Saturday, February 27, 2016

Hãy Để Em - vhp Hải Vân


Hãy Để Em

 
                            

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Xin cảm tạ anh

Những điều anh đã ngỏ,

Đã cho em trái tim ngọt ngào thắm đỏ,

Cả khung trời tươi mát một màu xanh.

Em cũng xin anh,

Đừng đưa em làm nàng tiên trên Cung Quảng,

Hãy để em loanh quanh với thế giới trần gian.

Nơi đây có nước mắt gian nan,

Có nụ cười cay đắng,

Có sớm nắng chiều mưa,

Có ngọt ngào tình bạn tình yêu,

Có ánh mắt nhìn em xa vắng,

Lẫn tiếng giận hờn trách móc thở than.

Có vòng tay ấm áp vỗ an,

Có hơi thở như từ muôn kiếp trước

Bủa vây em từng phút nạm vàng.

Đừng bứng em ra khỏi,

Đừng đưa em lên cõi Thần Tiên xa vời vợi. 

Em sẽ chết mòn chết mỏi

Trong tiếng nhạc hoan ca suốt buổi,

Mà nhớ thèm tiếng nấc khúc bi ca

Của thế gian lắm bụi... phiền hà.

Thế giới này đây mới thật là

Thế Giới Ngọc Ngà

Của Em.

 

Vhp.Hải Vân

(CA, 01-18-2011) 

 

 

 

 

 

Những Bóng Rợp Gợn Sóng - Không đề tên tác giả



NHỮNG BÓNG RỢP GỢN SÓNG

 
 


      Trên đoạn đường chưa đầy hai cây số từ nhà tôi ra khu trung tâm Saigon, phải vượt qua ba chiếc “lô cốt” do những người đào đường dựng lên. Từ lúc mới có, các lô cốt như vậy đã là nỗi ám ảnh khủng khiếp cho người lưu thông. Hãy cứ tưởng tượng, giờ cao điểm, hàng nghìn người nhích từng tấc đường, va quẹt, đụng chạm, càu nhàu, mắng chửi, mồ hôi nhễ nhại khi nắng ráo và ướt lem nhem khi mưa dầm. Nhìn từ xa, từ trên cao, lượng người nhúc nhích ở các lô cốt hệt như nghìn hạt đậu chuyển động siêu chậm men theo một làn ranh bằng tôn - nghìn hạt đậu là nghìn chiếc mũ bảo hiểm lắc lư siêu chậm.
Chẳng có gì thi vị toát ra từ cảnh tượng ấy.

Nhưng bỗng dưng sáng nay, tôi tìm thấy một niềm vui khác thường khi “bò” men theo một trong những lô cốt.
Sáng nay, đường Saigon nắng vàng trải như một tấm lụa khổng lồ quấn quít từng vòng bánh xe, từng bàn chân bộ hành. Khi dừng xe chờ các xe tải nặng vượt lên, tôi bị ép sát vào thành lô cốt. Và bỗng dưng, tôi nhìn thấy nó.
Nó, là những vạt nắng xiên xiên chiếu xuống thành lô cốt lợp tôn, in xuống lòng đường thành những bóng rợp uốn lượn như sóng.

Ký ức niên thiếu ùa về như thác.

Bạn hãy tưởng tượng cùng tôi nhé: những bóng rợp lượn sóng ấy, chia mặt đường thành hai mảng rõ rệt; một bên là nắng hanh hao, bên kia râm mát. Nắng xuyên qua tán lá cao vẽ xuống phố các vệt lung linh. Bạn hình dung ra cái gì nào?
Với tôi, đấy là biểu tượng sinh động của những ngôi nhà Saigon thời thành phố chưa đông dân như bây giờ. Saigon của những năm bảy mươi thế kỷ trước. Quang cảnh tưởng như không bao giờ thấy lại, giờ hiện ra ở một hình thái bất ngờ. Hệt như ảo cảnh sa mạc.

Nếu bạn có dịp đi thật chậm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo chiều từ Sở Thú xuôi về vòng xoay gần Hàng Xanh, hãy để ý một vài căn nhà phía tay phải, những căn nhà cũ không tu sửa, không nâng cấp, bao nhiêu năm rồi cũng vậy. Bạn hãy để ý những vệt nắng loang trên vỉa hè các ngôi nhà đó, xem chúng có lượn sóng hay không.
Và hãy so sánh với đường lượn sóng lúc bạn đi cạnh một lô cốt.

Saigon mà tôi lưu giữ trong tâm khảm, có những căn nhà như vậy, những vệt nắng như vậy, những đường lượn sóng mái tôn như vậy.

Nhà Saigon, thời xưa, mái lợp tôn. Nó làm Saigon khác Hà Nội, khác Huế. Mái tôn, tường vôi vàng, bóng rợp cây xoài cây ổi, khoảng sân nhỏ, tiếng cải lương từ radio.

Ở một trong những ngôi nhà như vậy, mấy mươi năm trước, tôi đã ngồi yên lặng cả buổi chiều. Ngồi yên để ngắm những bóng rợp tàn cây, mái tôn. Để nhìn những gót nhỏ đi dạo trên hè. Để nghe tiếng đàn piano lấp lánh như gương bạc của người thiếu nữ ấy. Một người nữ gầy mảnh, không trang điểm, một chiếc áo đầm vải bông in hoa giản dị. Những nhạc khúc Chopin, Beethoven, Debussy. Những ngón tay măng. Những ánh nhìn vô tư lự. Saigon của tôi, đẹp như vẽ, Saigon của tôi ơi!

Ở một trong những ngôi nhà như vậy, tôi đã ăn những quả đầu mùa non nớt hái từ cây rợp lá trong sân. Bao lơn đúc xi măng nhô ra trên đầu tôi - đầu chúng tôi - đã cũ lắm, đã đóng đầy rêu và chỉ chực sụp xuống. Có hề gì, nó sụp thì chúng ta cùng chết, tôi đã bảo nàng như vậy.
Ở một trong những ngôi nhà, có người tôi yêu, một thuở. Nhưng thật ra tôi có yêu nàng không, hay chỉ thông qua hình bóng nàng, để yêu thành phố này, yêu những ngõ phố mù bụi, yêu những buổi sáng nắng lụa và buổi chiều mưa sa? Hay chỉ thông qua nàng, để yêu chính tôi, chính thời niên thiếu của tôi?

Dẫu sao, đấy vẫn là Tình Yêu.

Tình Yêu làm nên tâm hồn tôi, một mảnh hồn nhạy cảm đáng thương hại, một mảnh hồn rung lên không dứt như sợi dây đàn dương cầm ở chỗ những phím trầm.
Saigon làm nên niên thiếu tôi. Từ đó, tôi dấn thân vào một cuộc hành trình vô định. Của nghệ thuật, của âm nhạc, hay một cái gì không phải thế, thì có khác gì?

Vì Saigon đã làm nên niên thiếu và bảo bọc ký ức tôi, tôi biết ơn thành phố này.
Để sẵn sàng “tha thứ” cho nó mỗi khi nó đẩy tôi và hàng nghìn “hạt đậu” vào vùng kẹt xe vĩ đại tạo ra bởi các lô cốt.

Bạn nghĩ mà xem, chỉ nhân một lúc kẹt xe, mà tìm thấy cả một vùng ký ức thất lạc. Có diễm phúc nào hơn thế?

Mời đọc tiếp bài viết của một người không đề tên, góp chút ý kiến về bài văn trên.
Theo tôi thì:
Kẻ trước người sau, người mới nhập cư thời hậu 75 cũng có cái luyến tiếc của một thời Sài gòn còn "tạm chiếm" . Tạm chiếm đây là VC tạm "tiếp thu", trước khi chiếm cố vĩnh viễn . Cái gì tôi có thể chia xẻ được với người viết trong bài "Nhũng Bóng Rợp Gợn Sóng" ?

Cái thuần Bắc và cái "đương đại" của người đến sau khi mà Sàigòn vừa đổi đời .

Ký ức của tác giả không thể là ký ức của người Saigòn trước 75 . Cái từ ngữ lô cốt làm tôi tưởng nhớ tới thời chiến, với chú lính Mỹ MP đứng gác cạnh anh Cảnh Sát VN bên các công sự phòng thủ của MACV...Người Sàigon sau này đã khéo léo châm biếm những hố đào trên mặt lộ là lô cốt . Nhưng với tôi, cái gì đã đập vào "não trạng" của tôi ? cái hình ảnh của mấy tên VC phơi thây bên lô cốt gần Tổng Nha Cảnh Sát trên dường Trần Hung Đạo , chứ còn gì nưa..

Khi VC tấn công đợt 2 sau Mậu Thân thì bọn SV chúng tôi được đoàn ngũ hoá lỏng lẽo, bi, gọi là lính bêbi-lắc, được phát súng carbin và quân phục kaki vàng, cho đi gác mấy cao ốc . Một buổi sáng tháng 4 từ sân thượng nhìn về đường Hồng Thập Tự khu đài phát thanh quân đội và sân vận động Hoa Lư, tôi đã thấy nhiều cụm khói cát nở lụp bụp như bông dù . Tiêng' nổ đi sau ngay khi đó, và tôi nhận ra ngay đó là pháo của Cộng quân, và ký ức này mãi mãi không phai mờ . Nếu VC pháo vào lúc chúng tôi tập trung tập quân sự ở sân Hoa Lư, thì những thằng lính sữa này đã tiêu đời rồi .

Saigon không chỉ có những ngày thơ mộng mà còn những ngày kinh hoàng . Nếu nhắc đến những mái tôn, vâng tôi cũng nhớ những mái tôn cong queo do đạn pháo, hoặc cháy sám một bên cây cột nhà còn lại . Một mái tôn lỗ chỗ vết nổ của đạn B-40 mà một thằng du kích nã vào khu gia binh của lính Cộng Hoà . Không biết mảng tôn kia có che được mạng người, để một ngày nào đó sau này cũng mọc lên được một cây xanh, một dàn mướp ?

Ngày đó chúng tôi chưa có từ ngữ "sao siêu", chỉ biết đến các tài tử VN, và mih tinh màn bạc Hollywood. Chúng tôi đứng trên balcon, tựa "lan can" nhìn trộm qua nhà hàng xóm mà nghe nàng ca vọng cổ ...dù là bắc kỳ di cư tôi vẫn không quen thuộc với từ ngữ "bao lơn" dù nó vẫn nhô ra trên tường vôi vàng . Người viết đã có cái lãng mạn vô tư, cái vô tư đáng yêu của người vị nghệ thuật , yêu Chopin, yêu Beethoven . Nhưng tôi thấy cái vô tư đó đáng ghét, vì vô tư mà không biết rằng trong ký ức của chúng tôi, những người mất SaiGon thì khác hẳn, chúng tôi nhớ đến anh lính kiểng Nhật Trường qua dòng nhạc " Dấu đạn thù còn sâu trên vách hao gầy.". Mặc dù biết đến cả Mozart, nhưng loại nhạc "giao hưởng" này nó không bám rễ trong lòng người , những người muốn sống và chết cho mảnh đất thân yêu . Không cần đến Chopin, vì "Người từ trăm năm về qua trường Luật " để " "Trả lại em yêu" mới là những giòng nhạc tiêu biểu cho một Sài Gòn, một thời để sống, một thời để yêu, và một thời để nhớ , và càng không có cái lãng mạng thời thượng của loại nhạc " thính phòng" -"giao hưởng" mang đến từ Mát cơ vạ

Đó mới là Sài Gòn , ký ức một thời .
304Đen - Llttm

Ngược Lối Yêu Thương - vkp Phượng ngày xưa


NGƯƠC LỐI YÊU THƯƠNG 

 Thầy và Trò

 


 
 
 
 
 
 
 
Thầy giáo trẻ, Trò tròn trăng
Trách chi Trò cứ băng khoăng mơ màng
Ngục tình tội lỗi hoang mang
Yêu thương trái đạo quên đang học hành
Ngày đêm mơ mộng loanh quanh
Khi Thầy biết được, cũng đành thứ tha
“Cố học giỏi, đời thăng hoa
Đỗ rồi vinh hiển, mẹ cha vui mừng...”
Lời Thầy , như đuốc sáng trưng
Soi đường dẫn lối, nay thân được nhờ
Lòng Thầy biển rộng khôn bờ
Ơn nầy chẳng thể xóa mờ trong tâm
Thầy Trò nghĩa nặng tình thâm!!!

 Cô và Trò

 Tuổi đang lớn, quá dại khờ
Nhìn cô giáo trẻ, Trò ngơ ngẩn hoài
Học hành sa sút mỗi ngày
Hậu quả thi rớt Tú Tài  năm sau
Nghiệp bính nếm trải khổ đau
Ngồi trên vọng gác dạt dào nhớ Cô
Chiến tranh tạo lắm khăn sô
Đếm sao cho hết nắm mồ thư sinh
Trách chi súng đạn vô tình
Trách Trò sao lại đem tình chôn sâu
Nhật ký còn đẩm lệ sầu
Cô đem cất giữ, nguyện cầu vong linh
Thoát siêu về cõi an bình!!!

 Saigon Ngày lễ Tình Yêu 14/2/2016
Vkp phượng ngày xưa

 

 

Huyền Thoại Và Vô Danh - Tuấn Khanh



Huyền Thoại Và Vô Danh
 
 

 

    Nhà ga Kami-Shirataki, Nhật, sẽ đóng cửa vào tháng Ba này, và mở ra một ký ức văn minh hết sức ấm áp cho nước Nhật cũng như cho thế giới. Nhà ga nhỏ nằm ở thị trấn Engaru, thuộc vùng nông thôn của Hokkaido, đã đột nhiên lừng danh từ 3 năm nay với việc duy trì phục vụ cho một hành khách duy nhất, là một nữ sinh đi học hàng ngày.
 
 
Câu chuyện Cơ quan Đường sắt Nhật Bản họp và quyết định duy trì hoạt động đầy thua lỗ này với mục đích là giúp cho một nữ sinh không gặp khó khăn trên đường đến trường trở thành huyền thoại trong thế giới hiện đại, vốn đang nghèo khó sự chia sẻ và lòng bác ái. Nhìn về nhiều phía, nước Nhật quả là đầy huyền thoại, và con người ở đất nước này cũng rất thông minh để biết cách tạo nên những huyền thoại lưu danh hậu thế.
Những câu chuyện như vậy trên trên giới thật hiếm hoi. Một phần vì đức năng đủ để tạo nên truyền kỳ không dễ, một phần khác là không phải những câu chuyện nào cũng được nhân gian biết đến. Chuyện nhà ga Kami-Shirataki làm tôi nhớ đến người lái đò ở Cồn Sơn, Cần Thơ. Vùng đất miền Tây lặng lẽ và hiền lành này nếu được ai đó viết lại, cũng là một chuyện truyền kỳ đáng ngưỡng mộ trong cuộc sống này.
    Để đi đến vùng cây trái xanh tươi cây trái Cồn Sơn, phải đi qua một con sông. Phương tiện duy nhất nối hai bờ là chiếc đò của chị Bé. Người phụ nữ có nước da ngăm đen, dáng người cục mịch nhưng khoẻ mạnh này mỗi ngày lái hàng chục chuyến đò miễn phí cho dân chúng ở Cồn Sơn, từ 5g sáng cho đến 9 giờ tối. Rất nhiều chuyến, chị chỉ chở một học sinh, thậm chí chỉ một con vịt được gửi qua bên kia bờ.
Chị Bé trên dưới 40 tuổi. Cũng không ai biết nhiều về chị, dù chị nhẳn mặt mọi người. Học trò xuống đò ra phố trốn học đi chơi, thế nào cũng bị chị gọi méc. Người đi làm công nhật bỏ bữa không đi, chị đã lo hỏi có bệnh không. Công việc của chị gần gũi đến mức ít ai nhớ người phụ nữ rất hay mắc cỡ, luôn im lặng này, đã tự mình dựng nên một con đò, rồi sống một cuộc đời miệt mài với những chuyến đưa đò không cần lấy lại với dân chúng. Từ năm chị Bé 15 tuổi, khi nhận ra qua con sông là chuyện khó của nhiều người, chị gom góp của cải và âm thầm chọn cho mình cuộc đời đưa đò như vậy.
Đêm hôm, nhà ai có sinh nở, chỉ cần ở bên bờ ới chị một tiếng, đã nghe tiếng máy nổ xình xịch chạy tới. Chị Bé không có ngày nghỉ, đến mức bệnh đang nằm liệt, nghe người gọi cần xuống đò, chị cũng lồm cồm ngồi dậy làm công việc của mình không một tiếng cằn nhằn.
Tên thật của chị là Nguyễn Hoàng Dịch Thuỷ. Cái tên đẹp và ý nghĩa như công việc ngày thường của chị. Ở Nhật, người ta giữ lại một nhà ga cuối cho một học sinh. Ở Việt Nam, người phụ nữ vô danh ở miền Tây xô vạt một con sông để chắt chiu một ngôi làng, 49 gia đình với già trẻ lớn bé không họ hàng thân thích gì với chị cả.
Có lúc thắc mắc, tôi hỏi những người chung quanh rằng rồi chị Bé sẽ sống bằng gì với sự cho đi thanh thản như vậy. Người thì nói rằng chị có chỗ giữ xe cho dăm ba khách du lịch, một cái tiệm tạp hoá con. Rồi mấy năm gần đây khi khách du lịch lác đác tìm đến, chị được chút ít tiền đưa đò cho khách. Tiền kiếm được thêm, chị Bé lo chuyện bị phạt vì đưa khách sang sông mà không có áp phao nên dồn mua đủ loại phao, áo… chất đầy trên đò.
Tháng ba này nhà ga Kami-Shirataki dự trù sẽ đóng cửa vì cô nữ sinh tốt nghiệp và vào đại học, sẽ ở lại trên thành phố lớn. Còn con đò Dịch Thuỷ ở miền Tây thì vẫn ngược xuôi, không hẹn ngày nghỉ. Phật dạy rằng gánh nặng lớn nhất trong đời người là yêu thương. Người đàn bà miền quê đó lặng lẽ mang hết những gánh nặng đó trong đời, với nụ cười chai sạm hết sức hồn nhiên. Con đò như đời người, như một công án thiền mênh mông, không màng lời giải.
Có những con người Việt Nam như vậy, như Bồ Tát đời thường, vẫn sống, vẫn đứng giữa mọi người trong từng ngày thường. Họ như những tia sáng le lói soi vào tim người, làm dịu đi những nan đề của đời khiến nhân gian sôi sùng sục học cách đáp trả, học cách bắt lấy thật nhanh danh lợi. Tiếc là họ luôn lẩn khuất trong cuộc sống đang vằn vện hào quang ảo tưởng.
Trong bài “Hai người gian dối trong cuộc chiến 1979” mà báo Petro Times đưa trong ngày 17/2,
tác giả có nhắc về hai nhân vật không có thật đã tung hoành trong trí tưởng tượng của nhiều thế hệ Việt Nam là Lê Văn Tám và Nguyễn Văn Bé. Hai nhân vật được dựng lên với nhiều chi tiết vô lý, thậm chí được đưa vào học thuộc lòng trong sách giáo khoa.
    Phải chi câu chuyện thấm đẫm tình người như nhà ga Kami-Shirataki hay con đò Dịch Thuỷ ở miền Tây được thay vào cho những nhân vật nói trên, biết đâu sự dữ dội giả tạo ấy trong sách giáo khoa sẽ nhường chỗ cho lòng bác ái và tình thương, cho nhiều thế hệ về sau?
Tôi coi bản video ghi lại lễ hội cướp phết ở làng Hiền Quan, Phú Thọ, bắc Việt Nam trong những ngày tháng Giêng, đầy những cảnh tranh cướp đánh nhau kinh sợ, e còn hơn cả những cảnh trong bộ phim giả tưởng Bụi Đời Chợ Lớn. Những cảnh chém heo lìa đôi oai phong lẫm liệt đến rợn người. Người Việt thật sự chỉ được học sức mạnh của các anh hùng, bao gồm cả những anh hùng bịa đặt? Người Việt chỉ được dạy khao khát sức mạnh như bom và xăng. Một ngày nào đó, liệu chúng ta có còn cơ hội để học về những con người bình thường – những con người không âm mưu danh lợi hay quyền thế, không chà đạp nhau mà chỉ muốn cho đi với sự bao dung như một con đò vô danh?

Ns Tuấn Khanh
304Đen – Đăng lại từ trang HNTN

Tuesday, February 23, 2016

Bắt Rượu - Tô Hoài


Bắt Rượu

 
 


    Năm ấy tôi về ăn tết quê nội Cát Động trong Hà Đông. Chưa đến hăm ba Tết ông Công. Đã qua lễ sắp ấn. Cánh đồng Thanh Oai phẳng lặng xám ngắt phất phơ, khói từng cuộn suốt sang tận làng Mai. Chẳng biết khói đốt gốc rạ sưởi ấm hay khói hun chuột.
Tôi theo u tôi về nhà bác Cả tôi ngoài xóm Động. Nhà nhà quanh co, kề bên ruộng vào xóm. Không phải qua cửa đình đằng bờ đê sông Đáy, mà người ra vào xóm đi tắt ngoài cổng đồng lên. Có lẽ ngày xưa, đây cũng là ruộng, rồi có người ra làm trại ở mới thành xóm, mà tên là xóm Động.
Đứng đây trông thẳng lên đường cái tây vẫn còn nghe vòng bánh xe sắt lăn rào rạo trên mặt đường đá và tiếng lá cọ xột xoạt theo nhịp chân chạy của người kéo xe tay bánh sắt đội nón mê khoác chiếc áo tơi lá như con cò lẻo khoèo bị hai cái càng tay xe đóng gông ngang ngực.

Bên kia, nước đồng chiêm trắng bong xuống tận Chuồn he, đồng Vàng giáp vùng trũng Ưng Hòa Phú Xuyên... Tiếng còi tàu hỏa tận cuối xa nghe như thuốn dài dưới làn nước lạnh. Tới bờ ao đã nghe táo tác, nheo nhéo trong cổng ngăn tiếng trẻ con học bài. Những cậu học trò vừa học quốc ngữ, vừa học chữ ta, có cái đầu cạo học, đầu mới để ăn tết, đuôi tóc hoa roi dài thòng lõng xuống giữa lưng.
Bác Cả tôi ngồi giữa đám trẻ con lau nhau nhấp nhô. Có đứa đương mài son mài mực trong cái nghiên. Có đứa nằm chổng mông, viết phóng. Có đứa ê a... a... òa... i.... oai... u... i... uếch.... uých... Cái roi mây của bác Cả dứ lên dứ xuống, lặng lẽ ghê rợn. Hai con mắt muốn bật con ngươi của mỗi cậu học trò liếc trộm cái roi.
Giữa lúc ấy ngoài đầu đồng có tiếng nhốn nháo. Người trong xóm nghểnh mắt lên trên rào bờ duối trông ra. Rồi giật thót mình, ngơ ngác. Từ ngoài đường cái giữa đồng, đương lúp cúp chạy vào một đám người. Mũ trắng quần áo vàng lốp. Lính đoan (tiếng pháp: douane, cơ quan thu thuế, bắt thuế thời Pháp) trên tỉnh về. Gần đến đầu bờ ao, trông rõ ra người Tây đoan đi đầu cao lênh khênh. Người Tây mặc áo vàng, quần vàng, tay cầm ngang cái thuốn sắt dài.

Đám người trong xóm luống cuống, sững sờ, không biết làm thế nào. Cho đến lúc chẳng biết ai ở trong bờ rào nào hét to tướng lên:


- Tây đoan về khám rượu!


Bấy giờ dường như mới nhớ ra, sợ quá. Tất cả ù té chạy. Trong lúc, Tây và lính đoan đã ập đến nơi.
Đám học trò quanh bác Cả đương thi nhau học gào từng chữ bỗng im bặt. Nhưng các cậu ấy hãi Cái roi của bác tôi vẫn không dám ngóc đầu trông ra.

Bác Cả đứng phắt dậy. Bác bước lại trước án thư. Bác nghiêng chiếc mâm bồng lấy ra trong chân mâm một cái chai dài ngoẵng. Trong chai đựng độ hơn cút rượu ngấn lên già lưng chai. Bác bỏ chai rượu lậu vào túi trong cái vạt áo năm thân ngay trước bụng. Rồi bác lại ngồi xuống chỗ cũ, chùm lên vai tấm chăn khố tải xùm xòe. Cầm chiếc roi mây - lại như lúc nãy, gõ đẹt đẹt xuống mặt chiếc phản mọt, nói dõng dạc:


- Đứa nào cứ yên chỗ ấy. Học đi!


Bọn lính đoan đã vào giữa sân. Người Tây đoan, tây lai, nói sõi như ta:


- Ông đồ ngồi bảo học à?
- Vâng ạ.
- Phải chắp tay nói: “Bẩm quan lớn nhà đoan vâng ạ” mới lễ phép chứ!
- Bẩm quan lớn nhà đoan...
- Nhà ông đồ có nấu rượu lậu không?
- Bẩm quan lớn nhà đoan, không ạ.
- Quan khám thấy rượu thì ông đồ đi tù mười tám tháng nhé. Sắp tết rồi mà phải ra tỉnh ngồi nhà pha, khổ vợ con lắm đấy!

Bác tôi chẳng biết nói thế nào, chỉ thỉnh thoảng buông một câu “vâng ạ” đánh nhịp ngẩn ngơ.
Người Tây đoan cầm chiếc thuốn sắt chọc lên bàn thờ. Cái thuốn nhọn hoắt như ngửi được hơi rượu, tinh thế. Nó đẩy nghiêng đế mâm bồng. Nhưng đế rỗng, chẳng có gì cả.

Tôi biết thế rồi, mà tôi vẫn run cầm cập. Có lẽ mặt tôi tái mét. Bởi vì chai rượu lậu vừa ở đế mâm bồng chui vào trong áo bác tôi, ngay cạnh đây thôi. Nó ngửi thấy hơi rượu thì nguy to. Tây đoan quay lại, hỏi u tôi:
- Cái nhà chị này đến cất rượu lậu về bán tết à?


Bác tôi nói:
- Không thím nó là người nhà ở ngoài tỉnh về chơi.


Tây đoan quát:
- Người nhà cũng khám.


Rồi Tây đoan nhấc cái tay nải nâu của u tôi lên. Đầu thuốn sắt gõ vào. Chỉ nghe tiếng lịch bịch sống áo vải. Tây đoan buông cái tay nải xuống. Rồi trỏ ngọn thuốn sắt vào bác Cả.
- Thày đồ giả vờ, thày đồ giấu rượu trong chăn. Chúng mày khôn lắm. Ông đã bắt được chúng mày cất rượu trong chăn nhiều lần rồi. Muốn sống thì bỏ cái chăn ra.

Nom bác tôi lúc ấy cứ như con gà mái ấp xòe cánh. Chưa kịp nhấc cái chăn trên vai, đầu thuốn của thằng Tây đã quều xuống. Bây giờ thì cái thuốn sắp chọc đến chỗ, chỗ chai rượu ở bọng áo bác tôi. Tôi cuống queo nắm quanh váy u tôi.

Cái chăn rơi xuống rồi mà bác tôi vẫn ngồi trơ ra đấy. Tôi càng sợ.
Tây đoan ngắm nghía, rồi lại quát:
- Thày đồ đứng dậy!

Bác Cả tôi từ từ đứng dậy. Hai con mắt toét nhoẻn viền vải tây điều của bác tôi vẫn gấp gay nhìn thẳng, chẳng khác lúc nãy. Người Tây đoan im một lát rồi lạnh lùng nói:
- Chỉ làm mất thì giờ các quan!

Rồi Tây đoan xách cái thuốn bước ra. Nhưng còn như nghi ngờ như tinh nghịch như quen tay lại thọc thuốn lên mái một cái nữa. Tàu lá cọ thủng, trông thấy lỗ tròn tròn lên trời. Tây, lính và các người xem ra cả rồi, bác Cả lại ngồi xuống. Nhưng đám học trò quanh phản đã biến mất từ lúc nào. Bọn lính đoan đi sục thuốn lắp các vườn và bờ rào quanh xóm. Xem có chỗ nào chôn giấu rượu, bã rượu. Không thấy gì cả bọn đùng đùng kéo vào xóm trong.

Đến tận trưa, đám lính nhà đoan khám rượu mới trở ra đường cái tây lôi theo nhiều thứ bắt được ở xóm dưới bãi. Cái nồi đồng ba mươi với lưng nồi bã. Một thúng gạo nếp đã vo sẵn. Mấy cái bong bóng trâu, có chiếc bẹp rúm, có chiếc đã phồng rượu. Đủ đồ nghề, cái cần trúc xe điếu chuyên nước cất, cái mai rùa gỗ, cái chõ... Nhà ai lắm đồ nghề nấu rượu thế mà không tẩu tán kịp? Chúng nó bắt được tuốt. Đứa nào báo Tây đoan mà để hại người ta thế. Tết nhất đến nơi. Bắt rượu được đích xác, chỉ bởi có đứa báo thôi. Định làm mẻ rượu bán tết mà hóa ra sạt nghiệp. Lại còn tù tội nữa.

Bọn lính đoan đi trước. Đằng sau lũ lượt người cung cúc theo. Không biết người nhà hay tuần phiên khiêng các thứ nhà đoan vừa bắt được.

Có cả chú bếp Mỡ hớt hải từ trong xóm ra chạy lẫn vào đám bắt rượu.
Nhiều người gọi:
- Chú bếp
Chú bếp Mỡ quay lại trông thấy tôi, nói to:
- A thằng cu Bưởi về quê ăn Tết à? Chú đi tù rượu đây. Mẹ con cháu ở nhà chơi nhé.

Đi tù rượu? Câu nói cứ ngọt như không. Tôi vẫn nghe kể ngày trước chú bếp Mỡ đã đi lính sang Tây. Khi về, chẳng có lon đội lon ách gì, chỉ được người ta gọi chức bếp, bếp Mỡ.

Sang tận bên Tây về rồi chú lại vẫn đi cày thuê, đào ao, rào vườn cho nhà người ta. Vẫn như ngày trước. Những buổi chăn trâu chú toàn kể các chuyện bên Tây. Về quê bao giờ tôi cũng đến nhà chơi nghe chuyện đường xa của chú bếp Mỡ. Chú ấy nói thế nào? Chú tù rượu. Chú đi tù rượu? Chú vừa rảo chân vừa xỏ tay khoác cái khố tải cười hí hí và nói thế.

Thím bếp Mỡ với lũ con đứng đầu xóm nhìn theo. Đến lúc cả bọn với các người nhà đoan khuất vào gốc những cây muỗm, thím bếp Mỡ trở vào, đi giữa đám người đương cười hê hê. Qua các ngõ nghe người ta nói cợt: “Thế là tự dưng giời cho nhà bếp Mỡ cái tết nhé sướng nhé.” Chẳng biết thím bếp Mỡ đùa hay thật, thím cứ chép miệng lẩm nhẩm: “Sướng, sướng quá!”

Thì ra Tây đoan khám rượu bắt được cái lò nhà ông Lý hào *  (người bỏ tiền ra mua chức lý trưởng được gọi là Lý hào) ngoài bãi ngô dưới bờ sông. Rõ ràng có đứa xấu bụng đi báo ăn thưởng. Nồi rượu còn đương đun. Không tẩu tán được mảy may.

Ông lý hào phải vội nhờ người đi bảo chú bếp Mỡ theo tang vật lên tỉnh. Nói một câu thế chú đã biết lệ. Có gì thì chú bếp cứ đứng ra nhận nhà chú nấu rượu rồi chú vào ngồi nhà Pha. Qua tết đã, sang giêng còn phải tù hay được về, đợi ra tòa xong rồi cái ấy sẽ liệu với nhau sau. Ở nhà, vợ con chú bếp được ông lý hào hẵng đưa món tiền chục bạc ăn tết đã. Bên làng Mai nhiều nhà nấu rượu lậu, có những người đã quen đi ở tù thay người bị bắt rượu như thế. Tù mấy ngày mấy tháng, đã có giá cả hẳn hoi. Có người ngồi tù thuê đến mười tám, hai mươi tháng. Chủ rượu ở nhà phải nuôi vợ con, lại đóng thuế thân cho người tù thay đến hai năm. Thôi thì đằng nào cũng vậy người khôn của khó ở nhà cũng phải mửa mật mới kiếm nổi miếng.

Cánh đồng vẫn im phắc. Không biết tại rét quá, người ta rúm lại hay vì giá buốt đến cóng cá mà tưởng ra như thế. Đám khói gốc rạ vẫn nghi ngút đằng xa càng vắng ngắt vắng ngơ. Bỗng một cậu học trò bấy giờ mới thò đầu chui trong gầm phản ra. Bác tôi điềm nhiên bảo anh trưởng tràng: Sang giêng, ngoài rằm khai trường nhé. Bảo chúng nó thế.

Rồi bác Cả rút chai rượu lậu trong bụng áo ra, lại cất vào dưới lỗ hổng ở chân mâm bồng, như lúc nãy./.

 
Tô Hoài

Người chuyển bài – Nhan TH

Em Về Trời Chợt Đổ Mưa - Thuyên Huy


Em Về Trời Chợt Đổ Mưa

 


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Em về trời chợt đổ mưa
Giọt lao xao nhớ giọt lưa thưa sầu

Cũng con đường cũ hôm nào
Gặp em bên phố chờ nhau tạ tình

Đất trời từ đó lặng thinh
Chiều xơ xác nắng chiều chênh vênh tàn

Ngập ngừng thu chở mùa sang
Mưa lùa tóc bỏ muộn màng lại đây

Tiếc thương rồi cứ hao gầy
Lá tơi tả rụng tháng ngày tương tư

Hẹn không còn nữa để chờ
Chấp tay che nổi dại khờ tiếc thương

Ngậm ngùi làm kẻ bên đường
Ngữa tay hứng giọt mưa luồng xót xa

Quên rồi những chuyến xe qua
Nửa đời còn lại chỉ là hư không

Vắng em sông vẫn một dòng

 

 
 
 
 
 
 
 
Thuyên Huy

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Một Ngày Với Mùa Xuân Hà Nội (Phần Hai) - Kim Thanh


Một Ngày Với Mùa Xuân Hà Nội
 
 
 
 
 
Phần Hai

 
Anh BĐQ đứng lên, khệnh khạng tiến tới quầy, hai tay thọc trong hai túi quần. Tôi bước theo, sợ to chuyện, và nhắc nhở “tụi mình vẫn còn là tù binh, chưa được phát giấy ra trại”. Anh hiểu, và nói một hơi:

- Cho tụi này năm tô phở bò tàu bay Hiền Vương, tái, chín, nạm, gầu, gân, sách, nước béo, giá trụng, hành trần, chanh, ớt, tương đen, ngò gai, nhiều bánh, nghe kịp không?

Ba cô, dĩ nhiên, nghe sao kịp, không hiểu, hay chỉ hiểu lõm bõm, trợn tròn mắt, tưởng anh nói tiếng Ấn Độ. Một cô, có lẽ tổ trưởng, xẵng giọng:

- Đây là cửa hiệu quốc doanh. Chỉ có một loại phở mà thôi, không có thứ gì khác. Rõ chưa?

Anh quay nhìn tôi, rồi ngó thấy cô “chằn” quá, liền xuống nước:

- Gõ gồi (rõ rồi). Ờ, thì cô bán cho năm tô đi. Và năm chai bia.

- Không có bia chai, mà chỉ bia “bốc” thôi.

Anh lại hỏi:

- Bia “bốc” là bia gì dzậy?

- Là bia hơi rót từ cái bình thủy tinh lớn kia, ông cụ nội ạ, chứ còn là bia gì nữa?

Tôi cười cười, cố tình nói đùa cho tình hình bớt căng thẳng:

- Nghĩa là chưa uống nó đã “bốc hơi” bay đi hết, phải không cô?

Nhưng cô quốc doanh nguýt tôi, rồi lườm anh BĐQ, mắt tóe lửa, như muốn nhai tươi nuốt sống hai thằng. Và bảo “trả tiền trước đi đã”, tổng cộng cả bia lẫn phở cho năm tên “ngụy” là 50 đồng.

Hai thằng trở lại bàn. Ngồi chờ mãi, gần nửa tiếng, mà phở, bia chưa thấy mang ra, anh lại bực bội, gõ chiếc muỗng vào cái ly nghe leng keng, rồi nói lớn:

- Sao lâu quá gồi mà không thấy ai bưng phở, đem bia ga dzậy cà?

Cô “tổ trưởng” từ quầy cũng to tiếng, đáp lễ:

- Đến đây mà bê ra, không ai hầu cho đâu!

Cả đám bật đứng lên, bước đến phía quầy, thấy một lô tô phở, không nước, làm sẵn đồng loạt từ lâu, nằm chình ình trên một cái khay lớn. Nghĩa là khách địa phương, rành thủ tục, chỉ có việc đến quầy trả tiền, lúc đó các cô “phục vụ” mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động ai nấy bưng tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái mỏng như lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở còn nhạt hơn nước ốc. Bia “bốc hơi” thì khỏi nói: không khác chi nước trà lên men.

Ăn uống tạm no, nhưng còn ấm ức, anh trung úy BĐQ rút điếu thuốc Điện Biên ra hút, mơ màng nhả khói, như triết gia Jean-Paul Sartre trên vĩa hè Paris, rồi than nhỏ với tôi: “ĐM. Cái gì cũng quốc doanh, không khá nổi. Phở, bia, hay cha, thầy, sư quốc doanh gì cũng đều cà chớn gáo (ráo) trọi”.

Ra đường, gặp một toán khác đi ngược chiều –khoe vừa mới nhậu thịt chó xong. Hỏi ngon không, thì một anh hậm hực trả lời: “Ngon gì mà ngon. Thịt chó quốc doanh chỉ có độc mỗi món luộc chấm với mắm tôm, không ớt, mùi tanh lắm. Nhưng lỡ trả tiền rồi, cũng phải ráng nuốt thôi. Thịt chó Hà Nội gì mà bết bát hết sức, thua xa thịt chó Hố Nai”.

 

IV. Rồi năm đứa chia tay nhau, đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Hẹn trở về ga Hàng Cỏ trước 7 giờ tối, hoặc sớm hơn. Còn ít nhất bốn tiếng nữa để mà giết. Làm gì cho hết nửa ngày nữa?

Tôi nẩy ý muốn đi xem phong cảnh Hà Nội. Bèn vẫy một chiếc xích lô. Phu xe là một thanh niên trên ba mươi, tên Tứ, dáng dấp khỏe mạnh, nói nhiều, giọng Bắc Khu Tư (Vinh). Tôi thương lượng:

- Anh chở tôi đi chơi vòng vòng xem cho biết Hà Nội, cứ đạp từ từ, đến chỗ nào cũng được, tùy ý anh, trong ba tiếng, rồi chở tôi trở lại ga Hàng Cỏ trước 7 giờ. Anh lấy bao nhiêu?

Anh mau mắn đáp:

- Dạ, bèo lắm thì cũng 40 đồng đấy anh ạ…

Tôi vừa ngồi lên nệm xe, anh đã đề nghị đi Hồ Hoàn Kiếm trước. Hà Nội đang còn mùa xuân, hai bên đường hoa nở rộ, thắm tươi. Những cành đào nặng trĩu hoa, rực rỡ một màu đỏ hồng, cong xuống, la đà theo gió. Thấy tôi mải mê ngắm nghía một cách thích thú, Tứ góp chuyện:

- Còn một loài hoa nhỏ, chỉ nở từ tháng 3 đến cuối tháng 4, tức tháng này, trắng xóa ven đường, lại tỏa hương thơm nhè nhẹ. Tuyệt vời, anh ạ. Đó là hoa sưa... Đấy, anh ngắm đi, kia kìa, đúng là một cảnh tuyết, giống ở Sapa...

Tôi hỏi lại:

- Hoa sưa hay hoa sữa?

- Dạ sưa. Du khách Sài Gòn ra, ai cũng lộn.

Dọc đường, ít thấy xe hơi, xe gắn máy hay bộ hành qua lại. Du khách ngoại quốc, hay Việt kiều, cũng vắng. Một thủ đô đang hấp hối hay đang ngái ngủ, tôi có cảm tưởng, lạc hậu nhất trên hành tinh này. Lãnh đạo tự phong toàn là một lũ thất học, ngu đần, lúc bấy giờ còn say men chiến thắng, còn bận nhiều việc: trả nợ cho hai nước “anh em vĩ đại”, Liên Xô và Tàu Cộng, trả thù người chế độ cũ, lùa hàng trăm ngàn tù binh “ngụy” vào rọ “học tập cải tạo”, đày dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà của họ, vơ vét và chia chác của cải từ Miền Nam khuân ra Bắc, khoác lác khoe khoang với thế giới rằng “VN đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, Pháp và Mỹ”, và “VN chúng tôi có quá nhiều anh hùng, vừa ra ngõ là gặp anh hùng”... Nên chúng chưa có kế hoạch phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh.

Xích lô chạy một hồi, đến hồ Hoàn Kiếm lúc nào không hay. Tôi bước xuống, đi bộ lên thảm cỏ xanh. Những nhánh liễu ven hồ, rũ xuống, tàn lá lưa thưa, không đủ “che nửa mặt hoa” (Bạch Cư Dị) của những cô gái trẻ ngồi tâm sự bên tình nhân, trên ghế đá. Tôi thấy họ có vẻ ngượng nghịu, lúng túng đến tội nghiệp khi nắm lấy tay nhau, nói chi ôm nhau, hôn nhau. Thương cho họ. Và ở một cảnh ngộ khác, thương cho chính tôi và những chiến hữu bất ngờ trở thành tù binh, không kịp hẹn trước với Định Mệnh, vừa đứng trước cổng trại giam là đã phải bỏ lại tất cả: quá khứ, vị lai, tình yêu, ước mơ, và thảm não hơn, hy vọng. Dường như những cặp tình nhân này mới dưới quê lên thành phố, hoặc vừa được Bác và Đảng “cởi trói” cho phép yêu nhau, sau tám năm “chiến thắng” Miền Nam, trong khi Bác và bè lũ, những con yêu râu xanh thời đại, tha hồ “đồi trụy”, vợ nọ con kia, mà mồm cứ phun ra những lời sặc mùi đạo đức giả.

Những tia nắng lấp lánh đuổi nhau trên mặt hồ. Nhìn xa thấy màu nước đẹp lung linh, xanh như một tấm thảm rêu trải dài. Gần bờ, trái lại, nước hồ quá bẩn, có chỗ lềnh bềnh những rác rưởi, giấy báo, bao ni lông, lon, ca, cóng do ai vứt xuống bừa bãi, tắt nghẽn, không trôi đi được. Trước kia, tôi đã đọc trong một quyển tiểu thuyết và nghe các ông bạn lớn tuổi, chính gốc Hà Nội ba mươi sáu phố phường, kể rằng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm thời trước 1954, sạch sẽ lắm, là nơi tụ họp vui chơi cuối ngày, và cuối tuần, của đông đảo dân Hà Thành, có những kiosques bán kem và lạc rang húng lìu nóng dòn, có giọng ca nhí nhảnh của Joséphine Baker phát ra từ đĩa nhạc xưa, “J’ai deux amours: mon pays et Paris...”, nhưng bây giờ, đứng đấy, tôi không nghe, không thấy gì hết. Cũng như, theo lời Tứ kể, ở Hồ Tây, mà anh ngại xa không muốn chở đến, không còn những chiếc périssoires(thuyền thoi) –mà dân Đà Lạt rất quen thuộc trước 1975, trên hồ Xuân Hương. Hay người Cộng sản không biết ăn kem Bờ Hồ, không biết nhai lạc rang, không biết nghe nhạc Pháp, không biết bơi thuyền thoi, cho đó là sản phẩm của Thực dân, Đế quốc? Vua Lê Lợi nếu sống lại chắc sẽ căm giận lắm về những hậu sinh khả ố, mất dạy, mê muội hiện tại, nhắm mắt theo đuôi chủ nghĩa Cộng sản khốn nạn. Tôi cầu xin, khi mùa đông về, mưa bay lất phất, rùa thần nổi lên mặt hồ, cho ngài mượn lại thanh kiếm báu để chém bay đầu bè lũ chúng nó, như trưóc kia đã chém bay đầu Liễu Thăng và giặc Minh...

Rời hồ Hoàn Kiếm, Tứ chở tôi dạo một vòng Bưu điện gần đó, là một tòa nhà đồ sộ xây theo lối Tây, và xa hơn, những “phố” (thực ra là những con đường) Huế, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng... mà tại mọi góc đều có Công An đứng gác, súng ống trang bị đến tận răng, mắt cú vọ nhìn gốc cây nào cũng thấy “phản động”, mặc dù đất nước đã thanh bình lâu rồi.

Khi tôi ngỏ ý muốn đi thăm Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Tứ lẩm nhẩm tính:

- Đến Văn Miếu thì phải vòng trở lại ga Hàng Cỏ, qua phố Hàng Lọng, theo phố Sinh Từ...

Tôi cắt ngang:

- Anh có nói, tôi cũng chẳng biết phố nào là phố nào. Thôi, tôi nhắm mắt để anh chở tôi đi đường nào cũng được.

Như tên gọi, đó là một khu “miếu” lớn, với lối kiến trúc cổ xưa, từ thế kỷ XV, trang nghiêm, thanh nhã, gồm một gian thờ Khổng Tử và môn đệ, một lầu vuông tám mái gọi là Khuê Văn Các, nơi bình thơ của các sĩ tử, cạnh giếng Thiên Quang mà hai bên tả, hữu thấy dựng hai hàng bia đá khắc tên tám mươi hai vị đỗ tiến sĩ, qua các triều đại. Trên cổng ngoài cùng có vẽ hình hai con cá chép theo điển tích “cá vượt vũ môn”, ngụ ý người học trò đi thi được ví như cá chép phải vượt ba đợt sóng dữ, tại cửa sông, mới biến thành rồng, chỉ sự thành công tột bực. Chứ không phải, tôi nghe ai kể, các thí sinh thích ăn cá chép, theo cách hiểu của đa số học sinh XHCN bây giờ. Bước đi, tôi thấy người bỗng thoát trần, xa rời tục lụy và thực tế tối đen, xấu xí hiện nay, để lòng nhẹ tênh. Như bay bổng trong không gian và thời gian lồng lộng. Như nghe tiếng thiết tha gọi vê từ đáy Hôn Dân Tộc thanh cao của bốn ngàn năm văn hiến và từ những trang Sử Việt oai hùng qua bao dòng đời hưng phế, với Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn... những triều đại bị bọn “đỉnh cao trí tuệ” Trường Sơn chê là phong kiến, lạc hậu, độc tài, mà người dân vẫn được tự do đi lại, vẫn được ăn no mặc ấm, vẫn được vua chúa thương yêu như con, vẫn được học hành đến nơi đến chốn theo truyền thống nhân bản, vẫn được gọi mời tham gia vào công cuộc trị nước và giữ nước. Mà những tiến sĩ, đang hiện diện trong Văn Miếu kia, được vinh danh và trọng vọng nhờ vào thực tài, đức hạnh, chứ không bởi văn bằng dỏm, văn bằng lậu, văn bằng tậu được do tiền bạc và mánh mung, như trong thời kỳ đồ đá, đồ khỉ, đồ đểu hiện nay...

 

V. Từ giã Văn Miếu, thấy còn dư một tiếng, tôi đề nghị Tứ chở đi xem giếng ngọc của Trọng Thủy và Mỵ Châu –mà chuyện tình diễm ảo và bi thảm đã ám ảnh, mê hoặc hồn tôi, từ lúc còn trẻ cho mãi đến bây giờ, hơn bất cứ chuyện tình diễm ảo và bi thảm nào trong văn chương thế giới, kể cả Tristan et Iseut hayRomeo and Juliet. Tứ đáp:

- Xa lắm anh ạ, tận mãi Cổ Loa, quận Đông Anh, phía Bắc, cách Hà Nội 16km, không đi xích lô được, vả lại không kịp giờ lên xe lửa đâu.

Đành trở lại ga Hàng Cỏ, trước giờ qui định. Trao tặng những anh giữ-hộ-viên-túi-xách một bịch chuối ép khô mua tại cửa Bưu điện, và kể sơ về chuyến du hành bằng xích lô. Hai cán bộ đã có mặt. Rồi lục tục, các đồng tù trở về “trình diện” kịp, hay trước, giờ, vì không ai dại, làm lỡ chuyến tàu xuôi Nam. Đúng 8 giờ tối, tất cả lên tàu, ngồi trong một toa, do “trên” (nhà nước) dành riêng, sau khi cán bộ đọc tên và phát cho từng người giấy ra trại, kèm theo lời dặn dò, hay mệnh lệnh chót, “các anh nhớ thi hành tốt lệnh quản chế địa phương, và phấn đấu làm ăn tốt, xây dựng xã hội chủ nghĩa, đừng trốn chạy ra nước ngoài”. Hai tên cán bộ ở lại ga, và chúng tôi hoàn toàn tự do, từ đây, ít ra trong đêm đó.

Tàu khởi hành trễ nửa giờ. Chạy khoảng một tiếng thì ngừng lại tại một ga nhỏ, đón khách “nhảy tàu” (buôn bán lậu trên xe lửa) ra Bắc và trở vào Nam. Đa số là phụ nữ Miền Nam, còn trẻ, biết có một toa tù cải tạo được thả, họ đem hàng đến gửi, nhét đại phía dưới ghế ngồi, vì qua kinh nghiệm, tin rằng công an không bao giờ vô lục khám. Chúng tôi thông cảm, để mặc, và ngược lại họ mua bánh trái đãi đằng để trả công ơn đồng lõa. Vài người, mà thân nhân còn trong tù cải tạo, đứng nán lại, hỏi han, tâm sự. Và bất ngờ, tôi được biết trong số có một chị là vợ của một trung úy, đồng đội K1, không được thăm nuôi, đói, nhưng rất có bản lĩnh, tư cách. Tôi nói nhỏ với chị:

- Ảnh đói lắm. Chị ráng thu xếp ra thăm ảnh một chuyến.

Chị bật khóc, nước mắt đầm đìa, trả lời:

- Em biết. Và thương ảnh lắm. Nhưng nhà nghèo quá, phải nuôi đàn con nhỏ nữa. Khi nào dành dụm được chút ít, chắc chắn em sẽ ra thăm ảnh.

Cảm động, tôi móc từ túi quần được một nắm tiền, chừng hơn 100 đồng của trại trả lại, kín đáo đưa tặng chị, nói để “mua quà cho các cháu”. Chị không nhận, và vì tế nhị, tôi không nài ép. Cách đây hai năm, tình cờ tôi gặp lại anh chị –qua Mỹ theo diện HO, và làm ăn khá giả, con cái thành đạt– tại nhà một người bạn chung. Sau ba mươi năm, chị nhìn tôi, xa lạ, không nhận ra là ai, và tôi cũng không nhắc gì về chuyến tàu đêm năm cũ ấy.

Tàu chạy thâu đêm, qua những địa danh lịch sử, tôi chỉ nghe nói đến mà chưa hề thấy tận mắt, như Hà Tĩnh, quê hương tuổi nhỏ của đại thi hào Nguyễn Du. Hay Quảng Bình, nơi sinh quán của Tổng thống Ngô Đình Diệm, với Đèo Ngang nổi tiếng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan và sông Gianh phân chia ranh giới Bắc Nam giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, thế kỷ XVII. Khi đến Cửa Tùng, An Du Tây, Quảng Trị, quê nội tôi, trước khi tàu qua cầu Bến Hải, tôi nhìn chăm chú ra ngoài, như một phản xạ, nhưng không thấy gì cả ngoại trừ một vùng đồng ruộng tăm tối, bao la. Tự nhiên, một cảm giác xa lạ, trống vắng xâm chiếm tâm hồn. Và thấy đắng chát trong cổ họng... Bởi một nơi không đến bao giờ, và không có một chút kỷ niệm, dù là quê cha đất tổ, cũng chỉ là một chấm đen trên bản đồ. Tôi gục đầu xuống thành cửa sổ, muốn khóc. Bỗng nhớ ba tôi quay quắt, đã mất không lâu trước đó, mà tôi không được gặp mặt.

Ngược lại, tại sân ga Huế, sáng trưng ánh đèn, một cảnh sinh hoạt náo nhiệt diễn ra, dù đã quá nửa khuya. Khi những em bé bán bánh, nước trà bắt gặp chúng tôi ngồi la liệt trong toa đặc biệt, biết là tù “ngụy” trở về, liền báo động cho những đồng nghiệp lớn tuổi, và một đám các bà, các o chạy túa đến, reo vui: “Sĩ quan cải tạo về kia tề, anh mô cũng đẹp trai hết, không như mấy cha bộ đội. Thấy các anh cực khổ mà thương chi lạ!”. Vài anh thò đầu qua cửa sổ mua bánh, chuối, thịt gà chiên, nhưng họ không lấy tiền. Lại còn, khi tàu chuyển bánh, chạy theo, ném thêm qua cửa sổ...

Sáng hôm sau, tàu ngừng tại ga Nha Trang, lúc 9 giờ. Tôi thuê xích lô trở về nhà. Xuất hiện tại cửa như một bóng ma hiện hình. Mẹ và Bội Trân đứng sững giây lâu, rồi cả hai ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở. Tôi hôn lên má, lên tóc Mẹ, và qua vầng trán nhăn nheo và mái đầu bạc trắng, ngậm ngùi tưởng nhớ dung nhan của Mẹ ngày xưa và tình thương bao la suốt đời Mẹ dành cho từng đứa con. Tôi nhìn Bội Trân, người em kiều diễm của tôi, sau ngày đất nước đổi chủ, đổi tên, đã bị trời xanh quen thói má hồng đánh ghen bắt chịu nhiều nỗi truân chuyên, như người chinh phụ trong Đoàn Thị Điểm. Ôm em trong tay mà tưởng như ôm một khối tình sầu hóa thân chất ngất, chưa tan, mà biết rằng em, qua dòng lệ mừng cho tôi, cũng đang khóc nhớ hôn phu –một phi công, vì em không đi, đã ở lại Sài Gòn sáng 30 tháng 4, để bây giờ vĩnh viễn gãy cánh, nằm xuống tại một nơi nào trong trại tù Thanh Phong. Bởi em buồn, tủi phận, tôi cũng thấy hồn mình nát tan, không muốn bộc lộ nỗi vui được thả, không muốn kể gì về những trại tù đã đi qua... Xem tất cả như một chương đời khổ nạn khép lại, một cơn ác mộng phải quên. Cho riêng tôi, và cho giùm em gái và những người vợ tù khác.

 

VI. Ba mươi hai năm qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến. Từ Mỹ, tôi đã đi thăm nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao quên được hình ảnh Hà Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình ảnh cố đô Thăng Long cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ nước. Thăng Long, hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi cưỡi thiết mã bay về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt, sang sảng ngâm bài thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia Việt Nam, cách đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...”, trước khi xuất trận đánh tan quân xâm lược. Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng, đồng thanh quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với câu nói, có một không ai trong lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” –là danh tướng duy nhất trong quân sử thế giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (tức nhà Nguyên), hùng mạnh nhất lúc bấy giờ, bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông Âu, Nga, Trung Đông và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị bắt, với thái độ hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến nằm gai nếm mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục nhân tâm diệu kỳ, “Lấy trí nhân thay cường bạo”. Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân thần tốc lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, tổng đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng chết với thành Hà Nội. Của toàn dân, qua các triều đại, đã sát cánh với vua, quan, tướng lãnh đánh đuổi bọn Đại Hán xâm lược, mà dù là Ân, Ngô, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xưa kia, hay Mao (Cộng) ngày nay –tất cả đều là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

Cũng như tôi không sao quên được hình ảnh, ngược lại, điêu tàn của một Hà Nội mà tôi đã gặp vào một ngày mùa xuân 1983, cổ lỗ và rách nát trong tay giặc Việt Cộng. Dưới sự thống trị của bọn lãnh đạo ma đầu thay nhau tự phong, ngu dốt, tham tàn, phản bội dân tộc, rước voi về giày mả tổ, thấy kẻ thù là run như cầy sấy, nhưng đối với dân thì hung bạo, đánh đập, bắn giết, bỏ tù. Hà Nội trong mắt tôi, ngày xuân ấy và nhất là bây giờ, dưới xích xiềng giặc Việt Cộng, chỉ là thủ đô của hận thù, của hạ tiện, của xảo trá, của băng hoại về mọi giá trị đạo đức, xã hội, giáo dục, kinh tế, an sinh và lương tâm. Chỉ là biểu tượng của một đất nước mà dân nghèo phải đầu tắt mặt tối, bươn chải kiếm sống, mà học sinh phải đu dây qua sông để đến trường, mà dân giàu lo ăn chơi, trụy lạc, say xỉn, mà tướng tá và công an được mua bằng tiền, tự biến thành chó ngựa, cung cúc phục vụ chế độ phi nhân, mà tất cả, trong những hoàn cảnh sống khác nhau như thế, cũng đều quên đi nhiệm vụ cao cả do tiền nhân giao phó: đứng lên chiến đấu giữ nước, trước hiểm họa Bắc thuộc do Tàu Cộng đang mưu toan với chiến thuật mới, mềm dẻo hơn, tinh vi hơn, nghĩa là bằng chính tay những thằng lãnh đạo Việt Cộng.

Hà Nội ấy, một lần đi qua, tôi sẽ không bao giờ trở lại, dù chỉ một giờ, một phút, nếu tổ quốc Việt Nam yêu dấu chưa sạch bóng nội thù Việt Cộng, nếu người dân chưa, hay chưa thể, đứng lên tiêu diệt bọn lãnh đạo bây giờ, và ném vào sọt rác lịch sử cái chủ nghĩa Cộng sản quái thai, quái dị, quái đản, đã ngự trị từ hơn ba phần tư thế kỷ trên đất nước tang thương, bất hạnh này –đã vô phúc sản sinh ra một tên Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, còn bỉ ổi, ghê tởm hơn Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.

 

VII. Khát vọng và ước mơ tuyệt vời đó về một Việt Nam tương lai phi Cộng sản, tôi lo, khó thành hiện thực cho tôi và những ông bạn chiến binh già, trong cuộc đời này. Thời gian vô tình cứ trôi đi, và bóng đời cứ nghiêng đổ, mà giật mình ngoảnh lại, thấy chưa làm gì được cho đất nước thân yêu còn mãi quằn quại trong nanh vuốt Việt Cộng. Có thể không kịp nữa. Họa may, kiếp sau. Nếu Thần Chết không bắt chúng tôi bỏ lại tất cả mọi hy vọng, khi bước qua bờ tử sinh. Và nếu trongInferno, thi hào Dante cũng tha, cho những kẻ đứng trước cửa địa ngục, hình phạt nặng nề nhất, tức là phải mang theo mối tuyệt vọng đời đời. Lasciate ogni speranza voi ch’entrate(Hãy vứt bỏ tất cả hy vọng, hỡi các ngươi đang bước vào, iii,1).

 

Portland, 1 tháng 2, 2016

Kim Thanh

304Đen - Llttm