NAM MÔ CHIẾC ÁO
CÀ SA!
Ngôi chùa
ấy lợp tranh. Như thế đủ biết chùa nghèo lắm. Chùa lại nằm giữa một xóm còn
nghèo thảm hại hơn. Những mái tranh xiêu vẹo, những tấm tôn rỉ sét, những tấm
bạt cũ kỹ. Một mớ xệch xạc nằm chênh vênh cạnh một con đập đắp bằng lá. Cứ như
một đám rác lều bều để lại bên bờ sau những cơn lụt.
Khuất Đẩu
Nhưng chùa
có nhiều tượng Phật bằng gỗ. Tượng lớn to bằng trái bầu. Tượng nhỏ như trái
chuối. Đen thui như bới từ trong đống than ra. Dễ chừng có đến hàng trăm tượng.
Trước ngày Phật Đản, một chú tiểu nhỏ như cây tăm xỉa răng, lùa hết các tượng
trong một cái thúng đem xuống sông tắm rửa. Chú dùng rơm kỳ cọ như các bà rửa
xoong nồi. Vì thế có nhiều tượng sứt môi, gãy mũi. Sư cụ biết vậy nhưng cũng
chẳng dám quở mắng. Chú chỉ là một đứa bé mà cha mẹ ép tới chùa để bớt đi một
miệng ăn, chứ không phải nhất tâm thành chánh quả. Nhỡ chú buồn bỏ đi thì biết
cậy nhờ ai trà nước, thỉnh chuông.
Có mỗi câu
kinh học mãi cũng không thuộc, lại mắt nhắm mắt mở, nên tiếng chuông của chú cứ
cà gật, cà gật. Mặc dù ở bên sông nhưng nó không đủ sức ngân nga để làm sực
tỉnh một nhà thơ như chùa Hàn Sơn ở bên Tàu. Dù vậy có tiếng chuông vẫn hơn.
Chùa mà không có tiếng chuông sao gọi là chùa.
Nhưng đó
là những đêm về sáng, còn đầu hôm công phu chỉ mỗi mình sư cụ. Tuổi già sức
yếu, cụ chỉ tụng có mỗi một bài kinh. Hơi thở ngắn, tay lại run nên người ta
chỉ nghe thấy tiếng è è cùng tiếng mõ khành khạch như tiếng thở của một người
bị bệnh hen và tiếng nấc của một người mắc chứng nấc cụt nằm cạnh nhau trong
một đêm khó ngủ. Nhưng dẫu sao, đó cũng là những âm thanh dễ chịu giữa những
tiếng ầm ĩ vợ chửi chồng, cha mắng con, tiếng cãi cọ của đám bầu cua cá cọp,
tiếng hú hí cười cợt của đám đĩ rạc bị công an rượt đuổi ở thành phố đã trôi
dạt tới đây.
Nhiều
người ái ngại, lên tiếng chê trách. Ban hộ tự đâu, mà để chùa xơ xác như thời
mạt pháp vậy? Nhưng chỉ dăm bà già ốm yếu, nghễnh ngãng đến chùa nhiều khi quên
mất đường về nhà, thì đào đâu ra ban hộ tự! Người ta cũng chẳng mấy khi mời sư
cụ đến nhà tụng kinh cầu siêu gia đạo hay cầu hồn. Mà nếu có, cụ cũng chỉ uống
chén nước trà rồi về chứ không hề nhận một đồng công đức. Chùa như thế nghèo là
phải lắm.
Sư cụ, gầy
nhom như một con muỗi đói. Nói thế hơi hỗn, nhưng trông cụ gần như cái xác ve,
chẳng có một hột máu nào. Ấy là bởi cụ thường nằm ngủ gối đầu lên một cái trống
tum. Mà trống bị bể, cụ lại kiêng sát sinh nên bao nhiêu rệp của cả xóm đều kéo
tới. Đương nhiên chúng không phải đến để nghe kinh, mà để hút máu cụ cho đến
phễnh bụng ra rồi chui vào trống ngủ. Chúng càng béo tốt thì cụ lại càng gầy
ốm.
Một hôm
thằng bé nghịch lấy cây gõ lên mặt trống. Trống không kêu. Gõ nhiều lần cũng
chỉ nghe cành cạch. Nó bực mình ném xuống đất. Trống vỡ toang. Một đám rệp căng
tròn như đậu đen văng ra khắp chùa. Nếu đếm được, dám đến cả triệu con.
Dù phải
hốt hoảng trốn chạy, nhưng rồi đâu cũng vào đó, không còn trống thì chúng lại
chui vào kẹt ván, vào vạt giường, vào áo quần, ngay cả chiếc áo cà sa treo trên
vách. Chúng vẫn cứ nhởn nhơ ăn, ngủ, rồi sinh sôi nảy nở cái giống nòi mà không
hiểu thượng đế sinh ra làm gì khi đã có cái giống thượng đẳng là loài người.
Chùa nghèo
chẳng ai buồn biết tới. Sư cụ ốm cũng chẳng ai hay. Nhưng cái sự vụ mà tôi sắp
kể ra đây xứng đáng được coi như tiếng nổ giữa trời quang. Một tiếng nổ hất
tung mọi sự và đổi thay biết bao số phận.
Đó là một
buổi tối cuối tháng giêng khi cái máu ăn chơi của người mình, càng nghèo lại
càng chơi, vẫn còn hừng hực: những quán cóc vẫn không ngớt dô dô, mùi thịt
nướng (chẳng cần biết thịt gì, hễ cứ nướng là thơm) vẫn cứ bay ngào ngạt và các
ả bán thịt người đắt khách đến nỗi không cần phải ra chào mời tận ngoài đường.
Một buổi tối như thế trên quê hương tôi, khiến sư cụ nằm trên chiếc võng rách
lơ mơ muốn ngủ mà không ngủ được.
Đương
nhiên là vì rệp cắn. Mà cũng đương nhiên vì cái đạo hạnh của cụ chưa đủ đức độ
cảm hóa cái cõi ta bà nhỏ bé kia. Cửa chùa vẫn cứ rộng mở nên bao nhiêu âm
thanh và mùi vị cứ như nước lụt tràn vào. Chuông thì rè, mõ thì bể. Mà dẫu cho
không rè, không bể, dẫu có hàng chục cái chuông, mõ, kể cả trống, cũng không át
nổi cái cơn cuồng say của cả xóm. Chỉ có cây đũa thần mang phép nước, tục gọi
là cây gậy của công an, mới mong có thể dẹp yên được.
Thì đúng
là cầu được ước thấy, vì ngay lúc đó sư cụ nghe tiếng tu huýt, cùng tiếng chân
chạy rầm rập, tiếng hô bắt lấy nó, tiếng tru tréo không phải tui đâu,
tui đâu có làm đĩ, tiếng van xin nịnh nọt, thôi mà sếp, tha cho em lần
này…Và chỉ đúng một khắc, tất cả đã trở lại cái trật tự đìu hiu, cái buồn muôn
thủa của xóm nghèo. Lại nghe tiếng nước chảy rì rầm qua đập, tiếng giã bột bún
thình thịch, tiếng các bà vợ chì chiêt chồng con. Chỉ thiếu có tiếng chuông, vì
chú tiểu nhỏ mãi mê chạy theo coi đám con gái quần áo sáng ngời, bị công an
còng tay dẫn đi.
Đó là
nghe.
Còn thấy,
thì Giời Phật ơi, có cái gì trăng trắng lao vào chùa, như một cái gối ôm bị ai
quẳng vào chánh điện, nơi có đến hàng trăm tượng Phật sắp hàng ba trên bệ nhìn
xuống. Ừ, thì cứ cho là cái gối ôm đi, nhưng là một cái gối ôm có tay dường như
đã nhăm nhe từ trước, nên giống như một con cò mổ ruồi, nó phóng tới đúng chóc
chiếc áo cà sa đang treo trên vách; rồi loáng một cái, nó cuộn tròn vào mình,
nằm phủ phục trước bệ thờ như lúc sư cụ đảnh lễ.
Sư cụ ốm
nhom có cảm giác thân mình bỗng dưng nặng như đá. Chiếc võng cọt kẹt rít lên,
như sắp đứt phựt. Hả cái miệng không răng nhưng vẫn còn lưỡi, sư cụ muốn la to
lên mà la không được (người ta bảo lúc ấy sư cụ sợ quá thụt mất lưỡi). Chiếc áo
một năm chỉ có mấy lần giặt (sợ rách), dù cho âm ỉ mùi mồ hôi, mùi cáu ghét, có
cả mùi rệp vẫn là chiếc áo thanh khiết không hề chung chạ, chỉ mặc khi tụng
kinh gõ mõ, sao lại có thể khoát lên cái trăng trắng nhất định là không sạch
đó! Nếu quát lên được cụ đã quát: “cái con đàn bà dơ dáy kia, mi có trả cái áo
lại không thì bảo!” Nhưng nếu nó cởi ra trả, thì… cụ lại ú ớ như bị mộc đè, cái
trăng trắng kia mà phơi ra lồ lộ, không chừng hàng trăm tượng trên bệ sẽ nổ
bung hết cả hai con mắt!
Đang lưỡng
lự chưa biết tính sao thì ngoài cửa có một vị mặc đồ công an cầm roi điện ngoái
cổ nhìn vào, tưởng là sư cụ đang quì mọp, cất tiếng “mô Phật!” một cách diễu
cợt, rồi bỏ đi.
Đợi cho kẻ
săn đuổi đi khá xa, cái trăng trắng ngồi bật dậy lao ra khỏi chánh điện. Trước
khi lẫn mình vào bóng đêm đã không quên ném trả lại chiếc áo và nói: “con xin
thầy thông cảm!”
Phải một
lúc lâu sư cụ mới đứng lên được. Cái lưng đau sẵn cọng với chiếc áo trên mình ả
khiến cụ cảm thấy đau lịm cả người. Chiếc áo mà cụ giữ gìn cung kính là thế,
giờ đang nằm hớ hênh một nửa vắt lên bệ thờ một nửa thòng xuống đất. Chao ôi!
sao mà giống cái bộ da cáo của con hồ Nguyệt Cô quá! Đến nước này thì liệu có
dám khoát lên mình mà đứng trước Phật đài?! Nó đã phủ lên cái gì trăng trắng đó
rồi thì chính nó cũng đâu dám chường mặt ra trước cặp mắt của hàng trăm vị bồ
tát.
Cụ run rẩy
đặt mấy ngón tay lên lớp vải vàng ố vì đã quá cũ. Thường thì nó nhạt nhạt, lạnh
lạnh. Nhưng giờ, như nó vừa được hơ lửa, nóng đến bỏng tay. Áo nóng hay tay
mình nóng? Cụ ngơ ngác tự hỏi. Nó đã được cái gì trăng trắng cuộn tròn vào
mình, khít rịt từ đỉnh đầu cho đến gót chân, đã từng nghe máu chạy dưới da,
từng hít cái hơi son phấn nồng nàn, nó nóng là phải. Đó là cái mùi của tội lỗi.
Còn mình? Mình cũng có tội chứ không à? Sao không nhào tớí mà ngăn nó laị? Cùng
lắm thì cứ đè nó ra mà lột, đến tuổi này thì còn sợ gì cái trăng trắng đó nữa!
Nhưng như thế thì ác quá! Nó sẽ bị công an lôi đi đưa vào những trại giáo dưỡng
như nhà tù. Con nó ai nuôi, cha mẹ nó ai săn sóc?! Giá như hôm nay có đức Phật,
chắc ngài cũng để cho nó mượn áo mà thôi. Có phải vì thế mà chiếc áo trở nên ô
uế đâu. Khi hành đạo chính ngài đã nhặt nhạnh từng miếng vải vụn trên đường đi,
kết thành một tấm vảỉ lớn quấn quanh mình. Chẳng thịt da nào là có tội. Cũng
chẳng quần áo nào là đáng khinh. Không chừng chiếc áo vừa rồi đã làm nên ơn
phước vì cứu được một người. Như thế cũng là công đức.
Sư cụ bình
tĩnh nhặt lên, vuốt lại cho thẳng thóm, ướm thử lên ngực, ngần ngừ một lúc rồi
treo lại trên vách.
Ngay sau
đó, cái tin con điếm mượn áo cà sa để che cái ba vạn chín nghìn đã lan xa nhanh
hơn cả điện. Người từ trên phố ùn ùn kéo tới. Kẻ thì đòi xé xác con đĩ đó ra vì
làm ô uế cửa Phật, kẻ thì hí hửng muốn nhìn tận mặt con nhỏ chịu chơi dám đùa
dai với sư cụ. Người ta xông vào chùa tranh nhau: sờ, ngửi, hít rồi khạc, nhổ,
khiến chiếc áo được kết bằng trăm miếng vải vụn rớt rơi thành nhiều mảnh. Nhiều
kẻ đòi đem đốt hoặc thả trôi sông, nhưng cũng nhiều người đòi giữ lại. Có kẻ
muốn mua với giá lên đến bạc triệu.
Thôi thì
mạnh ai nấy nói, la hét, cười cợt, vung tay, múa chân cứ như phát rồ. Sư cụ
ngồi co ro trong góc, ngơ ngác, sợ hãi. Một người được xưng tụng là đại gia
bỗng chen vào, xốc áo sư cụ lên như xách một con nhái.
“Giữ chùa
mà thế này à? Tôi xin hỏi bà con: để làm trụ trì hay nên thôi?”
«Thôi!
Thôi! Người ta gào lên. Đuổi lão ra khỏi chùa, đồ sư hổ mang!»
Nhưng cũng
có kẻ bênh vực: «tại con đĩ đó chớ đâu phải tại thầy».
Kẻ khác
lại nói: «chung qui là tại công an. Bắt bớ loạn cả lên. Hết chiến dịch lại thả
ra chứ bài trừ được cái gì».
Có kẻ xỏ
lá: «biết đâu là cái cơ duyên, không chừng con đĩ đó sẽ cạo đầu đi tu. Cái áo
cà sa đó hãy để dành cho nó!»
Ngay lập
tức, người ta lập ra ban hộ tự. Trưởng ban là ngài đại gia nhà đất, phó ban là
một nữ doanh nhân kinh doanh vàng bạc. Hai mươi mốt vị, có người đang mặc áo
ngủ, có người đang mặc quần lửng, có người đang mặc áo không dây, có người đang
mặc quần xệ rốn đứng thành hai hàng mà ánh điện của nhà chùa yếu quá soi không
rõ mặt. Nhưng trông cũng bừng bừng khí thế như ủy ban cách mạng lâm thời vừa
được chọn sau một cuộc đảo chính. Các vị hứa sẽ mở cuộc lạc quyên để vận động
xây chùa.
« Chùa
phải ra chùa, đại gia trưởng ban nói, bước đầu tôi xin cúng dường một tỷ ».
Tiếng hoan
hô như sấm dậy.
Đúng như
lời hứa, chỉ trong vòng nửa năm thôi, trên nền đất của ngôi chùa cũ đã bị phá
hủy, lễ khai kinh mừng đặt viên đá đầu tiên được cử hành dưới sự chứng giám của
các vị đại sư mặc y vàng rực rỡ.
Và cũng
chỉ hai năm sau, ngôi chùa mới đồ sộ với những mái ngói cong như đuôi rồng, với
lầu chuông gác trống đứng uy nghi soi bóng xuống dòng sông.
Giữa chánh
điện là một tượng Phật thếp vàng cao đến 2 thước. Hào quang bằng điện tỏa ra
sáng ngời, vun vút lao đi như tên bắn. Hòa thượng trụ trì là một tiến sĩ Phật
học từng du học ở Tích Lan. Ngài lúc nào cũng tinh tươm, áo cà sa bằng lụa tơ
tằm vàng rực, hai tay chắp trước ngực như búp sen non, nhỏ nhẹ, dịu dàng giữa
đám đệ tử kỉnh Phật chuộng tăng, đa phần là nữ, lúc nào cũng lượn lờ những mong
được ngài sai bảo.
Sư cụ bị
tước y bát, cho hoàn tục. Các tượng Phật bằng gỗ cùng với chiếc áo trơ trẽn hơn
một lần khoác lên mình con đàn bà ô uế bị rưới dầu đem đốt trên bờ đập, lúc này
đã xây thành đập tràn kiên cố. Mùi gỗ mít, mùi vải mục, mùi con đĩ cộng với mùi
dầu tạo thành một thứ mùi, nặng đến nỗi những người đứng xem phải bịt mũi mà
vẫn cứ ho sặc sụa.
Cái xóm
nhà lá đầy bọn đĩ điếm, ma cô, xì ke, bài bạc bị hốt đem đi kinh tế mới. Khoảng
đất trống biến thành tiểu công viên với những cây dương trồng từng khóm cắt
thành những chiếc thuyền và những cái tháp nhỏ nhiều tầng.
Thôi thì
cũng đành một nhẽ, chùa đẹp như thế, tinh khiết như thế, nhất định là sẽ có
Phật vàng.
Đời tốt
biết bao!
Đạo đẹp
biết bao!
Nam mô A
Di Đà Phật!
Nam mô
chiếc áo cà sa!
Khuất Đẩu
304Đen – Llttm - sgtc
No comments:
Post a Comment