Sunday, July 30, 2017

Ở Một Chốn Nào Đó - Thuyên Huy


Ở Một Chốn Nào Đó
Mượn một chút tình tiết thật, phần còn lại, bối cảnh, nhân vật của chuyện được viết bằng tưởng tượng, để tặng đám bạn cùng lớp cùng khóa ở trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn của những năm 69 -70
    Ba mất sớm, từ ngày Hiệp tròn ba tuổi, không biết mất bao giờ và hình dáng ông ra sao, mẹ chưa có lần nào nói, từ Cai Lậy, mẹ tay dắt con, tay xách giỏ bàng, đựng mấy bộ quần áo cũ, bạc không bạc đen không đen, đem Hiệp về lại cù lao Đông với ngoại, nơi mà từ đó mẹ bỏ lại ngoại một mình, theo ba lam lũ, nổi trôi với đời làm thuê vác mướn. Xóm cù lao Đông, nằm cách bờ bên kia phố chợ làng Trà Cao, cái cầu ván, chỗ lành chỗ nứt, bắt ngang qua nhánh rạch nhỏ, xuôi theo vàm nối ra sông Vàm Cỏ Đông, cái ấp có chừng hai ba mươi căn nhà vách đất mái tranh, mái lá, lụp sụp, nằm lưa thưa, gần gần xa xa, dọc theo con đường đất, lồi lõm, lớn đủ chiếc xe bò đi qua, xen kẻ giữa đám cây ổi hoang hiếm khi thấy trái và những bụi chuối hột, cao cao lá vàng lá úa, chạy một đường quanh ấp, cửa trước cửa sau, chắn hờ bằng mấy tấm liếp tranh, cái đong đưa cái lủng lẳng, chẳng cần biết mùa mưa nước lên hay nắng khô đồng hạn. Người trong ấp, đôi khi mười họa, cần mua gì đó thì qua chợ làng, nếu khá hơn từ làng, đón chuyến xe đò lỡ chạy đường Bến Cầu Gò Dầu ra chợ quận ngang qua Gò Dầu Thượng.
 
 
    Ngoại vốn đã nghèo, mẹ Hiệp bỏ ngoại đi, ngoại ở lại cứ nghèo, rồi mẹ về ngoại cũng vẫn nghèo như từ thuở đó, may mà ngoại còn có được miếng đất nhỏ, chéo góc đường bờ rạch và cái nhà lụp sụp, mái tranh xen kẻ lá dừa, nên còn có chỗ che nắng trốn mưa. Trong nhà hai cái bàn cây, mấy cái ghế đẩu, chân cao chân thấp, hai cái giường tre, một cho ngoại một cho mẹ con Hiệp, năm sáu cái thúng, bốn năm cái thùng nhựa đựng áo quần cùng mấy thứ lặt vặt, ở chái bếp có thêm cái kệ cao bằng mấy cây trúc khô cột dọc cột ngang và mấy cái nồi đất, cái chão thiếc đen thui. Mẹ về với ngoại không có gì khác hơn là cái nghèo giống ngoại mang theo và thằng con, chắc đã quen khổ rồi, chưa lần khóc đòi chuyện gì dù là khóc đòi sữa mẹ, nhưng ngoại vui và mẹ cũng vui, vì không còn ai lủi thủi một mình, nhìn đất nhìn trời mỗi khi mưa luồng gió tạt. Trời cũng còn thương cho kiếp nghèo, những ngày không có mẹ, thấy ngoại đơn chiếc lẻ loi, một mình lụm cụm, bó rau, cái trứng của hai ba con gà mà bà nuôi, khệ nệ bưng ra chợ xã bán, vợ chồng anh chị Đắng, ở căn nhà bên cạnh, cách nhà bà ngoại một khoảng mương sâu, ngập bông súng và cá lòng tong, anh chị bắt khúc cây dừa khô lớn cở một tay ôm ngang mương, họ cũng nghèo, nhưng có đôi cho nên đở hơn, anh Đắng làm nghề đi cày ruộng mướn, chị thì ở nhà trồng đậu trồng khoai, chạy qua chạy lại, hỏi han phụ giúp khi tối lửa tắt đèn, anh chị cũng có đứa con gái, con Mận, trạc tuổi Hiệp, gọi tới gọi lui hai tiếng “bà bà”, nhờ vậy ngoại đở buồn. Có mẹ con Hiệp về, thấy nhà trống trước trống sau tội nghiệp, anh Đắng đi kiếm đâu đó một số trúc già và mấy liếp tre còn tốt, làm khung, ngăn phòng, một bên cho ngoại, một bên cho hai mẹ con, có chỗ che chỗ đậy.
    Về cù lao Đông, vì con nhỏ, mẹ không đi gieo mạ cấy mướn như đa số người trong ấp, họ không lạ gì mẹ Hiệp, cũng mừng rỡ chào nhau, hỏi thăm hỏi lom chuyện xưa chuyện cũ nhưng cùng chung kiếp nghèo, thương mà không ai giúp được gì hơn, cả năm qua, mẹ Hiệp xách đục tre đan, sớm sương chiều nắng, một mình lầm lũi “tát đồng tát đìa bắt còng bắt cá”, có chút ăn để sống chứ chẳng khá gì hơn. Hôm mẹ dắt Hiệp theo ngoại ra chợ xã bán mớ rau, tình cờ gặp bác Thạnh, xã trưởng, vốn đã gặp mẹ ngày mới về, xin thêm tên hai mẹ con vào tờ khai gia đình và cấp cho Hiệp cái giấy thế vì khai sinh, để lớn lên có giấy tờ mà đi học nếu được, bác cho biết có ông bà cai tổng Triêm ngoài chợ Gò Dầu, muốn mướn một người lo việc nhà, quét dọn và giúp chuyện đi đứng cho bà cai tổng chút đỉnh vì bà bị đau ở xương sống cột lưng sao đó, vào ban ngày, chiều về thì có người lo rồi, thứ bảy chủ nhật không cần, thấy tình cảnh mẹ con tội nghiệp, bác bảo mẹ Hiệp nếu muốn bác giới thiệu cho, ông bà cai tổng Triêm rất hiền hậu và thương người, cả quận ai cũng biết.
    Thôi cũng đành phần số, ngoại nhắm mắt gật đầu, mẹ Hiệp về làm người ở đợ cho ông bà cai tổng Triêm sau ngày đó. Nhà ông bà, một căn biệt thự không mới không cũ, xa bến xe, xế ngã ba đường đầu chợ, trên đường đi Sài Gòn, có rào sắt cao và mấy bụi hoa sứ già, rụng đầy lá. Mấy người con lớn nghe nói ở đâu đó dưới Sài Gòn, cũng nhà cao cửa rộng, chỉ còn cô con gái út, cô Huyên, tuổi cở tuổi mẹ Hiệp, và đứa con gái tên Quỳnh Hương, bằng Hiệp, còn ở với ông bà, hiện coi sóc tiệm sách, giấy mực viết bút, ngay đầu đường vào chợ, chồng cô, ba của Quỳnh Hương, là một sĩ quan Dù, chỉ huy trưởng căn cứ biệt kích ở Ka Tum Thiện Ngôn gì đó, nhưng không may đã tử thương một vài năm trước đây. Ngày nào cũng vậy, sáng sớm, mặt trời chưa hừng rõ bên kia sông lớn, mới có chút ửng hồng, Hiệp còn ngái ngủ thì mẹ Hiệp xách cái túi đựng mớ đồ lặt vặt, đi bộ qua cầu ra chợ xã, chờ ngoài đường lộ đón xe đò sớm xuống Gò Dầu, chiều chạng vạng mới về nhà, cũng may, ông bà cai tổng và cả chị Huyên đều tử tế, hiền từ nên mẹ Hiệp không nổi nào vất vả cho lắm, ở nhà, nhiều khi không có mẹ, Hiệp thấy bà ngoại cứ đứng thấp nhang ngoài trời, trước sân vái vái xá xá thì thầm gì đó, hỏi mẹ, mẹ bảo là ngoại xin trời phật phù hộ cho gia đình được bình an may mắn. Những ngày không đi Gò Dầu, mẹ vẫn túi đục tre đan, cái chĩa cây dài, dầm mưa đội nắng, tát cá tát đìa như thuở nào, bữa cơm chiều cũng mấy con cá con, mấy con còng kho muối tiêu mặn, mấy cọng rau lang rau muống, pha chút cười chút nói mẹ con bà cháu.
    Mới đó mà mẹ Hiệp đi ở đợ cho nhà ông bà cai tổng Triêm đã được gần bốn năm năm, mẹ làm việc siêng năng, cần mẫn, thật thà và ăn nói nhỏ nhẹ nên được ông bà thương mến, năm nào cũng vậy, ông bà và cô Huyên đều gởi cho Hiệp cái quần cái áo mới, chút tiền lì xì và cho mẹ Hiệp thêm tiền công ăn Tết. Cũng mới đó mà đã cuối năm lớp nhất trường làng cùng với Mận, con gái của anh chị Đắng, trong ấp cù lao Đông đi học không nhiều, chỉ có Hiệp, Mận và ba bốn đứa trai gái nữa ở tận xóm trong, bao nhiêu năm rồi, ngày nào cũng như ngày nấy, sáng sớm, trời hừng đông, cả đám tụ nhau trước ngỏ nhà Mận chờ, tay cầm khoai tay cầm bắp, theo nhau qua cầu, nói cười luôn miệng. Từ ngày Hiệp về cù lao Đông rồi cùng đi học cho đến giờ, “con Mận thằng Hiệp” tiếng của bà ngoại gọi, ít khi rời nhau nửa bước, chạy qua chạy lại, đánh vần học bài, chẻ củi đốt lò, lùa gà đuổi vịt, không nhà bên này cũng nhà bên kia, khúc cây dừa bắt ngang cái mương chia hai bên, ngày càng mòn đi thấy rõ, hình như đám cá lòng tong cũng bỏ đi xa vì con nước không còn yên bình như thuở chỉ có một mình bà ngoại. Kỷ niệm vui nhiều hơn buồn, của tuổi ấu thơ dìu dịu, êm đềm nối nhau lớn dần theo những ngày tháng đó, không “ngựa xe son phấn “không “áo lụa quần là”mà ngọt ngào với đục tre giỏ lát, nước mặn bùn đen, khói cơm bếp lửa, rặng trâm bầu và những con đường mòn bờ đê đầy hoa sim tím.
    Cùng với ba bốn đứa học chung lớp nhất ngoài chợ xã, Hiệp và Mận, thi đậu vào đệ thất trường trung học Gò Dầu, anh chị Đắng, mẹ Hiệp và ngoại mừng mà khóc cả mấy ngày, nghe tin này, bà cai tổng Triêm đã gởi cho mẹ Hiệp số tiền, để mua vải may quần áo đồng phục, mẹ Hiệp đem về chia với anh chị Đắng một nửa phần cho Mận. Được một cái là hai đứa không cần phải xuống ở đậu nhà người ta dưới Gò Dầu, một hai tháng trước, có chú năm Vững, và cháu của bác Thạnh xã trưởng, nhà phía sau chợ,  mua hai chiếc xe lam ba bánh 550 cũ của ai đó, làm xe chở khách đi về Trà Cao – Gò Dầu, ngày ba bốn chuyến, nên không còn phải ngóng phải trông chiếc xe đò lỡ từ Bến Cầu xuống, nhờ có hai chiếc này mà người ở Trà Cao đi chợ quận thường hơn trước. Sáng sớm theo mẹ qua bên chợ xã, đi chuyến chạy sớm trước của chú năm Vững xuống Gò Dầu, ba người xuống ngay ngã ba, chờ hai đứa khuất cuối đường vào trường rồi mẹ Hiệp mới bỏ đi, nhà ông bà cai tổng Triêm cách đó không mấy xa, chiều về Trà Cao cũng đã có xe của cháu bác Thạnh chạy ngang qua đón.
 
 
   Giờ ra chơi định tìm Mận, thấy Quỳnh Hương loanh quanh bên cô ta, cười nói ngoài sân nên Hiệp đứng ở góc hàng rào chờ, nhớ ngày đầu vào lớp, gặp Quỳnh Hương, Hiệp có phần ngài ngại gì đó, chẳng biết tại sao, nên cố tránh đi nhưng khổ nổi, Quỳnh Hương lăng xăng, tiếng một tiếng hai, Hiệp Hiệp, Hương Hương, nên cũng đành trả lời một cách nhát gừng, với cô ta, quen cũng không hẳn là quen, Hiệp đã gặp Quỳnh Hương ở nhà ông bà cai tổng Triêm vài ba lần trong mấy dịp Tết, được mẹ dắt xuống, cám ơn những món quà mà ông bà đã cho, khúm núm, bẽn lẽn, lấp ló nói nhau đôi ba tiếng rồi thôi, tuy vậy, lần nào ra về, Quỳnh Hương cũng chạy theo bà cai tổng ra cổng, đứng nhìn theo cười, biết là có cô ta ở đó nhưng chưa lần nào Hiệp dám quay lại, trở vào lớp, ở bàn sau nhìn lên, hai cô vẫn còn nhỏ to, Hiệp nhăn mặt thắc mắc, cười mĩm một mình, chiều về chắc là sẽ biết thôi, từ những ngày sau đó, cũng theo chuyện thường tình, vào học ra về, ba đứa trở thành bạn thân nhau, vui buồn với sân trường lớp học, sáng chờ cổng trường chiều chia tay đầu ngã ba bịn rịn bước đi bước ở.
    Cuối năm đệ lục, có người cháu gái bà con, từ đâu dưới miệt Long Xuyên về ở với ông bà cai tổng Triêm, nên mẹ Hiệp xin thôi việc. Về lại nhà được mấy hôm, vợ chồng bác Thạnh xã trưởng, đến nhà, gặp mẹ gặp ngoại, bàn qua nói lại cũng hơn nửa buổi, bác có người cháu trai, trạc tuổi mẹ Hiệp, đi lính cấp bậc trung sĩ, sư đoàn 25 VNCH, đóng ở Tây Ninh, bị thương trong trận núi Bà, giải ngủ, vợ anh mất đi chừng hai năm nay, đang làm nhân viên ở văn phòng quận Phú Khương, Tây Ninh, muốn kết đôi với mẹ Hiệp, nhưng mẹ từ chối, một phần tình yêu đã nguội lạnh, một phần mẹ không muốn một lần nữa bỏ ngoại một mình, vợ chồng bác Thanh không nở nài ép, vậy mà lần nào gặp ngoài chợ, bác cứ nhắc chuyện này hoài, mẹ nhỏ nhẹ cười trừ thôi. Không may sau đó, ngoại bệnh nặng trở lại, nằm không bao lâu thì mất ở bệnh viện, cùng với anh chị Đắng, bà con trong xóm cù lao và chiếc xe lam của chú tư Vững, mẹ đem ngoai chôn tại cái gò mả chung, trên đám đất cao, bên bờ nhánh sông, cuối còn đường mòn từ đầu xóm nhà, mẹ Hiệp khóc nhiều sưng cả mắt gần mấy ngày. Rồi cũng nguôi ngoai, mẹ con ra vào buồn vời vợi, sau ngày cúng 49 ngày với số vốn dành dụm từ mấy năm nay, cộng thêm chút tiền ông bà cai tổng cho khi nghĩ làm, nhờ anh Đắng một tay dựng cây dựng kệ, mẹ Hiệp mở cái sạp bán hành tiêu tỏi ớt, kẹo bánh nhỏ, hàng lấy từ chợ Gò Dầu, cuối góc chợ xã, không xa chỗ bến xe lam bao nhiêu, chị Đắng, mẹ Mận cũng có chỗ để bán thêm bó rau bó cải, con cá con cua, từ ngày đó mẹ không còn theo xe lam xuống chợ quận như mấy năm trước.
    Ở cù lao Đông, những gì của ngày xưa còn bé đã lẳng lặng bỏ đi, tuổi biết buồn chợt vội vã về, không chờ không đợi, với Hiệp, cũng bên nhau qua cầu, cũng ngồi bên nhau trên chuyến xe lam sớm nhưng không còn đánh đôi đánh đọ, tay nắm tay lôi chiều mưa trưa nắng nữa, những đêm ngồi học bài muộn, lời thơ tình của ai đó Mận nhớ hơn là nhớ công thức toán năm đệ tứ, ngọn đèn dầu khuya bên này cứ nhớ ngọn đèn dầu khuya bên kia nhà Hiệp, Mận chợt biết ra mình đã thương thật rồi hai tiếng “thằng Hiệp con Mận”, thương mà để vậy,  không dám nói ra và chưa biết khi nào mới dám nói. Dưới Gò Dầu, Quỳnh Hương cũng thấy lòng mình ray rứt, nhớ nhớ mong mong, vẫn ba tháng như những mùa hè cũ nhưng mùa hè năm nay sao cứ dài lê thê, chùm hoa đỏ bầm cuối mùa trên hàng phượng già đầu cổng trường đã héo rủ từ lâu, thèm nghe tiếng chuông trường reo nhưng chờ hoài vẫn chưa có, đường phố chợ quận đông người xe cộ nhưng hồn mang mang một nổi buồn trống vắng, Quỳnh Hương cũng như Mận, thì ra mình đã thương và nhớ một người. Đầu năm đệ nhị, cũng như đám học trò ở xã, Hiệp, Mận xuống ở trọ dưới Gò Dầu, xe đò xe lam từ Bến Cầu xuống hay ở Trà Cao đi, không còn chuyến sớm nữa, ban đêm quân du kích Việt cộng giờ thường ra đắp mô gài mìn, phục kích đám lính VNCH đi mở đường, tiếng súng tiếng đạn nghe ngày càng gần làng gần ấp nhiều hơn, đôi khi đã có người chết phía bên kia bỏ lại trên đường lộ. Chợ quận không có bao nhiêu con đường, phố xá không xa, loanh quanh, đi xuống đi lên chưa đủ mỏi thì đã gặp lại nhau, nhưng có họ, ba người, Gò Dầu dễ thương Gò Dầu đáng nhớ, mùa thi ngấp nghé đâu đó nhưng cũng có những chiều hẹn nhau quán nhỏ, khi đầu chợ lúc cuối đường góc phố, cũng có những sáng tụm nhau đi, chờ chuông trường, nhặt hoa rụng, thả lá bay, rộn ràng mình ta với bốn mùa thu đông xuân hạ.
    Cứ nhìn ra đường, trời giữa chiều, mưa bất chợt về ngang từ bên kia cầu, lất phất bay mờ đục màu bụi phấn, trong một góc quán nhỏ, cả ba không nói, lặng thinh, buồn níu kéo buồn man mác, dù có muốn nói thì cũng chẳng biết nói gì thêm vì biết nói làm sao đây. Xong tú tài một, nhà vẫn nghèo, ba đồng ba cộc, cũng kiếp đời của người trong ấp, chưa biết chừng nào mới khá hơn, Mận vào trường Quốc Gia Sư Phạm, mong mau ra trường làm cô giáo, sớm có chút tiền lương cho nhà đở khổ, Quỳnh Hương, không biết vì sao, cũng vội bỏ xuống Sài Gòn, theo người chị, con bà dì, chị của mẹ, vào đệ nhất trường Lê Văn Duyệt, chuyện của mình thì Quỳnh Hương và Mận đã nói nhau nghe hết rồi hôm cuối mùa thi, bên lề phố vắng ngó qua cổng trường Gia Long dưới Sài Gòn, cả hai cùng thương Hiệp, không ai hỏi vì sao, không giận hờn trách móc, không biết ai buồn hơn ai, thôi thì cứ trôi theo định mạng và vẫn giữ cho riêng mình hiểu. Từ lúc quen nhau tới giờ, đôi lúc chạnh lòng, có chút bâng khuâng nào đó về bất chợt nhưng rồi như gió thoảng qua mất hút, Hiệp chưa lần nào và chưa dám nghĩ tới chuyện thương yêu dù trong lòng cũng đã có thoáng nhớ nhung mơ tưởng, hình ảnh và cuộc đời lam lủ, và kiếp người ở đợ, cô độc của mẹ làm Hiệp chú tâm vào việc học hành hơn là chuyện khác. Rồi thì cũng phải chia tay, người xe ngoài đường vắng từ lâu, lưa thưa vài vạt nắng hé lên muộn màng, trời vẫn còn hâm hấp nóng, cười tiễn nhau ba ngã đường, có người cười muốn khóc, bóng Mận và Quỳnh Hương khuất xa khỏi dãy phố loang lỡ tường vôi ở cuối hai lối rẻ, Hiệp đứng bên lề nhìn theo, bổng chợt thấy có chút gì mất mác.
    Gặp lại trong trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn hôm khai giảng, vui quên cả buồn, sau lần chia tay ở Gò Dầu, nhà trọ mãi tận dưới Phú Lâm, đôi ba khi mới cùng đi phố vài lần nhưng không ai hỏi Hiệp và nhắc chuyện nói nhau nghe hôm cuối mùa thi tú tài một năm nào, Mận đưa Quỳnh Hương tới chỗ này chỗ nọ, trên lầu dưới sân, làm quen cô này anh kia, hỏi ra mới biết, không may, Quỳnh Hương rớt tú tài hai, cùng với người bạn thân, không chịu học lại mà thi vào năm thứ nhất, Mận bắt đầu năm cuối ra trường. Hiệp thì vào Kỹ Thuật Phú Thọ học Điện, đi về Trà Cao nhiều hơn là ở dưới này, cùng ở Sài Gòn đó, vướng vấp chút trớ trêu tình cảm “thương một người”nên năm khi mười họa ba người mới gặp nhau, ở một quán nước bên lề đường, hỏi nhau ba bốn chuyện vớ vẩn, quê nhà xứ người thế thôi, rồi chia tay mỗi người mỗi ngả, chẳng màng hẹn lần khác, không ai buồn thắc mắc vì sao, cứ như vậy bỏ mặc cho ngày tháng đi về, lạnh lùng, chết lặng trong cô đơn giữa những cơn mưa cái nắng buồn vui bất chợt của trời Sài Gòn.
*
    Vài hôm trước ngày thi cuối năm thứ hai, nghe tin người quen nhắn xuống, mẹ anh bị bệnh gì đó mấy ngày qua nhưng không sao, Hiệp nóng lòng nên bỏ học, ra ngã tư Bảy Hiền đón chuyến xe đò sớm đầu ngày về Gò Dầu, đường vắng tanh, trời mù mờ sương sáng, không may, xe cán phải cái mô có gài mìn chặn ngang đường, ở khúc vừa qua Suối Cụt, do đám quân du lích Việt cộng đấp trong đêm nổ tung, Hiệp, anh lơ xe  và ba bốn người khác chết, mười mấy người bị thương nặng nhẹ, nằm la liệt bên lề đường, dưới bờ ruộng,  mấy xe cứu thương của lính sư đoàn 25 từ Củ Chi lên phụ đem người về bệnh xá quận, cũng cái xe lam 550 đưa ngoại đi chôn của chú tư Vững, một lần nữa chở xác Hiệp về cù lao Đông.
    Mận tốt nghiệp, về dạy tại một trường tiểu học trên quận lỵ Chơn Thành, Bình Long, Quỳnh Hương ở lại học năm cuối, cũng thêm một lần chia tay, hai người bên nhau suốt buổi chiều ngày chọn nhiệm sở, lòng vòng loanh quanh đường xưa phố cũ, hẹn nhớ thư cho nhau biết tin, chúc nhau nhiều may hơn rũi. Ba bốn tuần sau ngày Hiệp mất, mẹ Quỳnh Hương xuống Sài Gòn đặt mua sách học, tập vở cho biết tin, vài hôm trước đây, một chị bạn dạy ở trường tiểu học quận, thường tới nhà chơi, cũng có nhiều lần gặp mẹ Hiệp lúc còn làm ở đó, trên đường từ trường về nghỉ trưa, ghé tạt ngang qua tiệm báo tin, Hiệp đã chết vì chuyến xe đò từ Sài gòn về Gò Dầu bị trúng mìn, Quỳnh Hương rụng rời, kềm lòng không được, thẩn thờ như người mất hồn, khóc rấm rứt luôn tới mấy ngày. Sáng thứ bảy nghỉ học, Quỳnh Hương ra bưu điện chính thật sớm, gởi điện tín khẩn cho Mận qua địa chỉ của trường cô ta dạy báo tin, hẹn về Sài Gòn để hai người đi Gò Dầu cùng ngày thăm mộ, xong việc, trở ra đường, trời vừa có chút nắng lúng túng xuyên màn sương tan mờ mờ, Quỳnh Hương băng vội qua trước sân nhà thờ Đức Bà, chưa có người đi lễ sớm và cũng chưa có tiếng chuông, đứng chết lặng trước tượng Chúa, lâm râm, rưng rưng khóc.
 
 
    Gọi là khẩn cho vui chứ tình hình chiến trận bây giờ, ở đâu cũng vậy chuyện không tới tay người nhận sớm là chuyện quen rồi, biết vậy nhưng Quỳnh Hương cứ trông trông ngóng ngóng, buổi sáng sau ngày gởi điện tín mấy hôm, vào tới sân trường, đám bạn cùng lớp tụm năm tụm ba ngay đầu hành lang chờ, nhỏ to có vẻ là lạ, nhìn quanh không riêng gì họ mà hình như cả trường, mặt mày ai nấy buồn xo, vì tin Mận chết do một chị khóa trước, cháu bà con của cô Hoàng giám thị, đang dạy cùng trường, nhờ một người quen, sĩ quan bên chi khu, theo nhóm lính đi phép về Sài Gòn nhắn lại, vì khi còn ở trường, Mận được xem là học trò cưng của cô, nghe tin Quỳnh Hương đứng chết trân, buột miệng “trời ơi”, mắt nhạt nhòa nước mắt. Nhận được điện tín của Quỳnh Hương, từ văn phòng trường trở lại, Mận khóc òa lên ngay cửa lớp, khi đọc chưa hết lời nhắn, đám học trò lớp nhì đứng lên im phăng phắc, hớt hơ hớt hãi gọi to “cô ơi cô ơi”, Mận quỵ xuống sàn nhà, bất động, trên tay bức điện tín mở toang, lật lên lật xuống theo chiều gió sáng từ hướng rừng lùa về mang chút bụi đỏ ngang qua sân trường. Ngồi chờ sáng, để mai sớm đón chuyến xe đò Bửu Hiệp về Sài Gòn, đêm cứ dài và dài vô tận, sau ngày Lộc Ninh mất, tiếng đạn đại pháo bên này bên kia nghe rồi cũng quen tai, quá giữa khuya, quân cộng sản pháo kích như mưa, rớt nổ nhiều chỗ trong quận lỵ, Mận chết vì căn nhà không may bị trúng đạn, nằm cong người bên cạnh cái túi xách nhỏ, đựng vài ba bộ áo quần, mấy thứ lặt vặt thường xài và cái điện tín xếp vội hờ chưa đóng kín, nhờ thiếu tá Tường, quận trưởng dàn xếp sao đó với tỉnh, xác Mận được chở theo trên chiếc phi cơ vận tải đưa thương binh VNCH về tổng y viện Cộng Hòa chiều ngày hôm sau.
*
     Quỳnh Hương ngồi đó, môt mình, sụt sùi, cúi người cố choàng dài tay ra ôm nhưng không trọn hai tấm mộ bia đá cùng màu, khắc cùng một kiểu chữ, chừng như muốn kéo nó sát lại bên nhau, trời giữa trưa hừng hực nắng, thản nhiên trải thảm trên mặt đất khô cằn của cái gò mả nghèo nàn cuối xóm cù lao Đông, trong hình, cả hai Hiệp Mận cùng cười, Quỳnh Hương nhìn đăm đăm cười mà cười trong ràng rụa nước mắt, khóc không thành tiếng “nói gì bây giờ đây anh Hiệp ơi, Mận ơi”, lưa thưa đâu đó, lẻ loi dăm ba cụm mấy xám chùng xuống, trời chợt mù mờ hơi mưa, nán ngồi thêm chút nữa, cũng không còn gì để nói cho nhau, cũng không làm sao kể cho hết tâm tư thầm kín, giữ trọn cho riêng mình, riêng người, tất cả chỉ còn lại đó, hai nấm mộ một u tình, Quỳnh Hương đứng lên, sửa lại mấy bó hoa tươi, mang từ dưới Gò Dầu lên trước ba nấm mộ, ngoài sông chiếc xuồng ba lá ọp ẹp thả câu, lặng lờ xuôi theo chiều nước về ngang, người đàn bà nhích cái nón lá rách trên đầu lên nhìn vào, không ngừng tay chèo, lắc đầu, miệng thì thầm, một lần nữa rươm rướm mắt, đưa tay vuốt mấy tấm bia đá vừa dịu cơn nắng, buồn thiu nói nhỏ “thôi tạm biệt, có lẻ phải lâu lắm mình mới lại gặp nhau, không chắc là ở đây, nếu có, sẽ ở một chốn nào đó”.
 
 
 
     Lạnh lùng, cánh cổng sắt của tu viện Dòng Mến Thánh Giá chầm chậm khép lại, trời Đà Lạt mấy hôm nay lạnh gắt dù mới chập chững vào đông, trong sân sương mù mờ, phủ một màu vàng nhạt cùng màu con đường lát gạch dài dọc theo hành lang, người Mẹ Bề Trên đứng đón trước cửa chánh tòa, Quỳnh Hương lặng lẽ đi theo sau một dì phước trẻ vào tới trước mặt bà, bỏ cái va-li xuống đất, hai người đứng chờ, Mẹ Bề Trên gật đầu cười, đưa tay choàng ôm cô vào người nói nho nhỏ gì đó, cô khẻ gật đầu, bà chậm rãi quay lại đi vào trước, cô và người dì phước trẻ nhẹ bước theo sau, ngoài khoảng sân rộng cả một trời  vắng tanh, sương lảng đảng đục, cuối đường bóng ba người ẩn hiện lờ mờ rồi mất hút sau cái cửa kín lớn của gian nhà nguyện, không bao lâu sau có giọng con gái kéo dài thật dài hai tiếng “Lạy Chúa” thoáng ra, chuông thánh lễ sáng vừa đổ hồi đầu, có chút trễ hơn như mọi ngày.
Thuyên Huy 
Bendigo tháng sáu đầu đông 2017
 
   
 
 

   

 

Bên Mộ Người Cũng Mùa Thu - Thuyên Huy



Bên Mộ Người Cũng Mùa Thu

Nhớ một người vừa gặp lại đã bỏ đi xa và xa biền biệt

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Người nằm đó có hay mùa thu tới
Cũng mùa thu hôm tôi tiễn người đi
Ngồi bên nhau mà xa nhau vời vợi
Đường nghĩa trang vàng lá ngập lối về

 
Người đi rồi một nửa hồn tôi mất
Nửa hồn kia theo người xuống mộ sâu
Đốt lá khô giữa nắng chiều héo hắt
Để mình còn ấm lại chút tình đầu

 
Rồi một mình tôi tìm về chốn cũ
Ngồi chờ mưa những ngày nón che chung
Cũng màu áo xanh hôm mình xuống phố
Rã rời theo thành ghế đá lạnh lùng

 
Chiều thôi muộn vỏ vàng bia mộ đá
Đêm đèn lên hiu quạnh góc trời thu
Biết từ đó ngàn năm đường đôi ngả
Vẫn ngồi đây ôm thương nhớ tôi chờ

 
Tôi hát lại người nghe bài tống biệt
Điệp khúc buồn hôm người bỏ tôi đi
Rồi thu cũng tàn mau người có biết
Ngậm cô đơn đường cũ vẫn tôi về

 
Thuyên Huy
Buổi chiều tại cái nghĩa trang nhỏ, lẻ loi cuối sườn đồi vắng tanh ở Warrnambool giữa thu 2016

 

Bản Di Chúc Bi Thảm - Mai An Nguyễn Anh Tuấn


BẢN DI CHÚC BI THẢM
 
 
 

    Đầu tiên là triệu chứng khó thở kéo dài nhiều giờ. Đó là điều khó hiểu với một người sức khỏe có thể gọi là sung mãn như ông. Bác sĩ riêng đã loại trừ ngay cái bệnh buộc phải i-zô-lê ( biệt lập), hoành hành bởi con vi trùng mang tên một nhà bác học Đức. Nơi ông ở cũng chưa đến nỗi phải suốt ngày đeo mõm chó cả khi ra đường lẫn ở trong nhà như thành phố Bắc Kinh mù mịt bụi khói mà ông thường thấy trên phim ảnh. Song song với khó thở, trên thân thể ông bắt đầu xuất hiện những vẩy nến hình vây cá, thoáng nhìn tưởng như sản phẩm của tục xăm mình đời xưa hay thói vẽ trang trí thời nay. Những phác đồ điều trị của những bác sĩ giỏi nhất từ thành phố lẫn trung ương đều dẫn đến những kết luận chất chứa ưu tư. Một người bạn học thuở cởi truồng tắm sông tới thăm để nhờ vả một suất công chức cho con trai, bất ngờ thấy ông ngáp ngáp mà không kịp che giấu thì kinh hoảng kêu lên:

- Bác làm sao thế?

Ông vội lấy lại ngay phong độ quen thuộc của một quan chức đương quyền. Trước vẻ hối lỗi ra mặt của ông bạn đã vô tình chứng kiến khoảnh khắc không đẹp của người mình đang phải xin xỏ, ông cuời độ lượng:

- Không sao. Chúng mình cũng đều sắp bước vào tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” rồi còn gì. Tức là nghe tai này đưa sang tai kia.

Cả hai đều cuời to làm cho câu đùa thêm sự thâm thúy, tăng thêm tình thân mật bỗ bã. Nhưng, giá như ông bạn đừng thêm lần nữa vô tình nhắc tới bộ phim Người cá của Liên Xô mà hai người từng xem thời chiếu bóng ngoài bãi. Ông bạn về rồi, ông chìm đắm trong hồi ức tuổi thơ xót thương cho nhân vật người cá bị bọn xấu săn đuổi, bắt mò ngọc trai cho chúng, để rồi không còn khả năng thở trên đất liền được nữa, phải vĩnh viễn chia lìa người yêu và sống trong lòng biển… Tình xót thương đó chìm không sủi tăm có lẽ bắt đầu từ ngày ông cùng thế hệ được giáo dục mối căm thù vĩ đại, và sau đó tiếp tục bị bắn phá tả tơi suốt hành trình chinh phục quyền lực. Dù sao ông cũng biết ơn người bạn nhắc ông nhớ đến cái thùng nước trong xà lim mà cậu thanh niên Ich-chi-an bị nhốt vào đó. Ông gọi đứa cháu nội đích tôn mười tuổi vào. “Hình như có lần cháu muốn nhà mình có bể cá vàng?”- “Vâng! Ông hứa với cháu lâu rồi mà”- “Ừ. Bây giờ ông sẽ thực hiện lời hứa. Nhưng… Bể cá đặt trong phòng ông nhé, để hai ông cháu ta cùng ngắm. Ông cũng thích cá lắm”.

Bể cá to hai ngày sau đã xuất hiện theo ước nguyện. Nó không đặt trong phòng khách như thông lệ của các ngôi biệt phủ thời nay nhưng cũng chẳng làm bà chủ và các thành viên gia đình thắc mắc, vì đó là ý muốn của đại lão gia quyền uy. Ông còn cầy cục nhờ một người bạn quan chức Hà Nội lùng mua bằng được bộ tranh dân gian Hàng Trống Lý ngư vọng nguyệt mà theo bạn ông kể lại, việc này cũng khó gần như mò trăng dưới nước.

Nể ông, người bạn đã tìm đến một nhà nghiên cứu mỹ thuật dân gian, ông này lại dẫn tới một vị buôn tranh, thế rồi, cặp tranh quý gói trọn tinh thần yêu vốn cổ dân tộc chỉ sau một tuần đã chình ình trong phòng ông, bên trên bể cá. Chú bé thiếu gia đã sung sướng đến mê mẩn, vì những con cá vàng đủ đực đủ cái đang bơi lội tung tăng kia mới là kẻ biết chia sẻ cùng nó trong lâu đài bí hiểm với những người lớn thoắt ẩn thoắt hiện lúc nào cũng mang vẻ mặt nghiêm trọng chứa đựng những mưu mô, toan tính căng thẳng.

Thế nhưng niềm vui của cậu bé mau chóng bị ô nhiễm, khi một lần đi học về, nó vào phòng, thấy người ông đáng kính đang vùi cả đầu vào trong bể cá tranh hít thở không khí trong nước với những con cá vàng tội nghiệp quẫy đuôi tuyệt vọng tứ phía. Nó hét lên như tường nhà đổ sập, vì hoảng hốt hơn là thương ông hay lo cho số phận mấy con cá.

Phải tới khi thằng bé bíu hai tay đu vào vào người ông gào khóc, ông mới chợt tỉnh, giật đầu ra khỏi bể cá. Nước bắn tung tóe vào người thằng bé, rải ướt tấm thảm nhung mà bình thường ông rất chăm chút giữ gìn. Ông giật mình vì sự bất cẩn quá đáng lý ra không được phép: mọi ngày đi làm về, ông vẫn khóa cửa, phòng khi cơn nghiền ô xy trong nước trồi lên như bão tố. Còn ra thể thống gì nữa: tranh hít nước với mấy con cá nhép. Nhưng… nó là đứa trẻ con, lý giải thế nào chẳng được, bịp cũng chẳng sao, bởi mục đích mới là quan trọng, phương tiện đâu đáng kể!

Ông hối tiếc là đã không dành thời gian để đọc truyện cổ tích để có cảm hứng lý giải sự kiện trên theo hướng huyền thoại. Tuy thế, bản năng làm cha làm ông cũng đã được phát huy tối đa: ông kể lại câu chuyện phim Người cá – bằng trí nhớ lõm bõm và thiên lương bẩm sinh của mình, rồi giải thích: ông muốn thử xem cảm giác của Người cá sau nhiều ngày bị tách rời môi trường con người ra sao thôi… Ông còn gài sẵn một lý thuyết nhỡ sau này mọi chuyện vỡ lở, thằng cháu đỡ bất ngờ: đó là chuyện khoa học viễn tưởng cháu à, nhưng thế giới ngày nay đã cho thấy, không ít chuyện viễn tưởng đã trở thành hiện thực…

Thằng bé bị thôi miên trong câu chuyện Người cá tới độ quên phứt hình ảnh kỳ dị của ông lúc nãy, ngẩn ngơ tưởng tượng một con người cô độc bơi dưới đáy đại dương.

Nhưng sự cố trên đã không bị hòa tan trong muôn việc ngớ ngẩn tầm phào hoặc biến mất giữa đời thường, nó trở thành sự kiện bí mật được truyền tai của các thành viên trong nhà, ô sin, đầu bếp, làm vườn. Bắt đầu từ việc thằng bé đòi bố tìm trên mạng internet bộ phim cũ Người cá để xem đi xem lại dăm lần. Rồi sau khi cao hứng xi-nê mồm lại cho mẹ nghe, nó nhắc tới chuyện ông chui đầu vào bể cá. “Con biết bịa chuyện từ lúc nào thế?”- “Con thề không có bịa. Hôm nào bố mẹ rình xem”.

Tò mò vốn là đặc tính của trẻ con. Nhưng rình mò là thói quen chẳng hay ho gì của những người lớn trong nhà đã lây sang thằng bé. Và chuyện chui đầu vào bể cá, cộng với những dấu hiệu kỳ lạ xuất hiện ở ông chủ đã không còn là chuyện hư thực nữa, đã là sự thực kinh hoàng buộc người ta phải làm quen: ông đang từng ngày từng giờ biến thành một con Cá lớn mà ngư dân vùng này những năm trước đây còn nhìn thấy hoặc bắt được.

Từ ngày xin nghỉ dưỡng bệnh, ông đã tự thiết kế căn phòng riêng thành một pháo đài, đề phòng sự đột nhập bất ngờ của vợ con, các cháu và người phục vụ. Ông cho làm một cái bể cá ngoài phòng khách, ngoài những con cá cũ chuyển ra còn có cá hề Nê mô theo yêu cầu của thằng cháu. Còn bể cá trong phòng, ông nhờ một đàn em thân tín tới kê hộ vào một chỗ kín đáo (Ông không ngờ thằng này đã rỉ tai con vợ chuyện về ông, rồi chuyện loang tới khắp cơ quan ai cũng biết).

Khi cửa mở ra, mọi người sẽ chỉ thấy bộ bàn ăn mà theo lệnh ông, nguời mang đồ ăn chỉ đem vào đặt rồi phải quay ra ngay, cả khi lấy bát đũa bẩn cũng thế. Ông lụi hụi lôi tấm bình phong bằng gỗ quý khảm ngà voi được biếu năm ngoái đang chờ dịp để biếu sếp cao cấp, mang đặt ở phía trái căn phòng. Đó là nơi ông náu thân nhìn ra khi có người tới. Dạo này, đôi chân ông đã bị thu ngắn rõ rệt và mềm oặt, đi lại cực kỳ khó khăn, nhiều lúc phải di chuyển bằng cách lết người. Khổ nhất là khi vào toa-lét. Lẽ ra phải đặt một đôi nạng đặc biệt. Nhưng đôi tay ông cũng đang dần teo đi, dúm dó, theo hình chiếc vây cá. Chả lẽ còn phải đặt làm cả đôi tay giả?

Tranh thủ khi chưa biến mất đôi tay, ông nén đau kiểm lại những gói tiền to như cục gạch hay những phong bì giá trị bằng mấy cái cục gạch mà người ta, chủ động hay vô tình để lại phòng làm việc của ông tại tư gia. Thì đã có lúc nào rảnh rỗi để ngắm nhìn cho thỏa các đồ trang sức quý giá, những đồng tiền mồ hôi nước mắt của người khác mà ông có được nhờ lao tâm khổ tứ (chứ không phải âm mưu) chinh phục người này (chứ không phải quỵ lụy) dạy bảo người khác (chứ không phải trừng trị) trong sự nghiệp công quyền mà cấp trên đã lựa chọn ông một cách xứng đáng nhờ vào lý lịch đỏ chót và truyền thống gia đình cách mạng nòi.

Ý thức cảnh giác chợt đến với ông trọn vẹn trong những ngày kỳ dị khó hiểu này. Ông bí mật gọi điện cho thằng cháu yêu (ông đã cho nó một chiếc điện thoại di động xinh xắn để liên lạc với ông). Ông nhờ nó đi mua bộ đục của thợ nề. Khốn khổ cho thằng bé, bị bố phát hiện ra bộ đồ nghề này trong ngăn bàn học. Nó chưa học được thói dối trá của người lớn, tái mặt khi bố tra hỏi.

Ông con trai hùng hổ tới phòng bố. “Ông sai cháu nó mua mấy thứ này làm gì?”. Sau bức bình phong, ông thiểu não bằng giọng rin rít: “Thì để bố luyện đôi tay cho cứng cáp thôi mà…”. “Thế ông đục tường hay đào nền nhà?”. Ông bỗng nổi xung lên: “Đào cái mả mẹ chúng mày ấy! Đồ bất hiếu bất mục!”. Ông con ngán ngẩm ném choang bó búa đục giữa nền nhà. “Tùy bố, bố muốn làm gì thì làm. Chỉ là chúng con lo cho bố thôi…”.

Thế là đi tong một ý đồ hay ho. Chả là, ông đánh hơi đựơc một cuộc đả hổ diệt ruồi nào đó sẽ diễn ra nay mai. Ông cần tìm cách chôn giấu của nả làm vốn riêng cho tuổi già. Đồng tiền liền khúc ruột mà. Vậy là âm mưu của ông đã bị thằng quỷ sứ vô tình bóc mẽ. Nó đã phá của ông biết bao là tiền của trong lần đi học nước ngoài mà ông sĩ diện bảo hàng xóm là “đi bằng học bổng toàn phần”. Mấy năm ở xứ châu Âu đắt đỏ, nó tranh tài vung tay đốt xô nhà táng với các quý tử đỏ phương bắc, chẳng biết có lọt vào đẳng cấp nào không song đã kịp trở thành một truyền nhân xuất sắc của Đông Joăng. (Ông biết đến tên tuổi anh chàng sát gái trời Tây nọ qua tay thư ký ủy ban xuất thân là giáo viên văn hết lộc gõ đầu trẻ lại bén duyên hoạn lộ). Vớt vát được cái chứng chỉ mác ngoại, nó về nước, ông phải chạy vạy tốn kém không kể xiết để nó được vào chân trưởng phòng một ngành béo bở, kiếm chác sao cho kịp hòa vốn trong lúc chờ đợi cơ cấu mới cho cán bộ nguồn lớp trẻ.

Cũng may trời thương nên nó đã biết chí thú làm ăn theo hướng dẫn của ông, lấy vợ sinh con, và ông đã có kẻ nối dõi tông đường. Dù kiến thức khoa học lượm lặt từ trời Tây về chưa được nắm tay, về mặt thủ đoạn quan trường xem ra nó có thể vượt qua ông. Nhưng về mặt đạo đức tiền bạc, cần phải thử thách nhiều, nó có máu trăm ngàn đổ một trận cười như không trước gái đẹp thừa hưởng từ dòng giống nhà ông.

Đúng lúc đó, vợ ông đi qua, bĩu môi ứ một cái rõ to: “Kệ ông ấy! Đang tu nhân tích đức đấy mà!”. Lần đầu tiên biết rõ tình cảnh khốn nạn của ông, bà ta tới đứng trước phòng ông khóc hờ như ông đã về nơi chín suối. Bà ta đang tuổi hồi xuân, xét về khía cạnh đó thì chưa phải là nỗi lo lắng lớn nhất của ông. Bà ta đã bí mật đi lại với những kẻ ham của lạ nào cấp trên của ông, ông thừa biết song đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Làm to chuyện ra, thiên hạ lại có cớ xiên xẹo: đã đem vợ làm bậc thang tiến thân mà còn cay cú. Lại tự chặt cầu của mình. Không khéo biến ông thành kẻ nuôi ong tay áo.

Nhiều vụ đưa – nhận hối lộ là do bà ta đứng ra thay ông. Cũng không ít vụ, bà ta dám qua mặt ông để mặc cả với hai bên – đối tác và ông. Lòng tham của một người đàn bà ít nhiều có nhan sắc khi đã thức tỉnh bản mặt kim tiền thì thực là hỏa ngục đối với những người liên quan. Nhưng hỏa ngục ở đây lại có gương mặt của những giá đồng Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thoải…

Mấy năm qua, bà ta đã lên thác xuống ghềnh khắp các phủ đền Bắc – Trung – Nam, còn tự lập một đền Mẫu ngay tại nhà và làm thủ lĩnh một đám đông con nhang đệ tử cuồng nhiệt. Chủ yếu là bằng tiền của ông chứ đâu phải lá đa nhặt ngoài đường hay ăn mày Phật – Mẫu. Toàn bộ tầng tư của tòa lâu đài là thế giới riêng của bà ta, và chắc hẳn có một căn buồng riêng dành đón lũ tình nhân hờ mà từ nay trở đi, ông chỉ có thể bái vọng từ dưới lên.

Thôi kệ, có lẽ ông phải tập Thiền tự bây giờ. Đâu rồi nhỉ, cuốn sách tập Thiền người ta tặng năm nảo năm nào đang ẩn náu ở đâu rồi? Phải bảo thằng cháu lục khắp xó xỉnh để tìm bằng được. Nhưng cái ý chí của những người mong lấy sức mạnh tĩnh tại nội tâm làm chủ ngoại giới vừa xuất hiện cổ vũ ông thì cũng là lúc ông cảm thấy những cơn đau buốt khắp tứ chi đang đến thời kỳ kịch liệt. Sự bàng hoàng kinh sợ ban đầu qua đi, ông dần dà thấm thía nỗi đau bởi tâm can dày vò, lấn át nỗi đau thể xác. Những kẻ hàng ngày xun xoe bợ đỡ ông để được ông chú ý nâng đỡ, từ ngày biết ông lâm cái nạn vô phương cứu chữa thì mịt mù tăm cá. Vì đâu mà ta nên nông nỗi này? Trời – Phật ở xa quá, mà bao năm nay ông có thèm ngó ngàng gì tới các Ngài đâu, thậm chí còn phỉ báng như một kẻ vô thần đầu bảng, mong Phật Trời cứu giúp chỉ là ảo tưởng.

Cũng may là có một người trần còn có lòng thương đã giúp ông trong đận gieo neo này: ông lão làm vườn cho nhà ông theo buổi. Thường ngày, có bao giờ ông hạ cố nhìn tới một kẻ lao công hạng dưới đáy như lão, đừng nói tới trò chuyện để hiểu gia cảnh, tâm tư nhau. Đứa cháu đích tôn dường như cũng bằng trực cảm trẻ thơ nhận ra tấm lòng ông Bụt ở lão làm vườn. Những việc ông nhờ nếu quá sức của nó, nó liền chạy tới nhờ ông Bụt. Như việc mua đồ đục tường gạch và xi măng. Như việc mua một ống bơm nước nhỏ từ bể cá tới miệng ông cùng cách vận hành thuận tiện nhất đối với một người mà chuyện đi lại và xử dụng mọi vật dụng đã tựa cực hình…

Lần đầu tiên, ông có vẻ khó chịu, ngượng ngùng trước ông lão tình nguyện đến giúp, ông từ việc trở mình ngồi dậy, bón cháo, thấm từng chiếc khăn đẫm nước lên mặt đến những việc khó khăn vất vả trong nhà vệ sinh. Nhưng, ông không nhận thấy bất cứ một sự ghẻ lạnh, khinh ghét, ghê sợ nào từ ánh mắt cử chỉ lão, ngoài một thoáng ngạc nhiên ban đầu để rồi sau đó thay thế bằng niềm xót thương, sản phẩm nguyên thủy nhất của lòng nhân từ.

Ông bắt đầu láng máng nhớ lại những câu chuyện, những lời ca của bà năm xưa đưa võng ru cháu kể về lẽ đời quả báo, tham thì thâm, người tốt được đền bù kẻ xấu bị trừng phạt ra sao… Lần đầu tiên, sau bao năm tháng dài ngầu đục tham vọng không từ thủ đoạn gì để có nhiều tiền và leo lên từng nấc thang quyền lực, ông mới được sống trong không khí trong lành giản dị của tình người.

Ông lão làm vườn khắc khổ, ít nói ít cười, làm cái việc do thằng bé nhà chủ nhờ vả như một sứ mệnh, không hề cò kè đòi hỏi công xá. Khi ông chủ rụt rè dúi hai tờ 100 ngàn đồng vào tay lão, lão giật tay ra như phải bỏng, nhìn lên ngơ ngác. “Tôi lĩnh tiền làm vườn rồi ông ạ. Xong vườn, chưa hết giờ, tôi giúp ông thôi”.

Lâu lắm, giờ đây ông mới ước ao được trào nước mắt cho vơi nỗi cô đơn và biểu lộ lòng biết ơn chân thật. Nhưng đôi mắt ông đã dần biến thành mắt cá, chỉ có thể mở thao láo cả khi sống lẫn lúc chết, và các dòng máu trong người ông đã gần lạnh tanh như máu cá mất rồi.

Muốn khóc mà không sao khóc được phải chăng cũng là một nỗi đau đớn tinh thần đáng kể trong sự trải nghiệm tả pí lù của cuộc sống mà tới tận hôm nay ông mới cay đắng nhận ra? Hai tuần lễ liền, lão làm vườn, như một quản gia trung thành tận tụy đã giúp cho ông-người-cá bớt đi bao nỗi nhọc nhằn khổ sở trong việc Tồn Tại với tư cách một Sinh vật-Người.

Một buổi chiều tối, lão mang khay đựng cháo vào phòng ông chủ. Con trai ông và mấy ô sin đã ngán làm việc này, và có bữa đã quên, để ông nhịn đói. Mặc dù dạ dày cùng lục phủ ngũ tạng đã bị teo đi, bị lấp gần hết bởi các bong bóng, ông vẫn còn chút cảm giác sinh học cuối cùng này của con người. Sau khi lão cho ông chủ mút mát được ít cháo bí ngô (cũng do lão cầy cục nấu bằng lá khô vun trong vườn), lão nhẩn nha kể tiếp về gia cảnh mình. Chuyện bà vợ mất vì ung thư, chuyện hai thằng con trai đã hy sinh ở chiến trường thì ông đã kể. Còn chuyện thằng cháu trai độc đinh của lão, thê thảm quá, giờ lão mới kể, khi thấy tâm tư của ông chủ bớt xáo động trước cơ thể mới, và xem ra đã có vẻ biết quan tâm đến người thấp kém hơn mình, dù chỉ để san sẻ nỗi đau…

Nó mồ côi cha năm bảy tuổi. Mẹ nó bỏ ra thành phố với người đàn ông khác. Lão phải gà trống nuôi cháu. Khi nó học hết cấp hai, lão không còn khả năng cho nó học tiếp nữa, đành cho theo lão lên thuyền câu mực kiếm sống qua ngày. Rồi nó cũng trở thành một chàng trai vùng biển lực lưỡng. Vì giỏi bơi lội và sức khỏe tốt, nó được một công ty du lịch tuyển vào làm hợp đồng, chuyên giúp khách du lịch mạo hiểm lặn đáy biển. Nó say công việc lắm. Tối về nhà, nó thường kể cho ông nội nghe không biết chán về những rạn san hô, những đàn cá và muôn loài sinh vật kỳ lạ dưới biển. Nó đã thổ lộ với lão: nó muốn học bổ túc hết cấp ba, sau đó xin vào học ngành Hải Dương học, theo gợi ý của một du khách cảm phục lòng yêu biển của nó và hứa tạo điều kiện giúp nó thực hiện mơ ước.

Nó đã cầy cục xin, mượn biết bao là sách liên quan tới biển đảo: lịch sử, văn hóa, du lịch, kinh tế Biển, những thương cảng sầm uất của quốc gia Đại Việt… Lão đã thuộc tên nhiều cuốn sách nó mang về: Bảo tồn đa dạng sinh học dải ven bờ Việt Nam, Luật Biển Việt Nam, Kể chuyện Biển Đảo Việt Nam, Hoàng Sa-Trường Sa là máu thịt của Việt Nam, Lý Sơn đảo du lịch lý tưởng… Lão đang nhờ nó chọn đọc và giảng giải từ mấy cuốn sách mà theo lão nghĩ rất cần thiết đối với lớp người cùng đinh như lão. Tối đó, lão chờ nó về để đọc nốt cuốn Hoàng Sa-Trường Sa nghiên cứu từ sử liệu Trung Quốc. Mâm cơm lão để phần, nó không buồn động đũa bát, mặt nặng như chì. Gặng hỏi mãi, nó mới thốt lên nặng nhọc, như mếu: “Chết hết rồi”. “Cái gì chết?”. “Biển chết rồi… Các rạn san hô…Các con cá… Các con sò… Chết cả rồi…”. Nó ôm mặt khóc rưng rức. Chỉ hôm sau, cá chết nổi lên trắng xóa dọc biển hàng chục cây số, cả trên bờ lẫn dưới nước…

Lão kể đến đó thì chợt dừng lại khi thấy vẻ mặt nhăn nhó của ông chủ. “Đau xót quá! Đau xót quá!”. Ông chủ thốt lên. Lão làm vườn nghĩ rằng mình đã tìm được sự đồng cảm, nên hăng hái kể tiếp những diễn biến sau đó làm chấn động vùng biển quê lão và gây nên cả một cơn bão tâm tư khắp nước… Lão nghĩ đúng, nhưng lão không thể biết cảm thán của ông chủ chỉ chân thực trong giây phút đó, còn trong những ngày bi thảm của biển hơn tháng trước, tâm tư ông nghiêng nặng về mối lo quyền lực sẽ bị lung lay…

Lời lão kể đầm nước mắt khiến ông chủ cũng phải ngậm ngùi: Ngay hôm cá chết hàng loạt, thằng bé rủ hai người bạn mặc đồ lặn xuống biển. Chúng nó nhìn thấy một ống xả khổng lồ dài khủng khiếp chạy ngầm từ Tổng công ty X chọc thẳng tận đáy biển. Xung quanh và bên dưới ống xả, màu nước biển chỗ vàng khè chỗ đen tựa hắc ín, khắp một vùng rộng quanh đó không còn sinh vật nào sống sót, tảo biển và san hô cũng thâm xịt cả. Chúng vội ngoi lên trong nỗi kinh hoàng chưa từng gặp trong đời. Hai đứa sau đó gặp nhà báo và quan chức môi trường kể chuyện, rồi biến đi đâu mất, gia đình, bè bạn không ai biết mảy may tin tức.

Còn cháu lão lê về tới nhà mặt đã xám ngắt. Nó nôn thốc nôn tháo ra mật xanh mật vàng pha lẫn một thứ nhầy có màu sắc kinh dị. Đưa tới bệnh viện thì nó tắt thở, bác sĩ nói nó đã bị nhiễm độc rất nặng…

“Trời đất ơi, sao số phận nghiệt ngã lại rơi trúng cháu lão làm vườn tử tế này!”. Sau khi bật ra lời cảm thán, ông đang lựa lời an ủi lão thì thằng cháu đích tôn đột ngột phá tan sự nặng nề. Hóa ra, nó đã ở trong phòng ông từ bao giờ và nghe được hết mọi chuyện.

- Hai ông ơi, thế liệu người có chết nữa không ạ?

Ông nghệt mặt ra. Lão làm vườn cũng ngắc ngứ. Nếu là mọi khi, ông sẽ chỉnh thằng bé về cách xưng hô: không thể nói gộp hai ông như vậy, vì thế là xóa nhòa đẳng cấp giữa ông và người lao công thấp hèn. Nhưng một ý vụt đến tựa phần thưởng muộn mằn đối với ông: bản di chúc đang viết, ông sẽ thêm vào phần phân chia tài sản: dành một khoản lớn cho quỹ học bổng ngành Hải Dương học, một khoản nhỏ cho lão làm vườn…

- Ông nội ơi, cháu ra biển tắm đây.

Ông thở hắt. Lão làm vườn vội đưa ông cái khăn đẫm nước đắp vào mặt. Ông gần như gào lên giữa cơn nghẹn thở:

- Không được! Chưa được đâu cháu! Cháu không nghe chuyện vừa kể à? Biển nhiễm độc nặng rồi… Cá voi còn chết nữa kìa…

- Nhưng mấy hôm trước cháu thấy ti vi đưa hình ông và mấy bác cơ quan ông xuống tắm biển mà…

Ông á khẩu. Mắt cá đã trợn càng lồi hơn. Ông phải giải thích cho nó hiểu sự thật, trước mặt ân nhân của ông nhưng cũng là nạn nhân của sự dối trá mà ông là một trong những kẻ đại diện…

Lão làm vườn nhìn thằng bé như nhân vật trong cổ tích. Nhà lão không có ti-vi để chứng kiến cảnh ông chủ đáng kính cùng mấy người thân tín xuống biển tắm rồi ăn cua cá biển ngon lành trước ống kính máy quay. Nếu xem được, vốn là người thật thà lương thiện, chắc lão sẽ bật dậy kêu thật to: “Đừng ăn, đừng tắm. Biển đang rất độc! Sao lại làm thế!”.

Nhưng, người không hề có ý định đùa dỡn hoặc lừa bịp ai là cháu trai lão đã chết bất đắc kỳ tử. May sao, lão chưa có thời giờ để nghĩ tới cùng như vậy. Cảm thấy đã lưu lại quá lâu và hưởng quá nhiều tình thân của ông chủ, lão xin phép về: “Hôm nay là ngày làm tuần của cháu tôi. Nhưng nếu cần gì ông chủ cứ bảo cậu nhỏ đây ới một câu là tôi sang ngay”. Lão lật đật quay về.

Niềm lưu luyến cảm động của ông chưa kịp trào lên thì đã bị thằng cháu cắt đứt:

- Ông ơi! Báo chí nói là biển sạch rồi, cháu đi tắm đây. Sao cháu lại không làm theo lời ông…

Nói xong, không chờ phản ứng của ông nội cá-người, thằng bé chạy vụt ra khỏi nhà. Ông run lên, chính xác là giãy đành đạch lên giường, thân mình đã phủ kín vây cá.

Bố mẹ nó đi vắng. Bà nó thì đang nhảy múa trên lầu thượng. Ông phải làm gì để ngăn thằng bé lại? Nhờ hệ thống loa đài ư? Nhưng liệu thằng bé có chịu nghe? Lời nói và hình ảnh ông hãy còn rõ rành rành kia kìa…

Ông muốn như ảo thuật gia David Copperfield mà không đủ bản lĩnh. Nhưng biển đang ngắc ngoải chết thì bản lĩnh của ảo thuật gia cũng chẳng để làm gì…

Khốn khổ cho cháu ông. Biển đã chết rồi, bao giờ mới sống lại? Và thằng con trời đánh của ông, liệu có đủ tình yêu thương và trách nhiệm để chăm cho kẻ nối dõi tông đường?

Trong những giây phút cuối cùng thoát khỏi phận người để trở thành một con cá đích thực, ông đã cố níu kéo tình cảm cao cả của một con người: số phận và tương lai của đứa cháu.

Nếu lát nữa nó quay về, ông sẽ bảo nó viết thêm mấy dòng vào di chúc: “Sau khi tôi chết đi, nếu xác tôi được hỏa táng thì tuyệt đối không được rắc tro xuống Biển. Chưa làm được gì để cứu Biển thì xin đừng làm Biển bị ô nhiễm thêm nữa…”.

 

Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Hà Nội, những ngày Biển chết dọc miền Trung
Người chuyển bài - HNTN