Saturday, April 5, 2025

Lối Xưa Em Còn Về - Nguyễn Đạm Luân

 Lối Xưa Em Còn Về





Nổi Buồn Tháng Tư & Gánh Hàng Rong - Nguyễn Cang

 NỖI BUỒN THÁNG TƯ

 















Ly hương mấy chục năm rồi

Nữa đời còn lại ngậm ngùi gió bay

Lặng nghe có tiếng thở dài

Đêm khua nỗi nhớ tình say héo mòn

Em về trang điểm môi son

Cho ta tìm thấy nụ hôn cuối đời

Lầu xưa hoàng hạc chơi vơi

Mây bay gió cuốn mù khơi chim trời

Dấu chân người đã xa  tôi

Chiều phai sắc tím đơn côi một mình

Tầm xuân vừa hé nụ xinh

Mất nhau tan tác sóng kình Tháng Tư

Chờ em trên bến đò trưa

Tàu mau tách bến hư hao cuộc tình

Dợi ai tôi đứng một mình

Trường giang sóng vỗ cuốn tình trôi xa !

Nguyễn Cang (10/4/2021)

 

GÁNH HÀNG RONG

 















Chồng đi tù vợ bán quà rong

Vất vả than ôi nợ chất chồng

Quảy gánh rao hàng khi nắng tắt

Múc chè mời khách lúc tàn đông

Nắng mưa sương gió đâu nào quản

Tối sáng đêm ngày chẳng lạc lòng

Năm tháng đi qua người vẫn đợi

Thương chồng, con dại, lấy gì đong ?

Nguyễn Cang ( Apr 4, 2022)

 

Hoài Niệm Một Thời - Nguyễn Cang

 HOÀI NIỆM MỘT THỜI

 















Hai mươi năm ta về thăm chốn cũ

Đồn Thông Lưu*, Cầu Xéo* giữa  ban trưa

Bao nhớ thương biết nói sao cho vừa

Đồng đội cũ chiến trường giờ xa vắng

 

Hồn dĩ vãng chập chờn  trong vạt nắng

Cuộc đổi đời cay đắng hận biệt ly

Vết thương đau còn đậm lúc phân kỳ

Nói sao hết nỗi lòng người viễn xứ

 

Mây xuống thấp khói đùn quanh căn cứ

Hậu Mỹ*, Kinh 28* chiến trường năm xưa

Đụng trận hai lần  Mỹ Thiện* rừng thưa

Tiếng đạn rít bay ngang đầu khiếp vía

 

Có những lần đi kích Cầu Bà Tồn*

Đóm hỏa châu le lói gọi cô hồn

Bên kia sông bìm bịp kêu nước lớn

Tay ghì báng súng sương xuống hoàng hôn

 

Gởi mộng về đâu thành phố Tây Đô

Rượu ngọt hồng đào say khướt nhắp nhô

Xin giã biệt những ngày xưa thân ái

Đêm tiền đồn mưa lạnh quấn poncho

 

Chiến tranh đi qua tròn nửa thế kỷ

Vết thương lòng nhức nhối vẫn chưa phai

Suối Nước Trong* chảy hoài trong nỗi nhớ

Chiến hữu giờ, đếm chưa trọn bàn tay!!!

 

Nguyễn Cang ( Apr. 1, 2025)

Chú thích:

Dấu sao *: chỉ một số địa danh thuộc quận Cái Bè- Cai Lậy trước 1975, thuộc tỉnh Định Tường.

 

Nó Một Thời Để Yêu Để Chết - Thuyên Huy

 

Nó Một Thời Để Yêu Để Chết

Bối cảnh, nhân vật câu chuyện viết bằng tưởng tượng, để tặng hai người một thời làm cô giáo thích truyện Quỳnh Dao

 

    Chuyến xe sớm đầu ngày thứ Bảy về tỉnh, vừa tới bìa ranh xã, cách chợ đâu chừng vài trăm trước thì bị trục trặc máy móc gì đó nên ngừng lại bên đường. Chú tài xế cũng như anh lơ xe, lăng xăng, tay lục lạo dụng cụ miệng tiếng một tiếng hai xin lỗi bà con. Khách lẳng lặng xuống xe, không ai nói gì, quẩn quanh ngó nhìn  con đường lộ đen màu hắc ín xa xa phía có nhà có người qua lại.




   Xuống xe, ai nấy túa vô bìa rừng tìm bóng mát, giờ này chưa trưa nhưng cũng đã lấp lửng, mặt trời lên khá cao, màn sương sớm mờ trên đường đã tàn dần, có chút hơi hâm hấp nóng. Quân sửa soạn xuống, nhìn lên trong xe, một bác gái chắc cũng trên dưới sáu mươi, phía hàng ghế trước khệ nệ kéo hai cái túi xách vải xem ra khá nặng, trên xe không còn ai, Quân nhanh chân đi lên, bác quay lại, hai người chào nhau, Quân kéo phụ xuống trước, bác chầm chậm theo sau.

   Hai người đứng bên nhau, bác kéo cái khăn choàng tím trên đầu lau chút mồ hôi lấm tấm trên mặt, cười với anh ta hai tiếng cám ơn, ngạc nhiên vì còn chờ xe đi tiếp, sao bác lại đem đồ xuống làm gì thì bác đã nói trước, nhà bác ở chợ xã này, bác định ráng đi bộ về cho xong, chờ biết chừng nào, cùng lúc đó khách xem ra sốt ruột, hỏi tới hỏi lui, chừng bao lâu nữa, anh lơ xe, nhuể nhại mồ hôi mồ kê, chắc một tiêng mấy nữa kèm theo lời xin lỗi, nói thêm chợ trên kia, cách đây không xa, bà con nếu muốn, đi bộ lên trên đó uống nước đở, xe xong sẽ lên đón, bà con lừng khừng đi ở. Vậy cũng hay, Quân quàng một túi lên vai, tay xách túi kia, hai người, một già một trẻ bỏ đi trước một khoảng không mấy xa, lục đục năm ba người, từng tốp lẻo đẻo theo sau.

*

    Tới trước cổng rào thấp căn nhà ngói, có trồng nhiều hoa Sứ trong sân, sát bên đường, ngay ngã ba chợ xã, đứng lại đó, bác cho biết, chuyến xe này bác thường đi, đúng giờ đúng giấc lắm, tài xế lơ xe không lạ gì, đây là nhà của bác, thường khi về tới thì xe đò ngừng ngay cửa, bác chỉ xuống xe rồi mấy đứa nhỏ mang vô thôi. Bà con chờ xe cũng vừa lên tới, tấp vào cái quán nước bên kia đường, ngó qua chợ xã, Quân nhìn theo cười, trong bụng cũng định qua đó kiếm cái gì uống, sẳn nghỉ chân chờ xe luôn, dù sao cũng trễ rồi, đáng lý là đã xuống xe ở trường quận lận nhưng đi luôn lên tỉnh thăm gia đình người chị bà con, dọn lên Bảo Lộc làm ăn nay mai.

    Bác gái chưa chịu đi vô, trong nhà cô con gái trạc mười bảy mười tám, vụt ra, Quân quay lại định chào bác rồi băng qua đường, cùng lúc cô gái tới,  cười tươi hai tiếng “dạ chào thầy” rồi nắm tay bác nhìn Quân, bấy giờ anh cũng không ngờ.

-Má ơi, thầy Quân dạy ở trường quận con học nè.

    Quân cười, ngờ ngợ, chợt nhớ ra cô này học lớp 12A, anh biết mặt khi cô ở trong nhóm làm bích báo Xuân mà Quân là người chịu trách nhiệm bài vờ:

-Ủa nhà em ở đây hả?

Bác gái đứng khựng, một lúc rồi bảo con:

-Đem đồ vô đi, cất xong rồi qua tiệm phụ chị bên đó.

Cô nàng “dạ” tiếng nhỏ.

Bác quay qua Quân:

-Mời thầy qua uống nước luôn, tiệm đó là tiệm của gia đình bác, đừng ngại gì hết.




    Quân dạ, cô nàng tay xách đồ, chưa chịu đi vô, hai mẹ con đứng nhìn Quân thong thả băng qua bên kia ngã ba đường, trời bắt đầu nắng gắt tự nãy giờ nhưng có gió mát từ hướng sông lùa về, cũng dịu đi đôi ba phần.

   Khách đi chung chuyến xe, lạ quen ngồi đông nghẹt trong quán, có người làm phụ nên bác gái ngồi hỏi chuyện nọ kia luôn miệng, không còn tiếng thầy như trước, giờ cứ một Quân hai Quân. Bác còn lịch sự lắm, đẹp hiền từ, dễ mến, Phúc, tên cô học trò lớp 12A khi đứng khi ngồi, tuy lăng xăng bưng nước cho khách nhưng cứ liếc mắt nhìn Quân rồi mĩm cười một mình. Cô chị đâu đó đằng chợ về, từ phía sau trong quán đi lên, Phúc kéo tay ra góc quán chỉ chỗ bàn Quân và má cô ta ngồi, che tay nói nhỏ gì đó, cô chị, giống hệt Phúc đi ra gật đầu chào, ngồi xuống làm quen.

   Chưa được bao lâu, xe đò lên tới, trời quá giữa trưa rồi, khoảng đường về tỉnh không còn xa mấy, khách đi hối hả ra đường, chiếc xe ngừng chờ ngay cửa nhà bác gái, anh lơ la lớn bảo lẹ lên. Quân đứng dậy chào từ giã, bác gái và hai chị em cùng theo nhau ra đứng bên lề, lặng thinh, trước khi Quân băng qua bên kia đường, bác gái nhắn:

-Hôm nào rãnh nhớ ghé lên bác chơi nghe.

   Xe từ từ chạy đi, ba người vẫn còn đứng đó nhìn theo xe khuất mất ở cuối dốc đường.

*

   Chiều thứ sáu, tan trường, hai thầy trò, nói thầy trò cho ra vẻ chứ Quân, ông thầy chẳng hơn cô học trò đệ nhất Phúc bao nhiêu năm, đi bên nhau nói cười cười nói, tới đầu ngã ba, đường xuống chợ quận, cách nhà trọ  không mấy xa, ngó qua bến xe lam, sát hàng rào chi khu, cũng đã có ba bốn cô áo dài trắng cùng trường chờ, nắng còn rực sáng, trời thiếu gió, cơn gió từ hướng bờ sông chiều như mọi khi không thấy tăm hơi, chào nhau từ giã, Quân hẹn ngày mai  thứ bảy sẽ lên nhà thăm.

    Quân cũng định sẽ đi, nhưng hơn hai tháng rồi, từ ngày chuyến xe đò hư máy, tới trường gặp Phúc thì, không biết bao nhiêu lần cô cứ nhắc má nhắn mời lên chơi, vã lại gặp mặt Phúc hoài cũng ngại quá. Quân đứng đó, nhìn chiếc xe lam chầm chậm rời bến trong nắng chiều ngấp nghé tàn, Phúc vẫy vẫy tay chào, đám học trò trên xe, không biết lớp nào cũng gọi lớn “thầy thầy”.

*

    Bác gái, thiệt tình ngồi kế bên Quân hỏi đủ thứ, lâu lâu hai chị em xen vào hai ba câu, hai ba câu trời trăng mây nước, cho biết bác trai đã mất vì một tai nạn xe cộ ở Biên Hòa sao đó cũng hơn mấy năm nay, với số vốn liếng còn có do hai vợ chồng dành dụm trong những năm bác trai hùn hạp nhà máy cưa ở trên tỉnh, bác mở tiệm nước này từ đó đến giờ, tuy là chợ xã nhưng quán lúc nào cũng đông người, xe đò ngược xuôi cũng thường ghé tấp vào cà phê cà pháo chờ khách. Nhà có hai chị em, cô chị, Hạnh, tốt nghiệp Sư phạm Sài Gòn, hiện là cô giáo lớp ba tại trường tiểu học xã, nằm xế bên văn phòng xã không xa, từ bên nhà ngó qua thấy rõ, Phúc thì đang học lớp đệ Nhất  ờ trường Quân đang dạy.

    Bác hỏi thăm ba má mạnh khỏe, nhà ở tận Long An, ba má Quân có cái vườn xoài cát không lớn nhưng thu hoạch tương đối khả quan hàng năm, anh là con một, học đại học Sư Phạm, ra trường, đổi về quận hơn năm nay.

*

    Chuyện loanh quanh vậy thôi, tiếng “thầy” thay bằng tiếng “anh” từ lúc nào không biết, bác gái qua bên tiệm, Quân theo hai chị em đi lòng vòng đường trên ngỏ dưới, đúng như thơ của ai đó, ở đây cũng “đi dăm phút đã về chốn cũ”. Chợ còn nhóm, bạn hàng quen tụm hai tụm ba chào, có người trong nhà lồng chợ hỏi vọng to “ai đó ai đó?” rồi cười ngặt nghẽo, hai chị em lắc đầu cười trừ đáp.  Ở lại ăn cơm trưa, bữa cơm vui trọn vẹn. Cũng như lần từ giã hôm chuyến xe đò hư máy đó, ba mẹ con cũng đứng trước tiệm, chờ Quân lên xe về quận, xe khuất mất cuối đường, không biết họ còn đứng đó bao lâu. Trời rực nắng giữa trưa, chợ xã giờ vắng hoe, lặng im, tiệm nước cũng thưa người. Vài ba con chim lẻ bạn thơ thẩn kêu trên cái sân xi măng trước chợ, đuổi theo bóng nắng.

*

    Như quy luật sắp đặt thiên thu của trời đất, họ, Quân, hai chị em Hạnh, Phúc càng ngày càng gần gũi nhau hơn, Hạnh và Quân chợt biết mình đã thương và thương lúc nào không biết, bác gái xem ra hài lòng, bác hy vọng một ngày dù chưa biết chắc là ngày nào, gia đình sẽ có tin vui. Bà con bạn hàng quanh chợ xã, hình như cũng mừng khi thấy hai người bên nhau. Phúc cũng mừng cho chị nhưng có cái gì lạ, mừng không được trọn vẹn, ở trường, giờ chơi, người ta để ý thấy Phúc thường trộm nhìn Quân, cái trộm nhìn triều mến khó nói. Ngày thứ bảy, chị chờ Quân bao lâu thì Phúc không khác gì chị mình, cũng trông cũng ngóng, dù ngày đi học nào cũng gặp, chiều tan trường vẫn đi bên Quân. Đôi khi bất chợt giựt mình, Quân tự thầm hai tiếng “chẳng lẽ” thấy Phúc có chút ganh tỵ thoáng qua với Hạnh khi Hạnh tỏ vẻ âu yếm với anh ta.

    Không những vậy, trong trường Quân cũng nhận ra Phúc đã có nhiều lần cau mài khó chịu khi thấy Thảo Nguyên, cô giáo sư trẻ, khá đẹp, dạy Sử Địa lớp đệ Lục thường đi chung với nhau từ những ngày đầu Quân mới về dạy, thân mật cười nói với anh trong sân, trước phòng nghỉ của cô thầy hay ngoài cổng chiều tan trường, khi Phúc đứng chờ Quân về cùng đường.

*

   Lấp lửng trưa, trời không nắng, mây  xám xuống thấp, không mưa, phủ màu tối nhạt trên cái nghĩa địa nhỏ ở xa cuối đường mòn ngoài bìa ranh phố tỉnh. Người đưa đám tang, phụ chôn cất tản ra, thưa dần rồi mất hút từ lâu, nghĩa địa lắng im.

*

   Đâu đó những cánh phượng hồng rộ nở rực một  màu trên đường phố quận,  trong sân trường, vào Hạ, mùa hè học trò, bải trường Quân về Long An vài ngày rồi lên Bảo Lộc thăm người chị bà con bị bệnh nặng được nhà thương cho về sau hai tuần lễ, hôm trên đường về lại Sài Gòn, trời bữa đó giông to mưa lớn, đường mới sáng đó mà đã tối om u ám, chiếc xe đò lỡ Đà Lạt Sài Gòn chạy chậm hơn mọi khi, tới cái đèo nhỏ cua quanh khá gắt mưa vẫn trút nặng hột, tạt xối xả vào kiếng trước, chiếc xe hàng từ Sài Gòn ra, không biết chạy như thế nào, trợt bánh, hai xe không kịp tránh nhau, tông vào, cả hai cùng ngã lăn, xuống triền đèo, mưa cứ lạnh lùng mưa, người dân xóm dưới bên đường, đổ xô lên cứu, nhiều người bị thương nặng và hơn sáu bảy người chết, trong đó có Quân.

*

    Ở một góc dưới bóng cây già tàng cao rậm lá, ba người đứng xa xa nhìn lại nấm mồ vừa đấp xong, nặc mùi đất mới còn nghe thoang thoảng, hai bà và một ông, tuổi chừng trên dưới sáu mươi, không ai nói một lời, cứ đưa mắt nhìn, im lặng như cái lặng im của nghĩa địa, tay đưa lên mặt, lắc đầu, họ khóc.

    Bên nấm mồ, ba người con gái, một người đã yêu và đã được yêu, hai người còn lại đã yêu nhưng chưa được cho yêu, ngồi gục đầu lâm râm, rấm rứt khóc, gọi tên người nằm dưới huyệt sâu, mộ chưa có mộ bia, bó hoa Huệ trắng mua từ sáng sớm đã héo, rủ cánh mờ mờ nhang khói chập chờn.

    *

   Đám mây xám xuống thấp xuống thấp hơn, trời âm u, gió lùa về lành lạnh, ba người con gái nhìn nhau, cúi xuống hôn nấm mồ, lần nữa ràng rụa khóc trong màn mưa đục màu bất chợt lạnh lùng đổ.

 

Thuyên Huy

Lưng chừng đầu thu viễn xứ 2025

 

   

   

  

Lại Nhớ Tháng Tư - Nguyễn Thị Châu

 LẠI NHỚ THÁNG TƯ

 














Tháng tư pháo nổ đầy trời

Bước chân xuôi ngược bi ai khắp miền

Đi tìm một chút bình yên

Đi đâu cũng thấy khói bay một vùng

Xác người nằm đó rất đông

Không nhan không khói ngoài đồng xót thương

Sài Gòn máu chảy thành dòng

Xót xa cho những anh hùng Miền Nam

Vì đâu nước mất nhà tan?

Mắt ai nhỏ xuống giọt sầu đau thương

Trưa Sài Gòn bao vấn vương

Kẻ đi người ở xót thương vô cùng

Hành trang bỏ lại bên đường

Xoá tan vết nứt trong lòng người đi

Bây giờ còn lại những gì?

Đau thương hối tiếc, thị phi của đời

Những người thua cuộc một thời

Cũng oanh,cũng liệt,một đời vinh quang

Chúng ta máu đỏ da vàng

Phải thương nhau với,một giàn bí ơi!!!!

 

      2-4-2025

 Nguyễn thị Châu

 

Về Ảnh Hưởng Của Văn Hóa VNCH (Tên Khác Là Văn Hóa Miền Nam Sau 1975) - Hoàng Hưng

 VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA VNCH (TÊN KHÁC LÀ VĂN HÓA MIỀN NAM) SAU 1975 


 


Nhà thơ, nhà báo, dịch giả Hoàng Hưng, từ Hà Nội vào sinh sống và làm việc ở Sài Gòn từ 1977.


Nhìn một cách bao quát, Lối sống Miền Nam là LỐI SỐNG TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI dưới một chế độ tôn trọng tự do cá nhân theo ảnh hưởng phương Tây (Pháp rồi Mỹ). Nó khá bất lợi trong việc tham chiến (thực sự là có góp phần không nhỏ trong việc miền Nam “thua cuộc”), nhưng lại có sức hấp dẫn tất yếu sau hoà bình đối với những người từng bị sống trong “trại lính khổng lồ”.

***

Tóm lại, nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN”. “Giải thiêng”, “hoàn tục” hay “phá giới” tuỳ cách gọi, điều quan trọng là trở lại với CON NGƯỜI THẬT, CON NGƯỜI TỰ NHIÊN; CUỘC SỐNG THẬT, CUỘC SỐNG TỰ NHIÊN, với tất cả những mặt mạnh và yếu.

Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường TỰ DO, NHÂN BẢN, HỘI NHẬP QUỐC TẾ.

***

Trường hợp của tôi có lẽ hơi cá biệt so với số đông đồng nghiệp ở miền Bắc trước 1975: Sinh trưởng trong một gia tộc thuộc “tầng lớp trên” thời Pháp thuộc; năm 1954 hầu hết họ hàng của tôi di cư vào Nam, chỉ riêng gia đình tôi ở lại miền Bắc vì bố tôi là một bác sĩ “chuyên môn thuần tuý” quá tin vào “hiệp thương tổng tuyển cử sau 2 năm” và chưa thấy được bản chất “Cộng sản” của Việt Minh; tuy nhiên bản thân tôi ham đọc sách tiếng Pháp từ nhỏ, được học tiểu học trong nhà trường “quốc gia” và Pháp, cấp 2 (Middle School) theo chương trình chuyển tiếp “quốc gia” sang “dân chủ nhân dân”, đến cấp 3 (High School) mới bắt đầu “nhà trường xã hội chủ nghĩa”; thêm nữa, từ 1954 đến 1975 tôi vẫn chịu khó đọc sách tiếng Pháp trong tủ sách gia đình và kho sách trong Thư viện Quốc gia được Sứ quán Pháp cung cấp. Có lẽ vì thế, khi vào Sài Gòn khá sớm sau 30/4/1975 để tìm mẹ và họ hàng, tôi thấy như được trở về đời sống tự nhiên của tuổi thơ mình vốn đã bị chế độ chính trị miền Bắc và tình trạng chiến tranh làm cho… quên mất!

Phải nói dài dòng thế, vì có thể nhận xét của tôi về đời sống và văn hoá miền Nam có phần chủ quan, cá biệt.

1. Về lối sống của người Miền Nam trước 1975 và ảnh hưởng của nó sau 1975

Xã hội miền Nam mà tôi thâm nhập trước hết là xã hội của bà con họ hàng thân tộc ở Sài Gòn. Họ vẫn giữ khá đầy đủ những đặc điểm (cả hay lẫn dở) của tầng lớp trung lưu Hà Nội trước 1954. Tất nhiên là nó đối nghịch với xã hội miền Bắc mà tôi sống trong 20 năm “cải tạo xã hội chủ nghĩa” và chiến tranh, ở đó chính quyền toàn trị biến xã hội thành một trại lính khổng lồ, tất cả cho cuộc chiến, mọi người chia sẻ với nhau cảnh nghèo nàn đơn điệu; ở đó sự “nông thôn hoá” Hà Nội khiến cho lối sinh hoạt bình dân, suồng sã đánh bạt lối sống đài các, thanh lịch của chốn ngàn năm văn vật…

Nhìn một cách bao quát, lối sống Miền Nam là LỐI SỐNG TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI dưới một chế độ tôn trọng tự do cá nhân theo ảnh hưởng phương Tây (Pháp rồi Mỹ). Nó khá bất lợi trong việc tham chiến (thực sự là có góp phần không nhỏ trong việc miền Nam “thua cuộc”), nhưng lại có sức hấp dẫn tất yếu sau hoà bình đối với những người từng bị sống trong “trại lính khổng lồ”. Với người miền Bắc, lối sống ấy còn thêm hấp dẫn bởi nét hồn nhiên phóng khoáng vô tư của cư dân đồng bằng Nam Bộ cộng thêm tâm thế tự do bình đẳng của người công dân một xứ Nam Kỳ được hưởng chế độ trực trị lâu năm của Pháp. Chưa kể sự “phồn vinh giả tạo” mà viện trợ Mỹ đem đến cho Sài Gòn đã làm cho sức hấp dẫn tăng thêm bội phần; chỉ cần nhớ lại cảm giác đầu tiên khi đặt chân xuống đường Đinh Tiên Hoàng từ chuyến xe đò đường dài, tôi tưởng mình đang từ Việt Nam sang đến Paris!

Lối sống Miền Nam càng được tiếc nuối sau khi con đường “xã hội chủ nghĩa” đưa kinh tế Việt Nam đến bờ vực, “con người xã hội chủ nghĩa” chưa thấy đâu đã phải được “cởi trói” để lao vào “tự cứu” bằng mọi cách, khiến cho chủ nghĩa cá nhân bị đè nén lâu nay bung ra một cách cực đoan theo luật con lắc! Thậm chí một số điểm tích cực mà những người sống có lý tưởng thực sự trong xã hội miền Bắc có được như tinh thần sống giản dị, cống hiến, tập thể, đồng cam cộng khổ… cũng nhanh chóng phai nhạt thậm chí biến mất ở số đông bọn họ! Nhưng điều đó không thể coi là do “ảnh hưởng tiêu cực” của lối sống “cá nhân chủ nghĩa”, “hưởng thụ” của miền Nam như “Tuyên giáo” gán ghép, mà chỉ đơn giản là phản ứng dễ hiểu mang tính “nổi loạn” của con người miền Bắc khi thấy “những ảo mộng tiêu tan” (Illusions perdues) trước mắt mình! Ngược lại, cũng không thể phủ nhận một số ảnh hưởng tiêu cực từ những tệ nạn của một xã hội thời chiến, dưới chế độ dân chủ chưa toàn vẹn, với sự lũng đoạn của “đảng Kaki” và sự hiện diện của hàng chục vạn quân viễn chinh (đĩ điếm, ma tuý, băng đảng, ăn cắp của công và tham nhũng) sau khi trật tự áp đặt của chế độ toàn trị bung vỡ!

Có lẽ hai ưu điểm nổi bật của lối sống Miền Nam đã thâm nhập mạnh, sâu, rộng vào miền Bắc sau 1975 là:

-- Tinh thần tự lập, tự vận động, tự định đoạt cuộc sống của cá nhân đã ngày càng chiến thắng thói quen “gà công nghiệp”, thụ động trông chờ “nhà nước, đoàn thể” mà chế độ tập trung bao cấp đã tạo ra trong thời gian dài. Nhất là sau khi nhà nước kiệt quệ, phải thả lỏng cho người dân “tự cứu”. Điều này có tính quyết định cho xã hội dần dần tự do hoá, thoát khỏi sự khống chế, ràng buộc của nhà nước toàn trị. Độc lập về kinh tế thì mới độc lập về tư tưởng.

-- Đời sống tâm linh, chủ yếu là niềm tin và thực hành Phật giáo. Phật giáo bị hạn chế và kiểm soát gắt gao ở miền Bắc đã hồi sinh sau 1975 nhờ được tiếp sức và truyền đạo từ miền Nam. Mặc dù tín ngưỡng bị nhà nước và bọn buôn thần bán thánh lợi dụng tối đa làm cho méo mó tha hoá khủng khiếp, Phật giáo chân chính trong cả nước vẫn phát triển khá mạnh nhờ ảnh hưởng tốt đẹp của truyền thống Phật giáo miền Nam.

2. Đời sống văn hoá văn nghệ miền Nam và ảnh hưởng của nó sau 1975: nên được nhìn nhận trên cái nền tảng xã hội, lối sống như nói trên.

Tôi muốn nói lên những ấn tượng sâu sắc nhất của bản thân trước khi nhận xét về đời sống chung mà mình quan sát.

Đầu tiên là âm nhạc

Hiện tượng Trịnh Công Sơn. Không thể quên cái buổi tối tháng 5/1975, nhóm bạn văn nghệ Hà Nội chúng tôi ngồi nghe băng “cối” ở nhà một người quen là sĩ quan công an được vào Sài Gòn ngay sau 30/4 đem ra. Có thể nói là một buổi xuất thần ít có trong đời! Mọi người chìm đắm vào không gian âm thanh ma mị, lôi hồn mình thoát khỏi thực tại, đi đến một thế giới hư hư thực thực không rõ là đâu nhưng hình như đó là sự giải thoát! Nói thêm là 7 năm sau đó, trong trại tạm giam của Bộ Công an ở ngoại thành Hà Nội, trưa nào tôi cũng ngóng nghe những âm thanh ấy phát ra từ phòng Giám thị trại! Nghĩa là nó chiếm lĩnh tâm hồn của số rất đông trong “Bên thắng cuộc”. Ca khúc Trịnh Công Sơn theo tôi là sản phẩm văn hoá độc đáo nhất của miền Nam, nó kết tinh cõi sâu lắng của tâm hồn người Việt trong một hoàn cảnh bi thương nhất của lịch sử, chưa từng có trong âm nhạc Việt Nam cho đến tận bây giờ.

Nhu cầu ca hát, một trong những nhu cầu tự nhiên nhất của con người, sau nhiều năm bị “nhạc đỏ” độc quyền thống trị, đã bùng lên với “nhạc vàng” khắp phố phường ngõ xóm (trước sự ngơ ngác đáng thương của những người tù trong vụ án “nhạc vàng” ở Hà Nội khi trở về!). Đến mức bây giờ, nhạc “bolero” một thời vốn không được đánh giá cao lắm bởi giới có học ở Sài Gòn, nay đang “tràn ngập lãnh thổ”, chiếm lĩnh không gian âm nhạc cả chính thống lẫn tự phát! (Tuy nhiên không ít người vẫn cho rằng thứ âm nhạc uỷ mịmà bolero là chủ đạo góp sức không nhỏ làm nản chí chiến đấu của người lính miền Nam, giống như điệu hậu đình hoa xưa!!!).

Có một chi tiết thú vị về âm nhạc miền Nam: phong cách hát của ca sĩ. Các ca sĩ miền Bắc nhìn chung được học bài bản hơn, nhưng sau khi nghe ca sĩ miền Nam, số đông người nghe bỗng nhận ra cái gì đó không thú lắm ở lối hát miền Bắc. Thì ra kỹ thuật thanh nhạc không thay thế được tình cảm tự nhiên, càng không lại được cái hồn gửi vào tiếng hát, và bel canto của opera không thể cuốn hút bằng cái sự tròn vành rõ chữ tiếng Việt!

Nói cho công bằng, việc tàn lụi của đời sống âm nhạc cổ điển thính phòng miền Bắc trước 1975 cũng đáng tiếc (do chiến tranh với không quân Mỹ ở miền Bắc từ 1965 và không còn được “bao cấp” đủ sau 1975); mãi gần đây nó mới bắt đầu hồi phục nhờ sự lớn lên của tầng lớp trung lưu sau 30 năm phát triển kinh tế mang tính thị trường.

Hội hoạ.

Điều thú vị là trong giới văn nghệ sĩ Sài Gòn, tôi giao du nhiều nhất với các hoạ sĩ! Từ Nguyên Khai ở ngay gần nhà, đến Thái Tuấn, Nghiêu Đề, Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, Phạm Văn Hạng, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Trung… và tìm hiểu khá kỹ hội hoạ miền Nam trước 1975, đặc biệt là tác phẩm của các thành viên Hội hoạ sĩ Trẻ. Đến thập niên 1990, khi làm báo Lao Động, tôi đã có cơ hội viết bài giới thiệu về họ cũng như mời một số hoạ sĩ cộng tác với báo.

Có lẽ vì hội hoạ là “siêu ngôn ngữ” ít động chạm trực tiếp chuyện chính trị, nên các hoạ sĩ Sài Gòn có phần dễ được tiếp nhận vào đời sống văn nghệ sau 1975. Họ đã đóng góp rất nhiều cho đời sống nghệ thuật phong phú ở TPHCM, Huế, và tác động đáng kể đến việc hiện đại hoá phương pháp nghệ thuật của các hoạ sĩ miền Bắc cũ, như siêu thực, trừu tượng, cực thực…

Sách báo

Khi vào Sài Gòn tháng 7 năm 1975, cái hấp dẫn chủ yếu với tôi là… núi sách ở chợ sách đường Đặng Thị Nhu và các tủ sách gia đình. Tôi hối hả mua, mượn về đọc, rồi chở ra Hà Nội! Vốn khao khát những kiến thức mới về khoa học xã hội nhân văn và văn học thế giới mà những nguồn sách tiếng Pháp ở Hà Nội rất hạn chế, tôi mê mệt với đống sách biên khảo của Lê Thanh Hoàng Dân, Nguyễn Hiến Lê… sách của NXB Lá Bối, các truyện dịch của nhiều tác giả khác nhau, từ Dostoivevski đến Kazanzaki, Remarque, Herman Hesse… các tạp chí văn chương và nghiên cứu như Sáng Tạo, Văn, Bách Khoa…

Ảnh hưởng sâu đậm nhất đến nhận thức và sáng tác của tôi có lẽ là: Thiền luận của Suzuki và các sách Phật giáo, tiểu thuyết của Henry Miller, William Faulkner. Đặc biệt tư tưởng Phật giáo là phát hiện quan trọng nhất đối với tôi sau mấy mươi năm sống trong xã hội bị “vô thần hoá” thành duy vật tầm thường!

Sau “Đổi mới”, ngày càng nhiều sách biên khảo và dịch thuật của miền Nam được tái bản, cung cấp cho công chúng một thị trường kiến thức và giải trí phong phú chưa từng có; có những tác phẩm “hot” không kém ca khúc “bolero”, như tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung của dịch giả Hàn Giang Nhạn… tuy cũng bị trách là dịch phóng, không trung thành với nguyên tác; cũng như việc dịch và xuất bản nhanh để đáp ứng thị trường ở Miền Nam có phần hại cho chất lượng bản dịch!

Phật giáo đang phục hồi trên khắp nước, lôi cuốn không ít người trẻ, có phần tác động quan trọng của những sách Phật học của miền Nam, trong đó nổi bật là các tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Do báo chí là hoạt động mà đảng Cộng sản phải nắm rất chặt làm công cụ tuyên truyền dẫn dắt công luận nên ảnh hưởng của báo chí miền Nam (một nền báo chí đúng nghĩa) đối với báo chí sau 1975 thì chủ yếu ở mặt nghiệp vụ làm báo. Báo Tin Sáng của những người ủng hộ “Mặt trận Giải phóng” là tờ báo kiểu Sài Gòn trong chế độ mới rất được ưa chuộng. Sau “Đổi mới”, nhờ có sự nới lỏng, một số tờ báo ở thành phố HCM đã mạnh dạn sử dụng những nhà báo kỳ cựu của miền Nam, tạo nên sự khởi sắc của báo chí với khuynh hướng tiếp cận sự thật, điều tra độc lập, thông tin nhanh chóng, và các thủ pháp làm báo thị trường mà người Sài Gòn có truyền thống lâu đời được giới báo chí “bao cấp” học theo. Ảnh hưởng của lối làm báo ấy có thể thấy rất rõ đối với các tờ báo ở TP HCM (rõ nhất ở các báo Tuổi Trẻ, Lao động Chủ nhật…) và ngày càng rõ với các tờ báo ở Hà Nội.

Sách báo miền Nam còn có tác động khá mạnh đến ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ viết miền Bắc. Không ít từ ngữ miền Nam đã nghiễm nhiên trở thành phổ biến toàn quốc, việc viết tên riêng bằng ký tự Anh ngữ đã thách thức và đang lấn lướt lối phiên âm Việt hoá lạc hậu và bất cập của miền Bắc.

Giáo dục

Vốn là người làm việc lâu năm trong ngành giáo dục miền Bắc, khi vào các trường học miền Nam, tôi bị ấn tượng mạnh bởi sự nghiêm túc kỷ cương của lớp học và và sự lễ phép của học sinh. “Thầy ra thầy, trò ra trò”. Còn nhớ, nhà văn-thầy giáo Nhật Tiến một hôm rất “bức xúc” kể với tôi: Hôm qua anh đến trường, thấy trên bảng thông báo giữa sân trường có dòng chữ lớn: “Hôm nay mỗi thầy cô giáo 1kg thịt lợn!” Anh coi đó là sự xúc phạm không thể chấp nhận. Có lẽ đó là một “giọt nước tràn ly” khiến anh quyết định vượt biên!

Giáo dục là lĩnh vực mà đảng Cộng sản nắm còn chặt hơn báo chí để thi hành chính sách biến con người thành công cụ. Có lẽ vì thế thực tình tôi chưa thấy được nhiều ảnh hưởng cụ thể của giáo dục miền Nam đối với giáo dục sau 1975, đặc biệt là nền giáo dục đại học theo đường lối “tự do học thuật, tự trị đại học”. Tuy nhiên nội dung giáo dục ngày càng bớt chính trị hoá, tính nhân văn được tăng cường, chắc chắn cũng có ảnh hưởng từ giáo dục miền Nam với triết lý DÂN TỘC, NHÂN BẢN, KHAI PHÓNG của nó. Một chi tiết đáng yêu: ở nhiều trường tiểu học miền Bắc hiện nay, thầy cô giáo với học trò xưng hô “thầy/cô – con” giống như miền Nam.

Trong lĩnh vực này, có một ngộ nhận, bộc lộ rõ trong cuộc tranh cãi ồn ào mới đây quanh việc “cải cách giáo dục”, “công nghệ giáo dục”: Có những ý kiến cho rằng chẳng cần “cải tiến” gì hết, cứ trở lại theo chương trình và phương pháp của nhà trường miền Nam cũ là xong! Những người nói như thế, có thể chỉ để phản ứng lại nền giáo dục đậm tính chính trị mà nhà nước toàn trị áp đặt cho lớp trẻ lâu nay, nhưng cũng cho thấy họ chưa để tâm đến những chuyển biến rất căn bản trong đường lối giáo dục của thế giới nửa thế kỷ gần đây, mà giáo dục Việt Nam hôm nay buộc phải cập nhật để thoát khỏi sự khủng hoảng không còn đất lùi.

3. Nói riêng về văn học

Bản thân tôi đã thích thơ Thanh Tâm Tuyền và Nhã Ca ngay khi có cơ hội đọc từ trước 1975 (mà những bạn bè làm ở bộ phận “Đô thị miền Nam” của Đài Tiếng nói Việt Nam cho mượn). Các nhà văn nhà thơ như Nhật Tiến, Hà Thúc Sinh là những người bạn thân gần với tôi trong đời sống ở Sài Gòn trước khi các anh vượt biên. Tôi khám phá dần dần kho tàng văn học miền Nam, đặc biệt chú ý đến những cách tân trong thơ Tô Thuỳ Yên, truyện Dương Nghiễm Mậu, đến sự thực trần trụi của những truyện và ký sự chiến tranh như của Phan Nhật Nam, Thế Uyên… Gần đây, tôi lại rất thích truyện Võ Phiến. Tôi vẫn tiếp tục khám phá và thưởng thức sự phong phú, đa dạng của văn học miền Nam trong quá trình sưu tầm cho mục “Văn học miền Nam 1954-1975” của diễn đàn Văn Việt mấy năm gần đây (đã lên tới khoảng 650 kỳ).

Nếu văn học miền Bắc trước 1975 nói đại quát là nền văn học tuyên truyền nhằm phục vụ chiến tranh, “văn học phải đạo”, văn chương “đồng phục”, bị kiểm soát chặt chẽ, bị cô lập với thế giới (không kể vài biệt lệ vượt lên được nhờ tài năng và sự uyển chuyển; và số ít tác phẩm “chui” của các thành viên Nhân văn-Giai phẩm và “nhóm Xét lại”) thì văn học miền Nam trước 1975 là một nền văn học của đời sống tự nhiên, của con người tự nhiên, chân thực và hết sức đa dạng, đang phát triển mạnh mẽ trong một xã hội tự do và gắn bó với thế giới văn minh. Yếu tố ảnh hưởng phương Tây rất quyết định cho sự phát triển trong 20 năm này, có thể so sánh với giai đoạn hoàng kim của văn học hiện đại Việt Nam 1930-1945. Thật vô cùng đáng tiếc là dòng chảy đang cuồn cuộn ấy đã bị chặn đứng vì biến cố 30/4/1975, khiến cho văn học đương đại Việt Nam bị khựng lại rất lâu, mãi cho đến nay chưa phục hồi được cái đà phát triển.

Sự tiếp xúc với Văn học Miền Nam trước 1975 đã tạo bước ngoặt quyết định về khuynh hướng tư tưởng cho không ít tác giả của nền văn học “chính thống” miền Bắc. Tinh thần tự do, nhân bản và cách tân của nó đã dần dần “tẩy rửa” thói quen “tự kiểm duyệt” và “phục vụ chính trị”, giáo điều “hiện thực xã hội chủ nghĩa”… vốn ngấm sâu vào tâm trí của thế hệ cầm bút “chống Pháp chống Mỹ”. Chắc chắn nó đã khởi hứng cho những ý tưởng thay đổi mạnh mẽ của vài nhà lãnh đạo văn nghệ cuối thập niên 1970 như Trần Độ, Nguyên Ngọc… và của nhiều cây bút thành công từ sau khi có chính sách “Đổi mới” cuối thập niên 1980. Hầu hết những cây bút trẻ hiện nay ở Việt Nam đang đi theo tinh thần ấy.

4. Tóm lại: Nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN”. “Giải thiêng”, “hoàn tục” hay “phá giới” tuỳ cách gọi, điều quan trọng là trở lại với CON NGƯỜI THẬT, CON NGƯỜI TỰ NHIÊN; CUỘC SỐNG THẬT, CUỘC SỐNG TỰ NHIÊN, với tất cả những mặt mạnh và yếu.

Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường TỰ DO, NHÂN BẢN, HỘI NHẬP QUỐC TẾ.

Hoàng Hưng
Nhà thơ, nhà báo, dịch giả Hoàng Hưng, từ Hà Nội vào sinh sống và làm việc ở Sài Gòn từ 1977.

 

Nguồn: Diễn đàn Thế Kỷ
Mar 26.2025

Người chuyển bài – HV - USA