hỏi
“Thuận hởi Thuận ơi”. Thỉnh thoảng, không thường lắm, Thuận cũng hay
giúp Tuyền khi gặp phải hai ba bài toán khó, bốn năm công thức định lý nhàm
chán có từ trăm năm, từng gây khổ đau, khóc hận không biết bao nhiêu “nam
thanh nử tú”.
Về trên nhà ăn tết xuống, buổi chiều, vừa kịp sắp xếp ba thứ lặt vặt thường
dùng vào chỗ, thì chị Quyên tới cùng với hai người lạ, trạc tuổi ba mẹ chị, hai
người này là chủ nhà mà Thuận đang ở trọ. Hai bác khá vui tính, hiền hậu, bác
trai hỏi thăm Thuận chuyện gia đình ở quê, chuyện học hành, ngay cả chuyện ăn uống,
bác gái thì ít nói ngồi cười nghe thôi, chắc có nghe chị Quyên nên bác hỏi tới
hỏi lui, việc anh đi bán xăng buổi tối ở cây xăng ngã tư Lê Văn Duyệt, có thời
giờ học không, có cực nhọc lắm không, chuyện bán xăng là nhờ ở người bạn quen
cùng năm ở trường Luật, dân Sài Gòn, giới thiệu cho chú anh ta, là chủ cây xăng
Shell, chừng đâu hơn tháng sau ngày nhập học, học ở phân khoa tự do cũng tương
đối dễ, muốn tới giảng đường nghe, ghi chép, thì tới, chán cứ về sớm, chẳng ai
biết mặt ai, đã có ban đại diện lo quay “cua” bài bán rồi, cộng thêm mớ
sách nào cần đọc thêm, thì tạm gọi là không lo chuyện thi cử cuối năm nữa. Bác
trai có vẻ lo lắng định hỏi thêm gì đó nhưng lại thôi. Ra về, hai bác để lại túi
bánh mứt bảo quà tết, hy vọng sẽ gặp lại Thuận nữa. Thuận theo ra tiễn hai bác,
chị Quyên tới đầu ngỏ hẻm, đứng chờ họ đi khá xa, hình như chị Quyên quay nhìn
lại, rồi trở vô nhà. Nắng chênh chếch nhạt xuống trên đường lớn, trời hôm nay
chiều Sài Gòn về hơi muộn.
*
Tuyền, đậu tú tài Hai, cùng lúc với Thuận đậu vào một trường khác, thi
tuyển khá gay go nhưng, giờ được trời thương thiệt nên “bảng hỗ đề tên” mặc
dù là đậu hạng gần dưới chót của danh sách trúng tuyển. Chị Quyên cũng tốt nghiệp
trường Dược với cấp bằng Dược sĩ khá oai, hình như có nghe thoáng qua trước
đây, gia đình tính hùn với ai đó mở tiệm thuốc Tây khi chị có bằng. Trời vào hạ,
phượng nở rợp đỏ trên đường, đường vắng áo trắng học trò, phố phường vẫn đông
người như ngày tháng cũ, vẫn ngựa xe xiêm áo, thứ ngựa xe xiêm áo thị thành.
Thuận về trên tỉnh thăm nhà, báo tìn vui vài ngày rồi đón xe đò trên tỉnh
trở xuống Sài Gòn, chuẩn bị cho năm học đầu ở trường mới, khai giảng sớm hơn
các trường khác. Tới Sài Gòn trời cũng ngấp nghé chiều, dọn dẹp ba thứ lặt vặt
đâu đó xong, như đã hứa Thuận thả bộ qua nhà chị Quyên, ăn bữa tiệc mừng thi đậu.
Nhấn chuông, Tuyền ra mờ cửa, nói nhỏ “anh
Thuận ơi, hôm nay có khách quen anh nữa đó”, tiếng chị Quyên hỏi vọng ra “Thuận
hả”, Thuận theo Tuyền vào trong, phòng ăn chưa có ai nhưng có tiếng người
cười nói trong nhà bếp. Đứng xớ rớ, không tới không lui, thì chị Quyền ngó ra,
làm dấu tới chỗ chị đang cắt rau cắt cải gì đó, cạnh chị là một cô gái lạ, tuổi
cở tuổi Tuyền và bác gái chủ nhà đã gặp hôm sau tết, chưa biết nói gì thì bác
gái chủ nhà hỏi ngay “ba má con trên tỉnh khỏe hông?”, không đợi anh trả
lời, chị Quyên ngó qua cô gái, hơi thẹn thùng, “Thuận nè, con đây là Trâm,
con gái cưng của bác gái đó”, Thuận cười chào, Trâm bẻn lẻn “dạ chào anh
Thuận”. Mẹ của chị Quyên từ vườn sau vào, thấy Thuận bà vui ra mặt “Ủa
Thuận, con qua hồi nào?”, không lâu sau thì ba chị Quyên và bác trai chủ
nhà cũng theo vào, Thuận cúi đầu chào như những lần chào trước.
Bữa tiệc không rườm rà lắm, cả nhà ngồi hỏi nhau qua lại trăm thứ chuyện,
bốn người lớn, bốn người nhỏ, Trâm vẫn còn ngại ngùng đôi chút, nhưng rồi cũng
nhập cuộc, chuyện này chuyện kia rân rân, dường như ai nấy cũng nói nhiều hơn
là ăn, không biết mẹ chị Quyên có nói gì với bác gái chủ nhà không, bà cứ nhìn
Thuận cười hoài, cái cười vui có chút dự tính gì đó.
Dọn dẹp xong, đường đã lên đèn, đêm chầm chậm xuống, chiều đã bỏ đi từ
lâu, người lớn bỏ ra ngoài phòng khách, Thuận theo chị Quyên, Tuyền và Trâm ra
mấy cái ghế đá vườn sau, Trâm và Tuyền cùng tuổi, cô nàng học Bùi Thị Xuân trên
Đà Lạt, cùng đậu tú tài Hai năm nay, về lại Sài Gòn, giờ thì hai cô nàng tính sẽ
thi vào Dược, theo chân chị Quyên, khá xinh, một chín một mười so với Tuyền,
cũng nói năng duyên dáng, không làm bộ làm tịch, dễ thân thiện, Thuận thì thêm
vào bớt ra chuyện này chuyện nọ, ai cũng cười luôn miệng, ba chị em đều biết
anh sẽ học cái gì nhưng không hỏi đon hỏi ren. Trời cũng sắp về khuya, từ giã
nhau, hẹn gặp lại, ra đường, trước khi lên xe ta-xi, bất chợt bác trai chủ nhà
quay lại nhìn Thuận cười “ở đằng đẳng con có cần gì thì nói cho bác biết
nghe”.
*
Cũng
hay, Tuyền và Trâm, cả hai đều đậu vào Dược, chị Tuyền vào làm ở hảng bào chế
OPV, học hỏi chút kinh nghiệm để sang năm sẽ mở tiệm thuốc như gia đình chị dự
tính, ba mẹ Trâm, lúc này vì cô ở trong này, nên ông bà thường xuyên về và ở lại
Sài Gòn lâu hơn trước, Thuận yên lòng, vào trường mới, vẫn tiếp tục học lên bên
Luật, anh đã nghỉ làm cho cây xăng cũng khá lâu, vì đã có tiền học bổng của trường,
khấm khá, dư xài mà còn tiết kiệm được đôi chút. Dạo này, anh ta cùng ba chị
em, càng ngày càng thân thiết hơn, bát phố, rong chợi đường phố Sài Gòn, dường
như lúc nào cũng thấy bên nhau, Thuận lại phải “thân này ví xẻ làm đôi”,
hết cơm chiều bên này, nhà chị Quyên rồi cơm trưa bên kia, nhà của Trâm, cứ qua
qua lại lại, không dám từ chối bên nào. Riêng anh, có những lúc ngồi một mình
trước hiên nhà, bất chợt anh tự dưng lo lo, không biết là có đúng như mình
nghĩ, vì dù gì anh cũng nhận ra, qua tình cảm, cử chỉ, lời nói của hai gia
đình, hình như có cái gì đó mà họ chưa tiện nói ra, ý tưởng này phút chốc chỉ
thoáng qua trong đầu vậy thôi và ngưng ở đó.
Hẹn lần hẹn lựa, rồi cũng đành phải chịu, ba chị em theo Thuận về trên
quê thăm nhà, mà nhà anh có gì đâu, nhà nghèo mà, chỉ là một căn nhà mái tôn
vách ván, ở gần cuối chợ xã, sau nhà là cái vườn cây vú sửa và hơn chục cây bưởi
ngọt, cái vườn đã nuôi anh lớn lên, không dư không thiếu, cái vườn mà ba mẹ anh
đã một đời cặm cùi, chắt chiu nắng sáng mưa chiều vất vả, gọi là nhà nghèo
nhưng thật ra chưa đến nổi túng thiếu, cũng may số cây trong vườn đã được mấy
người bạn hàng dưới chợ quận mua mảo hết khi tới ngày hái.
Họ đón chuyến xe đò quen đi sớm, trời chưa trưa đã tới. Ba mẹ Thuận ngại
quá, ngạc nhiên, biết chuyện ăn ở dưới Sài gòn ra sao rồi, vui mà muốn khóc, nhất
là mẹ Thuận lúc nào cũng lẩm bẩm “ân nhân của con tôi, ân nhân của con tôi”.
Ba cô nàng han hỏi lăng xăng, mang ra mớ quà, bánh trái gì đó tăng ông bà, họ
đem theo mà không cho Thuận biết, bàn ghế trong nhà có đôi ba cái, có bao giờ
tiếp khách gì đâu, ông bà trả lời mà cứ nhìm Thuận ngầm hỏi “được hông con?”,
ông bà gọi cô này cô kia nhưng ba cô nhanh nhẩu bảo “gọi tụi con là con đi
bác, coi như anh Thuận mà”. Rồi cũng tạm yên, Thuận đưa ba chị em đi một
vòng phố chợ quê, cái chợ quê có cây phượng già độc nhất và hàng cây trứng cá
xanh màu lá, cái chợ mà trời chưa đứng bóng đã tan, chỉ còn bầy chim hoang rủ
nhau kiếm mồi tại mấy cái sạp bán hàng ọp ẹp.
Trở lại nhà, ba chị em và Thuận kéo nhau ra sau vườn, cũng hên, hai ba
cây vú sửa vẫn còn sót trái bộn, trắng và tím, ba cô hăng hái, rộn ràng dùng
cây sào thường dùng, bẻ xuống đâu chừng vài chục trái, Thuận đứng nhìn cười, rồi cả bọn ngồi ăn ngon lành ở gốc cây ngã cuối
vườn, khen ngon khen ngọt. Bữa cơm trưa hôm đó, cả nhà trải chiếu ăn ngoài vườn,
dưới bóng cây vú sửa lớn già nhất, bữa cơm cá trê kho xả ớt và tô canh chua bạc
hà trồng bên hông nhà, bữa ăn có nhiều tiếng cười và tiếng suýt soa cay của ớt.
Qua giữa trưa, ba mẹ theo ra đường lộ tiễn ba chị em cũng như Thuận đón xe đò chiều
về lại Sài Gòn. Xong một ngày đi, một ngày vui.
*
Gần cuối năm thứ ba, một ngày thứ bảy không về trên nhà, trời càng về
chiều càng mát, cơn mưa bất chợt mới hùng hỗ hồi sáng giờ ngưng hồi nào, chẳng
ai thèm nhớ, đường xôn xao trải nắng,
thêm chút bụi nhạt cuốn theo chiều gió, đi tới đi lui, định ra cái xe bánh mì
góc Cao Thắng thì chị Quyên tới, giờ này tiệm thuốc cũng đã đóng cửa như mọi
ngày, không có Tuyền, hai chị em thả bộ qua cái xe bán bò vò viên, ngay bên đường
đầu hông rạp Đại Đồng, ăn đổi món. Vừa ăn vừa nói chuyện, vài chuyện lặt vặt
trong ngày nhưng lần này linh tính cho anh biết, chắc có chuyện gì mới, quả
đúng vậy, chị Quyên nhìn ra đường rồi nhìn Thuận chậm rãi cho biết “Tuyền nó
yêu em từ lâu rồi mà không dám nói Thuận ơi”,
Thuận ngở ngàng giựt mình, trố mắt nhìn chị kinh ngạc, nín lặng, im tiếng
không nói được lời nào, chuyện này Thuận chưa hề nghĩ tới nhưng bây giờ đã tới,
chị Quyên mĩm cười “chị nói cho em biết vậy thôi, tùy ở em, em biết rồi, gia
đình chị lúc nào cũng thương em”. Rồi vẫn không biết nói gì, hai chị em trờ
lại nhà, tới đầu hẻm, trước khi bỏ đi về hướng nhà mình, chị Quyên nói khẻ “ngủ
ngon, chuyện đâu còn có đó nghe”, Thuận gật đầu, vẫn còn nghẹn lời, bổng
dưng anh thấy lòng mình lo sợ. Chuyện giảng đường, chuyện phố phường, chuyện ghế
đá công viên của những ngày tháng cũ, họ, Thuận, Tuyền, Trâm vẫn là những ngày
vui nhiều buồn ít, Thuận vẫn cố đứng bên đời bên người như đã như vậy.
Bên chị Quyên, buổi chiều, một chiều đầu năm cuối, chuẩn bị tốt nghiệp,
trước hiên nhà, đám trẻ xúm xích xem truyền hình trong căn nhà quen đối diện,
hò hét, vang trời, Thuận thở dài thở ngắn, cho chị biết, chuyện sau bữa cơm chiều
vài ngày trước, ở nhà ba mẹ Trâm, trước khi ông bà trở lên Đà Lạt, chị Quyên im
lặng nghe “bữa ăn xong, cả nhà vui vẻ, Trâm lặng xăng dọn bàn dẹp ghế, ca
hát như mọi lần, bác gái bảo có chuyện cần muốn hỏi Thuận, anh theo ra ngồi
ngoài phòng khách, cũng như chị Quyên hôm nào, bác cho biết là Trâm có tâm sự với
bác, nó nói nó thương con từ lâu rồi mà chưa dám nói ra, thấy nó tội nghiệp, thấy
con cũng thương cũng mến, nên bác nói ra vậy thôi”. Ngưng ở đó, Thuận lắc đầu
nhìn trời trên cao nói thầm “trời ơi”, chị Quyên cũng lặng thinh, rồi ra
về, Thuận đi theo, hai chị em bên nhau, đi tới ngoài đầu hẻm, cũng không nói
thêm gì. Nắng dịu trên đường, một vài cụm mây xám, đong đưa chậm xuống thấp,
Sài Gòn chờ mưa chiều.
*
Ra trường, Thuận chọn về làm việc ở một tỉnh nhỏ biển miền Tây, cuối
cùng của đất Nam, anh vui lòng với quyết định của mình, anh không phải làm kẻ đứng
ở hai ngã đường tình, có như thế mới trọn vẹn được ơn nghĩa mà anh đã nhận ở
đôi đàng. Thuận gởi lại lá thư ngắn trong nhà, và cái chìa khóa chị Quyên đưa từ
ngày mới tới trên bàn, lẳng lặng đi, như mọi khi, bác chủ nhà đối diện ngó ra
cười, không hỏi gì, bà đã quen quá rồi chuyện đi về của anh , Thuận đón xe đò về
trên nhà thăm ba má rồi cũng lẵng lặng bỏ Sài Gòn đi, bỏ lại một mảnh vụn đời để
nhớ của mình ở lại, theo chuyến xe đò xuôi miền Tây sông nước. Nhìn lại Sài Gòn
một lần nữa sau lưng, Thuận bất giác thở dài, cái thở dài thật buồn.
Thuyên Huy
Một ngày mưa
giữa thu quê người 2024