Tuesday, January 30, 2018

Tình Trong Xâu Chuỗi Hạt - Thiện Tùng



Tình trong xâu chuỗi hạt

 


Đứng trên đê cao nhìn xuống, cái nhà nhỏ càng nhỏ, thấp lè tè dưới mặt đất. Hết nhảy đường đứt nầy đến đường đứt khác, Tín trước Tùng sau, men theo bờ ruộng về hướng nhà bà Hai, một cơ sở nuôi dưỡng lực lượng cách mạng trong thời kháng chiến chống Mỹ ở xã Song Bình, huyện Chợ Gạo.

Vừa đi Tín thỏ thẻ với Tòng: Nhà bả hồi đó rộng lớn cỡ nào anh đã biết, bây giờ chỉ vậy đó thôi, một cái nhà khiêm tốn, hay nói đúng hơn là cái chòi. Sau khi anh bị thương chuyển đi rồi, quân đội Việt Nam Cộng hòa thường xuyên càn quét vào vùng nầy, họ lùng sục trong địa hình rồi đốt sạch nhà cửa xung quanh. Họ cho rằng xóm nhà nầy là chỗ Việt Cộng dựa dẫm. Khi đốt, họ không cho chữa, không cho lấy đồ đạc ra, đợi cháy rụi hết họ mới chịu rút đi, chủ nhà chỉ còn than trời, trách đất.  

Sau vụ đốt nhà đó, cả nhà bà Hai, mỗi người chỉ còn một bộ đồ dính thân và một cây me bị lửa tạt sém hết nửa thân, hiện giờ nó cố gượng sống với những ngày tàn bên cạnh một khổ chủ.

Đến nơi, Tín rón rén bước vào nhà, vỗ tay đánh động rồi hỏi ngay:

– Bộ bịnh sao nằm chèo queo vậy bà ? .

– Gió bấc lạnh thấu xương, nằm co cho ấm .

Bà Hai ghé mắt sát rồi đấm vào lưng Tòng nói:

– Mồ tổ mầy, bị thương rồi biệt luôn, tao tưởng mầy theo ông bà rồi chớ! Bây giờ mầy ốm, tóc bạc lỗ chỗ khác xưa nhiều. Nếu gặp ngoài đường, không ai nói, tao sẽ mặt lạ với mầy ! .

– Đã hơn 30 năm rồi còn gì – Tòng nói.

Lũ nhỏ ùa vào, chúng há hốc miệng nhìn chòng chọc vào Tòng và Tín. Bà Hai nhìn lũ trẻ nói: Lũ con thằng Dững đó đà, vừa trai vừa gái bốn năm đứa lủ khủ. Nhà thằng Dững ở kế bên tao, nhà thằng Dừa ở kế bên thằng Dững – một dãi, ba mẹ con ở khít đeo. Nay tụi nó đi cắt lúa trả công cho người ta ở kinh dưới, gần nhà con Bê.

Thấy Tòng và Tín đứng xớ rớ, bà Hai giục mấy đứa nhỏ về nhà xách ghế. Mấy đứa nhỏ vụt chạy đi, bà lẩm bẩm: Cái giường xệu xạo thế nầy, nếu hai đứa bây chất lên nữa sập ngay, thanh tre mà hả họng hả hầu hết rồi !.

Mấy đứa nhỏ xách ghế tới, chui vào chỗ Tòng và Tín rồi ra cửa đứng tiếp tục nhìn vô. Bà Hai nói như lịnh: Hai đứa ngồi ghế đi, còn lũ nhỏ ra ngoài chơi, đừng đứng cửa nhìn vào không nên!.

Lũ nhỏ vừa dợm chạy, Tòng gọi giựt chúng lại, thay vì gói bánh xâm banh định cho má Hai, cho lũ trẻ tội nghiệp nầy. Tòng vừa chìa gói bánh ra, bà Hai hước lấy, miệng lẩm bẩm: Để tao chia, không thì chúng giành ăn móc họng với nhau bây giờ.

Tòng đưa gói bánh cho bà Hai cũng là lúc mấy đứa nhỏ đổi hướng nhìn – thay vì nãy giờ chúng nhìn Tòng, bây giờ chúng đổ xô nhìn má Hai, đúng hơn là chúng nhìn theo gói bánh. Chúng dõi theo coi Bà chia có đồng đều không.

Bà chia đều mấy cái cho mỗi đứa rồi đuổi chúng đi, trông chúng chỉ vừa lòng với hiện tại. Bao nhiêu bánh còn lại bà gói để trên nắp lu. Thứ bánh xốp xộp, mỗi đứa chỉ có mấy cái thấm vào đâu, tráng mép đã hết.

Câu chuyện người lớn vừa bắt đầu, lũ trẻ lại tràn vào, nhìn dáo dác rồi bu quanh cái lu, mắt đổ dồn vào gói bánh còn lại. Thấy vậy, Tòng mở toạc gói bành ra nói: Các cháu cùng ăn đi, hết thôi rồi ra ngoài chơi.

Lũ trẻ bao tròn cái lu, miệng nhai tay bốc, trong chốc lác đã hết sạch ký bánh mà xem mòi chưa thấmMột đứa nắm tóm miếng giấy trút vào miệng vớt vát những miếng bánh vụn rồi cùng vọt ra sân, trả lại sự yên lặng cho người lớn.

– Lũ mất dạy!…– bà Hai nói với vẻ bực bội.

 – Sao lại mất dạy, bảo đi lấy ghế chúng chạy đi ngay, ngoan đó chớ. Có lẽ chúng đói và thèm nên mới tươm tướp như vậy. Con nít, đừng chấp nhứt chúng trong việc ăn uống bà ơi?! – Tín nói đỡ cho lũ trẻ, xả căng.

 Bà hai nói với vẻ bực bội: Con nhỏ bự đầu nhứt trong đám, đã 14 tuổi rồi mà nó ăn vụng không nói được. Mỗi ngày tao nấu một lon gạo, ăn sáng, số còn lại để chiều, thế mà nó cứ lỏn vào ăn hết. Đi đâu tao đều khóa cửa lại, nhưng nhà nầy khóa cửa ăn thua gì, dừng lá xé, vạch vách chui vào thôi.Tao nói thứ gì ăn được hễ để hở là nó ăn, giữ mèo còn dễ hơn giữ nó. Tao nói nó ăn vụng thành tật rồi ! …

Bà Hai càng nói Tòng càng lường được nỗi khó khăn túng quẩn của gia đình và sự bất hạnh của lũ trẻ. Con những gia đình khá giả, bánh bao, sữa… mà chúng còn không chịu ăn uống, còn phùng thẩy. Tín nói đúng, do đói, do thèm nó mới đòi ăn. Đòi không được phải tự đi kiếm, nếu kiếm ngoài đường không có thì vào nhà, không cho thì lén lấy, ăn vụng chớ có chi là lạ?. Chúng nó chưa trưởng thành, đang như những con chim non, việc ấm no phụ thuộc vào ông bà, cha mẹ. Sao người lớn không tự trách mình mà lại trách chúng ?!. Tòng muốn giãi bày cảm nhận của mình như thế với bà Hai, nhưng sợ bà giận, cuộc viếng thăm mất vui, không trọn vẹn. Tòng lờ chuyện lũ nhỏ, sang chuyện khác:

– Sao bà cất nhà hẹp té, thấp lè tè, vào ra phải khòm, nếu không lá xốc vào mắt chớ chơi đâu?!.

– Tháng trước gió sập, mới cất lại tốn 200 lá xé vừa lợp vừa dừng. Ăn nhiều chớ ở bao nhiêu. Tiền bạc eo hẹp, nhà nhỏ cất cao coi sao được. Tao với còn không tới mái kia mà.

Tín bật cười khan. Bà Hai hỏi:

– Tao nói thế không đúng sao mầy cười ?

– Nói là nói người khác, chớ bà đi khòm cái đầu gần sát đất mà xốc cái nỗi gì. Đúng là nhà bà vào lòn ra cúi – cùng cười.

– Dượng Hai mất hồi nào ? – Tòng hỏi.

– Khi tụi bây rút đi khỏi vùng nầy, nhà bị đốt, ổng sinh ra bịnh khùng khùng điên điên, đi tầm bậy tầm bạ rồi mất tích luôn, kiếm hoài không được, hết tiền hết bạc, riết oải, lâu lắm rồi bặt tăm bặt tích không biết còn sống hay chết… Biết sao giờ, tao lập bàn thờ, lấy ngày ổng đi lần chót làm ngày giỗ. Bây thấy đó, có hình hẹo gì đâu. Năm chúng đốt nhà cháy cả giấy Căn cước. Sau đó xin làm giấy lại, bọn làng đú vời, ghét bỏ ở lậu luôn. Thằng Dững lớn thây cho nó vào du kích, đụng trận thương tích đầy mình, hiện giờ nó “nắng không ưa, mưa không chịu, nhác gió, kỵ mù sương”.

– Bà ở một mình rồi sống bằng cách nào ? – Tòng hỏi.

– Số ruộng hồi trước tao chia cho thằng Dững, thằng Dừa, chừa lại 3 công, tao đâu làm nổi, cho thằng Dững mướn, mỗi năm nó chung cho tao 12 giạ lúa, đủ ăn trong năm. Ngặt nỗi, năm nào thất mùa, thằng Dững nó không chung hoặc chung không đủ thì gay. Nó không có mà đòi cái gì, nó là con không lẽ tao đi thưa gởi nó coi sao được, chửi mắng nó chi cho thêm mỏi miệng.

Như sực nhớ, bà Hai hỏi: “Hai đứa bây có biết thằng Mười Kỷ không, nó làm chức gì đó lớn lắm ở Bến Tre. Hồi chống Mỹ, gánh nó ra vô nhà tao ấp lẫm. Cách đây mấy tháng, tao sang Bến Tre  tìm thăm nó. Người ta chỉ chỗ nó làm việc, đến cửa lính gác không cho vô. Tao tự xưng là người thân của thằng Kỷ. Họ báo vào trong, lát sau thằng Kỷ cho người ra cổng rước tao vô tận dinh. Gặp tao nó đâu có nhớ, nói tới nói lui nó mới nhận ra tao – đúng là thằng mau quên.. Lâu mới gặp nhau, thăm hỏi chưa cạn lời, nó báo bận đi họp hành gì đó. Nó nhét vào túi tao ít tiền và cho xe đưa tao ra đến bến xe. Sau khi nghe tao kể việc đi thăm thắng Kỷ, thằng Dững cũng mò qua bên ấy, nhậu quậy sao đó, bị thằng Kỷ rầy. Từ đó đến nay nó thụt luôn không dám bén mảng qua bên ấy nữa”.

Tín lẹ miệng: “Ổng Mười Kỷ một thời làm bí thư tỉnh ủy Bến tre, tụi nầy còn lạ gì về ông ấy. Nghe đâu ổng đã về hưu, cất nhà giống cái chùa ở cạnh cầu Gò Đàn, ngoại ô thị xã Bến Tre, bên bờ sông Cái Cối…”.

Bà Hai lại khoe: Mấy thằng cán bộ sống sót trong chiến tranh, đang làm việc ở Chợ Gạo nầy, có đứa nào không biết tao. Có lần tụi nó kéo đến đây thăm tao. Chúng nó nói, bà lớn tuổi ở một mình không nên, chú Dững là thương binh, chúng tôi sẽ đề nghị trên cấp cho bà cái nhà tình nghĩa, nếu không được cũng trợ cấp cho chú Dững khoảng 10 triệu đồng để sửa nhà chú ấy cho đàng hoàng hơn rồi rước bà qua đó ở cho có mẹ có con. Tụi nó nói tao nghe cũng phải. Nhưng đến nay chưa thấy gì, có lẽ còn lo cho những người khó khăn hơn gánh tao. Tao lo là lo cho thằng Dững, thằng Dừa, chớ còn tao thì yên bụng rồi, đã mua được cái thọ dưỡng già – đang gởi bên nhà thằng Dững. Tao ăn chay trường, gạo có sẵn, chỉ mua đậu hủ, nước tương về “tẩn lịm” với ba trái đậu bắp, đậu rồng, cà chua… trồng quanh nhà là xong việc.

Tòng nhìn bà Hai, cười, nói: Bà ăn chay riết chắc chết sớm, còn đeo chi xâu chuỗi lòng thòng cho thêm nặng?!.

Bà hai cúi mặt giây lâu rồi đứng dậy nói: “Hai đứa ngồi chơi, tao qua coi thằng Dững, thằng Dừa về chưa”.

Bà Hai đi rồi, Tín kéo ghế lại gần, ghé miệng nói nhỏ vào tai Tòng:

– Tôi đã bị rồi…, vậy là bả giận anh rồi đó !.

– Tao làm gì bả giận ?

– Anh phê bả ăn chay và đeo chuỗi chớ còn gì !

– Tao nói thế không phải sao ? – đâu lẽ chỉ vậy mà bả giận!.

– Thôi ông ơi, để tôi kể cho ông nghe: Cách nay vài năm, bả đến thăm tôi. Vợ tôi mua thịt cá làm cơm đãi bả. Khi dọn ra, bả nói tao ăn chay, làm lỡ bộ. Trong khi chờ vợ tôi đi mua đồ chay, tôi vui miệng khuyên bả nên ăn mặn để tăng sức và đừng đeo chi xâu chuỗi thêm nặng như anh nói. Cũng như hôm nay, bả ngồi lặng thinh hồi lâu, buồn bã phân trần: Mầy bảo tao bỏ xâu chuỗi khác nào bảo tao bỏ người thân của tao sao !  Người thân tao đông lắm, trong đó có mầy. Tao không biết chữ, mỗi hột trong xâu chuổi nầy là một đứa theo Cách mạng mà tao quen biết, tao coi chúng như những con tao. Từ sau Tết Mậu Thân (1968), lũ nó lần lượt hy sinh, sợ không nhớ nổi, tao làm cái gút ở giữa xâu chuổi, đứa nào hy sinh tao chuyển một hột về bên trái – phía trái tim mình. Mỗi lần chuyển là mỗi lần tao rơi nước mắt và niệm Phật. Tao ăn chay kỳ, niệm Phật tụi nó cũng chết. Tức mình tao ăn chay trường, niệm Phật hàng đêm, ấy thế mà lũ con tao vẫn tiếp tục chết. Xem đây nầy, hơn phân nửa số hột đã nằm bên trái.Tụi bây không biết đó chớ, ăn chay sướng ích gì, lúc đầu không quen xót ruột lắm, ngủ nghê không được, mắt thâm quầng, nhưng riết rồi nó cũng quen. Bây giờ, hễ hưởi mùi thịt cá là tao phát buồn nôn. Đây là xâu chuỗi bình thường, nó như bàn tính của người Tàu, nếu đem quăng nó bên đường chưa chắc có ai thèm lượm. Ấy thế,   có nó đỡ tẻ lạnh. Đêm đêm, tao lần từng hột chuỗi như mò về quá khứ để mà nhớ mà thương… Ăn chay, lần chuỗi kiểu của tao như lần mò xuống địa ngục chớ đâu phải tìm lên thiên đàng. Nói đến đó, bả nhìn vào em, rơm rớm nước mắt. Em lặng cả người, cổ nghẹn, không cầm được nước mắt.

Thấy bà Hai về đến cửa, Tín ngưng kể, làm tĩnh, hỏi vói ra:

– Hai đứa nó về chưa ?

– Giờ chưa về đến chắc là “đụng trận” rồi. Hễ đụng trận thì còn tính gì giờ giấc. Cũng đã tối rồi, trời sắp mưa, hai đứa về kẻo mưa đường trơn trợt khó đi lắm.

Trước mặt bà Hai, Tòng ôn tồn:

–  Do không hiểu, hồi nãy con vô tình nói có phần xúc phạm đến tình cảm riêng tư của dì, xin dì bỏ qua cho!. Đây là cái mền, con tặng dì phòng lạnh, khi nào tiện tụi con trở lại thăm dì .

– Bộ thằng Tín nói gì với mầy? – Thì vậy đó…, Dì cám ơn con.

Trên đường, Tòng tâm sự với Tín: Đúng là bà Hai nghèo dưới mức đủ ăn, từ cái bàn thờ đến tất cả những vật dụng trong nhà không có gì đáng. Chỉ cần đứng một chỗ trong nhà nhìn thấykhông sót những gì bà có, đặc biệt là không thấy dép ?!.

Với giọng trầm buồn, Tín phụ họa: Kẻ chết đuối không thể vớt người chết trôi. Thôi thì từ nay mình cũng làm theo kiểu “lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Theo em, cái nghèo hiện nay đâu chỉ đeo đuổi bà Hai, nó đeo đuổi bất cứ ai không còn đủ sức chạy đua với cuộc sống – kể cả  tôi và anh. Từ hữu sản biến thành vô sản thì dễ, ngược lại quá khó. Chẳng biết bọn tham quan ngày nay, lòng nhân ái của họ chó ăn hết rồi sao, cứ hết vun vén cho cá nhân đến xây trụ sở, đền đài, lăng tẩm…,bỏ dân sống chết mặc bây?.

Gió đổi chiều, mây đen sà xống thấp báo hiệu sắp có cơn mưa,Tòng giục Tín cố lên. Khi hai người sóng vai, với giọng trầm buồn, Tòng tổng quát: Rốt cuộc cũng chỉ thay đổi tập đoàn thống trị bóc lột nầy bằng tập đoàn thống trị bóc lột khác mà thôi?!”

Mỹ Tho, 26/01/2016

Thiện Tùng

304Đen – Llttm - VT

Ghi Chú:

Bài viết này của một người cộng sản, nội dung phần lớn nói về họ, có thể người đọc không đồng ý, nhưng ở đoạn kết luận, đọc xong, ít nhất cũng cho thấy tác giả TT đã nhận ra được sự khác biệt giữa cái suy nghĩ của họ ngày trước và bây giờ, dù có phần quá muộn, 304Đen xin được phép để quý anh chị nhận xét thêm.

Mưa Tháng Chạp - vkp Công chúa nhỏ


MƯA THÁNG CHẠP 

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Cuối năm Đinh Dậu vào đầu tháng Chạp
Cơn mưa bất chợt rớt xuống  Saigon
Có phải hai mùa mưa nắng chẳng còn?
Hay vì đất nước buồn đau than thở?
*Bổng nhớ con sông bên bồi bên lở
Thương người xưa... cứ trăn trở suốt đêm
Bờ bên nây lục bình trôi êm đềm
Bờ bên kia cuốn trôi cây trốc gốc!
*Bước lang thang người lữ hành cô độc
Ghé bến chờ lúc mỏi gối chồn chân?
Nhìn sóng xô cát cuộn dạ bâng khuâng
Thân phận hẩm hiu đường trần chán ngắt!
*Trăm năm dâu bể tưởng dài hóa ngắn
Mới ngày nào chìm đắm tuổi mộng mơ
Mà giờ đây bao ước vọng vỡ bờ
Chờ đón xuân sang ơ hờ lạnh nhạt
*Mưa tháng chạp có xóa tan ai oán?

 
Saigon cuối năm Đinh Dậu
vkp công chúa nhỏ

 

Xin Lỗi Tháng Tư - Bình Ngọc


Xin Lỗi Tháng Tư !


 
 
 
 
 
 
Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ ...lên đường " đánh Mỹ!"
Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!

Mụ lí trí!
Hùng hục vượt Trường Sơn.
Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!

Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!
"
Ba mươi tháng Tư" : Bên Thắng cuộc, hả hê!!!
Con trở thành kẻ "kiêu binh!" trong đoàn "quân Giải phóng!"

Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!
Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai???

Chỗm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!
Đáy xã hội, nhiều "dân oan!" mất đất.

Những nghịch lý, tai ương ... chồng chất !
Khoảng cách "sang, hèn" cứ rộng mãi ra.
Người ở "quê" không còn tha thiết với "ao nhà".
Tràn vào Miền Nam "ngoạ, chiếm, xâm canh ... từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ....!"

Ngay như nhà ta thôi!
Chỉ có mình tôi "gọi là : góp công giải phóng".
Chẳng tước quan gì! Mà cũng cả xóm kéo vào.

Người thì bán rau, lượm ve chai, giặt ủi, bán thịt chó, thuốc Lào ...
Thậm chí có cả lừa gạt, bảo kê, hút chích, đĩ điếm, bụi đời ...

Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người "ngoài ấy".

Còn đố ai tìm thấy bóng dáng người "miền trỏng!" hiện diện trên quê hương mình đấy?

Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang ???
Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).
Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!
Không hiểu vì sao nhiều người "bỏ tất ?" để vào Nam chen lấn, đua đòi?

Riêng tôi
Đã hơn sáu mươi năm, đang ở cuối cuộc đời .

Vẫn cháy bỏng ! Muốn được về nơi mình "chôn nhau, cất rốn!"
Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ "chạy trốn!"
Trốn khỏi "sai lầm !" những năm, tháng ... đã đi qua!

Trở về quê hương, cất lại một nếp nhà!
Tập làm nông, ngớ ngẩn tìm những mảnh gốm xưa, và "Hoài niệm!" thuở ấu thơ ....

Bỗng choàng tỉnh! Đôi khi tìm thấy mình trong đó.
Cửa, cổng nhà tôi cứ mở toang! Kể cả khi trời đang nổi giông, nổi gió ...
Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!

Xin lỗi ! "tháng Tư!"

Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!

Xin lỗi tất cả!

Cả những người "bên thua cuộc!"
Biết sao được !
Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc

Nhưng : Lẽ đời, Đen, Trắng phải phân minh!

Xin lỗi! "Tháng Tư!"

Hãy tha thứ cho mình !!! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.

BÌNH-NGỌC

 

Làm No Hay Cái Ăn Trong Những Ngày Nước Ngập - Ngô Tất Tố


LÀM NO

HAY CÁI ĂN TRONG NHỮNG NGÀY NƯỚC NGẬP

 

 

    Qua những rặng tre bị ngâm đã lâu, cành lá úa rực, xiêu đổ, chiếc thuyền nan của chúng tôi phải len lỏi, chỗ thì phải cúi đầu để chui qua những cây sắn đổ, chỗ thì phải đè một cành cây cổ thụ xuống nước, chỗ thì phải gạt những trà rào trôi nhấp nhô trên mặt nước đỏ ngầu và phải đẩy cong con sào mới vượt được cụm bèo tây ứ lại. Chiếc thuyền mỗi chốc chòng chành làm cho tôi lảo đảo, nhưng cái ý muốn mục kích cảnh điêu linh cùng khổ của dân lụt đã làm cho tôi quên cả nhọc nhằn. Một vùng nước mông mênh bát ngát, bao nhiêu những nhà tranh vách đất chỉ còn trông thấy những mái úp sập sè hình như những quần đảo ẩn hiện chập chùng theo làn nước bạc mà rập rờn như phao. Những thuyền nan, những mảng chuối nhấp nhô chen chúc tựa lá tre dưới những rặng cây lả lướt. Đàng xa kia, trên những gò, đống mấp mô thấy lố nhố những sừng trâu cong vắt; con đứng, con nằm, thỉnh thoảng lại nghe tiếng rống lên như báo cho chủ biết nỗi thèm rơm đói cỏ của nó Người ta bảo trận vỡ đê Đồn Vàng nước to hơn năm Quý Tị. Thằng bé chở thuyền cho tôi ngoảnh lên hỏi:

- Cậu định đi đâu?

Tôi thẫn thờ đáp:

- Đi đâu cũng được!

Thuyền qua một rặng trúc, nhìn vào bên trong thấy có ba gian nhà tranh xiêu lật lại đằng sau. Trước nhà, biệt ra một khu vuông vắn như một cái ao, tôi đoán chừng đó là cái sân. Trước sân đóng bốn cái cọc tre, trên bắc cái chõng, chiếc rổ đeo lủng lẳng một bên, chiếc sào vó ghệch lên thành chõng. Phía dưới là một cái mảng ghép bằng bốn cây chuối. Từ cái chõng đi vào trong nhà, có một cái cầu tre vắt ngang. Một người đàn ông, vóc rạc hom hem, đầu trọc tếu, ngồi thu hình trong chiếc áo bành tô rách mướp, nét mặt đăm đăm nhìn xuống tăm nước đục lờ. Tôi hỏi:

- Nhà ai đây?

- Đây là nhà bác ba Tụy.

- Rẽ vào chơi đã.

Thằng bé khom lưng lái mũi thuyền vào trước sân, len qua những cụm bèo tây đóng chuồng trong những chiếc vành nong kìm bằng chiếc nạnh tre có những bè muống, bè ngổ, bè dừa quấn quýt xung quanh. Bác Tụy trông thấy tôi, vồn vã hỏi:

- Kìa ông Ký đã về chơi đây ư? Các ông ở tỉnh về được dịp bơi thuyền chở mảng thế này thì thích lắm nhỉ. Mời ông lên đây, cái chõng này còn chắc chắn, ông ngồi chơi xem tôi kéo vó cho vui.

Tôi ghé thuyền sát cái mảng chuối, rồi bước lên. Bác khúm núm với cái điếu cày treo trên cọc, mời tôi hút thuốc, tôi không biết hút. Bác bèn lấy thuốc giắt trên kẽ tai, đặt vào nõ điếu, thổi cái mồi rơm, rụi than vào điếu, rúc một hơi thật dài, cái điếu rít lên như tiếng chim sẻ, một làn khói xanh từ miệng bác đưa lên khét lẹt, những cái xương sườn theo nhịp thở mà vươn lên rụt xuống trước cái bộ ngực gầy nhom. Mấy đứa trẻ lau nhau, nghe tiếng người lạ chen chúc nhau thò cổ ra trước mái tranh mà nhìn. Những cái bộ mặt gầy còm hốc hác ấy như thiếp một màu vàng lợt, làm nổi những cặp mắt trõm lờ đờ, đần độn. Tôi đưa đà hỏi:

- Thế nào, bác kéo cá có được khá không, cho tôi mua một bữa nào, có con nào to không? Ngồi kéo vó giữa sân cũng thú nhỉ.

Câu nói của tôi như nhắc bác chưa cất vó. Bác nhoẻn mép nhìn tôi, rồi vui vẻ pha trò, gạn bán mẻ vó bác sắp cất. Nói rồi khom lưng, bãi càng, kẹp đầu sào xuống dưới háng, hai tay giương thang, cất vó lên, giọt nước theo bốn gọng thánh thót chạy xuống, dưới lòng vó thấy hơi động, dần dần lên khỏi mặt nước, mấy cặp mắt nhìn cả vào, thấy mẻ vó được hai con cua kềnh và bốn con giếc con. Bác vơ vó vào để bắt, ngoảnh lại hỏi tôi:

- Ông trả cháu bao nhiêu?

- Độ một hào chứ mấy!

Bác cười khanh khách và nói:

- Nếu thế thì nhà cháu phong lưu chán!

Bác nói rồi ngoái tay với cái giỏ bỏ vào. Tôi điểm một câu chúc của phường hội tát:

"Sí sốc một chốc đầy giỏ" rồi nhổm lên nhìn vào trong giỏ thì mới có độ một vốc tay tép mại, hai con ốc nhồi và một mẻ vó bác mới bỏ vào sau. Bác khôi hài:

- Thế là nhà cháu đã được một niêu hai tay bưng rồi đấy ông ạ!

Thoảng tiếng trẻ con trong mái tranh đưa ra:

- Bố ơi, bố làm bánh đa cho con ăn.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Bác lại có cả nghề làm bánh đa nữa ư?

Bác ngặt nghẽo cười:

- Vâng, bánh đa nhà cháu là thứ bánh đa mới chế, chưa ai biết làm cơ. Ông ngồi đây, cháu làm cho ông xem.

Bác nói rồi chui vào trong nhà, một lát đem ra một nắm đất sét trắng, một cái mê rổ, một cái khăn vuông. Bác dúng cả khăn lẫn đất xuống nước cho ướt, rồi đặt lên chõng, căng thẳng chiếc khăn vuông, phiết một lần đất lên thật mỏng, đoạn đặt vào mê rổ, lại chui vào nhà, thổi lửa nướng. Chỉ trong chớp mắt, bác đã bưng ra, trông trong mê rổ thấy một lượt đất khô cong, lũ con bác kéo nhau ra xúm xít chung quanh rổ. Bác mời tôi thử nếm bánh đa bác mới chế, tôi ngẩn người chưa hiểu bác nói thật hay bỡn, thì bác tách ra một miếng bỏ vào miệng, nhai giòn khau kháu, lũ con bác cũng xô nhau bẻ lấy mà ăn một cách ngon lành. Bác bảo:

- Đấy là thứ quà vặt của các cháu, nếu ông biết thứ ăn thay cơm của nhà cháu thì cháu xin đưa ra để ông xem.

Bác nói rồi chui vào lấy ra một cái nồi đất to chìa cho tôi xem, và đố tôi biết là cái gì. Tôi thấy bác gạt một lần tép vụn ở trên, dưới lộ ra một lớp đen đen, xếp từng miếng mỏng như miếng bánh dầy. Nhìn gần lại, thì thoáng ngửi một mùi nằng nặng, khăn khẳn, như mùi thối tai. Tôi nín thở, lắc đầu xin chịu để bác giảng cho tôi nghe thức ăn quái gở ấy. Bác đắc chí cười rũ ra bảo tôi:

- Cũng đất đấy! Người ta bảo chết thì ăn đất, nhưng chính nhà cháu sống về đất đấy ông ạ! Món này là một thứ cơm nắm của nhà cháu, làm công trình hơn một tí. Mới đầu là lấy đất sét trắng về, vật đi vật lại như ta nặn đầu rau, rồi thái từng miếng mỏng như ta thái bánh dầy, đặt vào mủng, mẹt đem phơi khô. Khi dùng nó thì phải có nõn sắn lót thật dầy xuống đáy nồi, rồi mỗi lượt đất lại một lượt cá tép, rồi cho vài duộc tương. Bắc lên đun thì tra thêm tí nước cho khỏi khê, cứ nhỏ lửa đun mãi cho tương cạn cá chín, những cái béo của tương của cá ngấm vào đất sét đỏ như miếng hồng tầu thế là được. Tôi hỏi:

- Ăn như thế mùi mẽ ra làm sao?

Bác bảo:

- Nó quanh quánh như ta nhai miếng bánh dày, lại đậm vì có tương có cá đưa đi, không phải ăn đồ ngoài.

- Thế ăn vào có thấy gì không?

- Việc quái gì! Nó chỉ phải cái nặng bụng hơn các thứ rau cỏ khác. Lần đầu cháu ăn rặt đất thì thấy tanh tanh và chán lắm, ăn vào rồi hôm sau thấy mền mệt, chắc là không có béo bổ gì, cho nên cháu nghĩ ra cách om với cá thì ăn ra chiều dễ chịu hơn. Tôi hỏi:

- Ai bảo bác rằng đất sét ăn được?

Bác nói:

- Nào có ai bảo đâu, cũng là một cách ăn liều của cháu. Hôm nước vào đã già nửa tháng, trong nhà hết ăn, mẹ cháu phải ra tỉnh kiếm việc làm. Bữa sáng hôm ấy chỉ có mấy củ khoai lang đủ cho cháu ăn thôi, cháu đành nhịn đói, để anh em nó trông nhau ở nhà, một mình chở mảng ra cái ao trước cửa đình để lặn xuống đánh củ súng. Lặn ngụp mãi chưa dò thấy cụm củ súng nào cả, mà lòng không dạ đói, lặn mãi mệt quá. Cháu cố lặn một hơi thật dài, mò mãi chẳng thấy gì, bèn xắn vội nắm đất sét ngoi lên. Thấy chất đất vừa dẻo, vừa trắng, ngửi thấy tanh tanh, nhân lúc đói ngoạm chơi một miếng, nhai rồi nuốt đi, không thấy gì, ăn hết nắm đất, thấy đỡ cồn cào. Cháu liền bỏ cả củ súng, hãy xắn mấy cục đất đem về đã. Đương lềnh bềnh trên mảng chuối trở về, bỗng thấy mập mờ cái vó trôi, cháu mừng quá đuổi theo vớt được cả vó lẫn gọng là cái vó này đây. Cả nhà cháu mới ăn đất được dăm hôm nay, các cháu cũng chịu khó ăn cả, nhưng mới đầu chưa biết cách chế biến, ăn chóng chán lắm, cách om đất với cá này nhờ có cái vó nên cháu mới nghĩ ra. Tuy vậy, cũng cần phải đổi bữa luôn.

- Đổi bữa bằng gì?

Bác chỉ tay ra mấy đám trước sân:

- Kìa ngổ dừa, bèo tây, còn cụm rau muống là của quí nhất, hiếm nhất, cháu còn đương gây chưa dám ăn đến, vì chưa biết bao giờ nước ra khỏi làng. Trong những thứ rau ấy thì ngổ với dừa dễ ăn hơn, nhưng sợ ăn mãi nó cụt đi, cháu phải ăn độn thêm bèo tây.

- Bác làm thế nào mà ăn?

- Muối dưa cụm sen kia, vặt lá vặt rễ, chỉ để cái vú, phơi hơi tái đi rồi muối như ta muối dưa cải, lấy vỉ nén cho chặt. Giá không có muối mặn thì ăn nó chẳng khác gì nhai cái ngọn mía nhạt, mà lại lăn tăn ngứa! Thứ ấy là thứ đồ ăn, ăn kèm với cháo cám thì ngon tuyệt! Đã nửa tháng nay, cả nhà cháu không biết một hột cơm, hột gạo là gì cả, mà cám cũng ít có, vì chỉ hôm nào kéo cá được một vài con to, bán được dăm ba xu thì mới dám mua cám ăn, cám là thứ quý nhất, chỉ ăn cho có hơi gạo đó mà thôi, chứ ăn nó thì lấy đâu. Một hôm, cháu nghĩ buồn cười quá ông ạ. Đong được cám về, thằng bé lớn nhà cháu lấy nồi đổ nước lên đun, lóng cóng thế nào nồi vỡ, không đun được nữa. Cháu bèn vớt cám ra, nắm lại một nắm, ngoài trát một lần đất sét bỏ vào bếp nung. Thế mà ăn ngon hơn bánh khảo phục linh đấy ông ạ. Giá được rặt cám mà ăn thì còn nói gì nữa, khốn nỗi họ lại pha mùn cưa vào cho được nhiều lãi, thì ăn chẳng còn lý thú gì cả, chỉ thấy ráp sì thôi.

Tôi chợt trông thấy cây cau, cây nào cũng cụt cả, vội hỏi:

- Sao cau cụt cả thế kia?

Bác nói:

- Nó cũng đã chui vào mồm cả rồi đấy.

- Cau mà cũng ăn được ư?

- Ông tính cái gì vào lửa mà chẳng ăn được. Ôi chà, nghĩ cái nguồn cơn ăn cổ cau mà sợ. Lần đầu, cháu chặt một cái, bóc hết bẹ xanh rồi thái như thái măng phơi, cứ thế luộc rồi đem ra ăn: ăn rồi, bố con rạo rực nằm mất một ngày, chân tay cứ rời rã ra, bọt mép phèo ra, bụng vẫn tỉnh mà không sao cựa được, sau hỏi ra mới biết phải luộc bỏ nước đi, ngâm hết nửa ngày nữa mới ăn được. Ăn hết cau rồi, thấy làng nước họ đua nhau đi tìm củ chuối để ăn, cháu cũng vớ được vài cái đem về bung. Ăn nó có phần mát ruột mà chắc dạ hơn ăn bèo tây, rau ngổ, hơn cả ăn đất sét, đất sét phải cái nặng, làm rỗng cả ruột ra, về sau ăn cái gì cũng mãi mới no!

Nhưng củ chuối đâu mà ăn được hàng tháng trên mặt nước, chỉ được ít lâu là nó thối nhũn ra thì còn ăn gì được nữa. Cháu cứ ăn liều mà nhiều cái cả làng phải bắt chước cháu. Cháu còn nhớ một năm trời không làm lụt, nhưng phải năm đói kém quá, làng nước nhao cả lên. Mẹ cháu năm ấy lại vừa ở cữ, thành ra lúng túng với nhau, chẳng đi làm đâu được, ở làng chẳng ai mướn làm gì cả, cháu chỉ nghĩ cách ăn trừ bữa cái ni lại ăn trừ bữa cái kia. Lần đầu cháu đi qua nền Văn chỉ thấy một đám cải rừng, xanh tốt lắm, cháu nhấm thấy thơm thơm, liền hái một chét đem về ăn thử, thế mà luộc chấm tương ăn thú lạ; nhà cháu ăn ba bốn ngày làng nước mới biết thì chẳng còn gì cả. Cháu lại xoay ra tìm cách khác xem ra lợn ăn được cái gì thì người ăn được cái ấy. Một lần cháu ăn liều mà ngon. Đương mùa nhãn, cháu thấy ở chợ người ta vứt rất nhiều hột, cháu mới quét lấy được trên lưng thúng đem về. Lấy dao gọt hết vỏ đen đi, đổ vào ngâm một đêm cho hết chát, rồi tra vào nồi, bung như ta bung ngô, thế mà đem ra ăn cứ bùi nghìn nghịt như hạt sen, đã ngon lại chắc dạ; thế là cháu cứ tìm đi các chợ, để nhặt hết hạt nhãn đem về tích lại một gánh, vợ chồng ăn uống no nê mà chẳng ai biết cách ăn của cháu thế nào. Rồi sau họ biết, họ đặt vè để chế cháu, cho nên làng ta bây giờ đã có câu Nói dối thằng Trà, ăn ma thằng Tụy. ông tính thế có tức không, mình có ăn cắp ăn trộm của ai đâu, không có, ăn xằng ăn bậy cho qua ngày đoạn tháng, họ cũng chế, họ bảo là ăn ma ăn mãnh. Cháu thấy họ chế; tức mình giấu biệt những cách ăn độn ăn lót của nhà cháu cho bõ ghét. Cháu còn nhiều cách ăn giản tiện mà ngon, cháu chế biến cũng khéo, cho nên họ lo đói, cháu chẳng biết đói là cái gì, chỉ có ngon hay không mà thôi, làm thế nào cháu cũng có cái ăn, không chịu đói bao giờ. ông tính con sâu con bọ, con giun con dế nó còn chẳng lo đói huống nữa là mình, phải thế không ông?

- Phải, sống qua trong nạn đói mà vẫn giữ được lòng ngay thẳng, thật thà thì còn gì quý hóa bằng. Giá bác tài nấu nướng thế mà ra Hà Nội mở hiệu thì...

Bác phá lên cười, rồi tiếp câu nói của tôi: - Thì... cho chó nó ăn!... ông nhỉ?

Ánh nắng chiếu xiên qua nan chõng, chiếu xuống làn nước đỏ ngầu, gặp trận gió rung rinh trên mặt nước thành những đàn rắn ngoằn ngoèo. Một tảng vỏ mít lềnh bềnh trôi vào gọng vó, bác Tụy chỉ tay mà bảo:

- Kìa, tảng vỏ mít kia đã cứu sống vợ chồng con cái nhà cháu ba ngày đấy ông ạ!

Nói đoạn, lấy sào kều ngửi, lắc đầu:

- Hỏng, thối cả.

Vứt tõm xuống nước rồi kể tiếp:

- Thằng bé lớn nhà cháu năm nay lên tám. Ấy chính năm đẻ nó thì gặp trận đói to, vì hai năm mất mùa liền, nhân dân lại xao xuyến về dịch lệ. Nhà cháu quanh năm ăn độn, ăn lót, ăn thường, nhưng bu cháu mới đẻ, nếu cho ăn xằng xịt vào thì sợ ốm đau khổ cả mẹ lẫn con, cho nên dù sao cháu cũng cố kiếm cho mẹ cháu mỗi bữa một niêu cơm riêng để lấy sữa cho con bú, còn cháu thì ăn thế nào cũng được. Gặp nạn đói mới biết cái khổ của hạng sức dài vai rộng như chúng cháu, đi xin không ai cho, làm mướn không ai thuê, thế mà lại lâm vào cảnh vợ mọn con thơ thì lại càng khổ nữa! Hôm ấy trong nhà chỉ còn đủ gạo để thổi bữa sáng cho mẹ cháu, còn cháu thì có hai bát ngô bung. Ăn xong, cháu vác thuổng, bủa sang chợ, đón công xem ai mượn đánh gốc bổ củi thì cháu làm.

Ngồi từ sáng tới non trưa, chẳng ai hỏi tới, chợ thì vãn, bụng thì đói, mà chắc mẹ con nhà cháu cũng đang mong chờ bữa. Cái nông nỗi mong chờ vơ vẩn làm cho cháu nóng ruột bội phần. Tần ngần ngồi bên đống vỏ mít, ruồi nhặng bậu đen ngòm, cháu nghĩ cách ăn tranh chúng nó, bèn ngả nón bốc đem về, đổ vào rổ sề đem ra ao rửa sạch, gọt hết gai đi, rồi thái cả sơ lẫn cùi, cho vào nồi đun thật dừ. Tra mắm muối cho vừa vặn. Còn mấy chục bát hột tìm trong đống vỏ vẫn định luộc riêng, rồi nấu cháo cho bu cháu ăn, nhưng nó thấy cháu nhường nhịn chẳng đành lòng, nên cùng ăn cả. Cháu bèn giã cả hột cho vào thành một thứ canh vừa bùi vừa ngọt, ăn thú quá! Một điều sung sướng nữa là ăn vào, sáng hôm sau hai bầu sữa của bu cháu thẳng căng, thằng cháu bú no nê, không cằn nhằn như mấy bữa trước. Thế là mấy hôm sau cháu cứ việc đi chợ khuân vỏ mít về làm bữa, ăn rồi lại kỳ cạch thái phơi bỏ lọ, thứ thì lựa rặt cùi để kho ăn với cơm. Nhưng mà mít nó là giống có mùa, không thể trông vào đấy mà ăn mãi được. Cháu nghĩ ngay ra cách ăn bã đậu.

- Bã đậu chắc ăn chóng chán lắm thì phải, vì tôi ngửi mùi nó ngang ngang khó chịu lắm, nhất là khi nó đã ôi.

- Làm cho không có mùi ngang ngang, mà không bao giờ ôi được mới tài chứ! Cháu tìm ra cách ăn được, nhất định bí truyền, thành ra các tướng cũng bắt chước cháu ăn, rồi bỏ cả đấy ông ạ!

- Làm cách nào mà ăn?

- Khó gì đâu! Chỉ có mẹo một tý thì bã đậu đã thành một thứ xôi vò thượng hảo hạng! Mới đầu hãy tãi ra cái nia, phơi trong râm, nhưng đừng để cho ruồi nhặng đậu vào, thỉnh thoảng lấy đũa cả đánh đi đánh lại cho rời ra rồi cho vào chõ đồ, rắc thìa muối cho đậm, hơi bốc lên là bạt hết mùi chua, mùi ngái mà ông bảo là ngang ngang, muốn kỹ đem đồ hai lượt thì tốt lắm. Ăn bã đậu béo người, tuy mất tiền mua nhưng cũng rẻ, cứ bốn bố con nhà cháu, một ngày chỉ hai xu bã đậu là no phính!

- Mỗi năm bác phải ăn độn lót thế độ mấy tháng? - Quanh năm ấy ông ạ! Có chăng chỉ những ngày giỗ tết thì dù túng kiết thế nào cũng cố dành dụm kiếm lưng cơm quả trứng, thoi vàng nén hương cho tinh sạch. Những ngày ấy mới là ngày ăn uống sang trọng của nhà cháu, tưởng ăn một bữa hết hai hào chỉ, giá cứ quanh năm ăn thế thì núi cũng phải lở, ông nhỉ?

- Nhưng ăn rồi lại kiếm ra thì sợ gì ?

- Kiếm như chúng cháu nghĩ mà buồn! Chỉ mong một ngày được ba xu với hai bữa cơm no cũng còn khó thay, ấy bu cháu ra tỉnh chuyến này nếu ở được mỗi tháng một đồng kia đấy, nhưng mà...

Thoáng một vẻ buồn hiện trên nét mặt bác, tôi mỉm cười nói giỡn:

- Thôi lại nhớ mẹ đĩ rồi!

Bác cũng gượng cười nói chữa:

- Không, giá cháu nhớ thì cháu đã chẳng bảo đi, nhưng cháu chỉ lo nước Hà Nội chóng ngay xương lắm! Đi làm đỡ nạn mấy tháng khi về lại quen đi, không gồng gánh nặng nhẹ được thì khổ, ấy cũng nhiều người thế đấy, rồi sau vợ chồng sinh chán nhau hoặc bỏ chồng theo những anh bồi bếp để ăn trắng mặc trơn, nhiều anh mất vợ vì thế đấy.

- Có "tâm" là lòng, "ý" là lòng chứ, ai cũng thế thì còn ai dám đi làm lụng gì nữa. Vả lại bác gái nhà bác bồ chề xốc xếch thế thì việc gì!...

Bác nghe câu khuyên giải của tôi, nét mặt lại bình tĩnh như thường. Tôi bỗng nhắc bác:

- Kìa từ nãy tới giờ, mải nói chuyện mà quên cả cất vó? Dễ vợ chồng con sộp nó đem nhau vào ở cữ trong vó của bác rồi cũng nên!

Bác khanh khách cười, tay nâng sào vó, khom lưng rút khung gọng vó, nước sóng sánh chuyển động chiếc bèo tây đang đủng đỉnh trôi xuôi. Mẻ vó suông! Bác khoan khoan cho vó xuống, tôi thẫn thờ nhìn ánh nước rập rờn trên bức vách.

 
Ngô Tất Tố