Một Gia Đình
Độ
ấy, tôi hay đi chơi tối. Sau bữa cơm chiều, tôi đứng hóng mát ngoài hiên một
lát, rồi đi bách bộ về phía chợ Hôm. Nhà tôi ở một ngõ hẻo lánh gần bờ sông,
phải đi qua những phố rộng, lặng lẽ và tối tăm dưới những vòm lá cây đen sẫm.
Từng quãng, một ngọn đèn điện nhỏ, lắc lư như người say rượu, lay động một vùng
sáng lờ mờ vàng. Tôi lặng yên bước, nghe tiếng gót giầy vang lên trong đêm
vắng. Thỉnh thoảng ngước mắt nhìn qua kẽ lá, một miếng trời xám hay vài ngôi
sao ánh sáng trong và mát. Thong thả, tôi đi vào bóng tối, trong lòng bình tĩnh
như vào nhà một người bạn. Đêm ở Hà thành dịu dàng, thân mật khác hẳn với những
đêm âm thầm, mênh mang đầy sự kinh hoảng của thôn quê.
Ra
đến phố Huế, tôi có cái cảm tưởng vào một thế giới khác, rộn rịp, đầy ánh sáng.
Tiếng cười ồn ào, lẫn với tiếng xe cộ, tiếng rao hàng. Bóng người đi lại. Trước
những gian hàng sáng trưng, một đám người ngồi nói chuyện hay một bọn trẻ con
nô giỡn. Những cảnh tượng ấy tôi đã quen lắm, nhưng mỗi lần tôi lại thấy trong
lòng đầm ấm hơn lên. Sự cô tịch, dầu êm ái bao nhiêu, cũng vẫn giấu chút hương
buồn. Và bỗng rời sự quạnh quẽ đến một nơi đông đảo, sáng sủa, lòng người tự
nhiên vui vẻ lên, sung sướng hơn, như sống lại cái cảm giác xa xôi của ông cha
đời thái cổ trước ánh lửa trại.
Những
lúc ấy, sự vui vẻ ngọt ngào hơn, nếu ta được nghe những giọng điệu du dương của
cung đàn tiếng hát. Có lẽ vì thế mà không bao giờ tôi quên được vợ chồng nhà
chị Tạc. Tôi không biết chị ở đâu, nhưng cứ vài ba hôm, vợ chồng chị lại đến
ngồi ở góc đường, hát xẩm. Chồng kéo nhị hay gẩy đàn bầu, vợ hát. Thằng cu con,
độ sáu, bảy tuổi, nhem nhuốc, cái áo cánh nâu rách ngắn để hở rốn, ngồi nghịch
cái chậu thau đã han rỉ, dùng để đựng tiền.
Lần
đầu tới gặp cái gia đình nhỏ ấy là một buổi tối oi bức. Không một ngọn gió. Hơi
nóng hấp ở đất xông lên, nồng nực, đầy cát bụi. Tôi sắp sửa gọi xe để đi tìm ít
gió mát ở nơi khác, bỗng ngay đầu phố cất lên tiếng hát của chị Tạc, trong vắt
như nước suối, ngân nga, gợi lên một cảm giác mát và nhẹ nhàng. Tiếng đàn bầu
họa theo, vang lên những tiếng khóc trong. Lũ trẻ con đương chơi bóng trên hè
dừng lại. Một đứa kêu:
-A!
Xẩm. Lại nghe đi.
Chúng
chạy xô ra đầu phố, rồi đứa đứng đứa ngồi, ngây ra nhìn và nghe. Mấy người hóng
mát ở gần đấy, dừng câu chuyện ngồi lặng yên lắng tai. Mọi người đều quên cả
nóng bức. Tiếng hát mỗi lúc một cao, người đến xem mỗi lúc một đông.
Chị
Tạc giở đủ giọng, chị đi từ giọng Bắc, nhanh nhẹn, lưu thoát, sang giọng Nam,
chứa đầy nỗi buồn mênh mang. Toàn những âm điệu hồn nhiên, rung động lòng
người, đưa tâm hồn đến những thế giới tình cảm xa xăm, đầy thơ, đầy mộng, đầy
hương thơm. Chốc chốc, chị ngừng hát, nhưng trong yên lặng, dư âm của lời ca
vẫn còn xao xuyến trên dây đàn của linh hồn. Giọng trong trẻo của chị Tạc bắt
theo điệu đàn trong khiến tôi mê mẩn tâm linh như hòa hợp với những thời ký
vãng mung lung. Tôi sống lại cả một thời thơ ấu, đương ẩn náu trong nơi vô giác
của tâm linh; tôi say sưa hưởng hết cả hương vị của những tiền kiếp nào, xa
xôi, mịt mù, và trùm qua ký ức ấy, một tình cảm nhớ thương không bờ bến.
Từ
hôm ấy, không mấy ngày tôi không đến nghe vợ chồng chị Tạc. Thằng cu con đã
quen mắt, thấy tôi là nó cười, bỏ chiếc chậu thau chạy lại. Có khi tôi đưa nó
một xu, một trinh, nhưng thường thường tôi mua cho nó một chiếc kẹo. Nó thích
lắm, giựt lấy rồi vội vàng chạy về chỗ, cắn, nhai cả cái giấy bọc. Vợ chồng chị
Tạc biết tính tôi, thi nhau khoe tài, chồng nắn nót từng tiếng đàn, vợ cất
giọng thật trong theo những điệu tôi chưa từng nghe. Thế nào cũng có một vài
điệu chèo là những điệu tôi ưa nhất. Những điệu ấy, chị Tạc hình như quen lắm.
Tôi thấy lúc chị dễ dàng hát thay đổi những bài chị đã thuộc, mặt chị khác hẳn
đi. Mắt chị ngày thường lờ đờ, bỗng sáng hẳn lên, khuôn mặt trái xoan răn reo
quá sớm như trẻ lại. Tôi sực nhớ đến câu bình phẩm mà tôi đã được nghe một buổi
chiều nào:
-Nhà
chị xẩm này hình như ngày xưa đi hát chèo thì phải!
Có
lẽ chỉ là một câu đoán phỏng của một người nghe thấy chị Tạc hay ca giọng chèo,
nhưng tôi không thể đừng nghĩ ngợi bâng khuâng. Lắm khi, ngồi nghe chị, tâm trí
tôi vẩn vơ trôi theo dòng tưởng tượng. Chị Tạc là một đào có tiếng của một gánh
chèo, nhí nhảnh, nũng nịu, một nụ cười tinh ranh luôn luôn nở trên môi thắm.
Chị theo gánh hát đi hết nơi này đến nơi khác; qua những cánh đồng lúa non, gió
thổi giạt xuống như tấm thảm nhung lay động, qua những ngọn đồi tím, trơ trụi
mấy cây thông giơ thân hình khắc khổ, men những vùng cát trắng, những ruộng
muối đỏ, mơ màng nhìn những cánh buồm nâu cắt hình lên mặt biển màu ngọc bích.
Chị đi, vui vẻ, không lo, không nghĩ, như một con vật non, sống cái đời phiêu
bạt, chìm đắm trong tiếng hát, cung đàn. Đêm đêm chị lại thay hình trở nên cô
công chúa nõn nà dưới dải mũ rung rinh ánh sáng, hay cô thôn nữ thơ ngây, áo
nâu non, thắt lưng cá vàng, ngồi bán nước dưới gốc đa. Con mắt sắc của chị đã
say đắm bao nhiêu trai làng khăn lượt, áo thâm; giọng hát trong của chị đã đem
lại cho bao nhiêu người vất vả một chút quên, quên những nỗi cực khổ hằng ngày
để đắm đuối trong âm thanh.
Thế
rồi, một ngày xuân ấm, lộc cây đầy nhựa, chị gặp người yêu.
Tôi
nhìn anh Tạc, gầy ốm trong mảnh áo rách, nước da đen xám vì dãi dầu. Thủa ấy,
có lẽ anh là một trang niên thiếu phong nhã, yêu âm nhạc, cảm thanh sắc, bỏ nhà
cửa theo gánh hát của cô đào xinh xắn đã cướp đoạt lòng anh. Hai người đã sống
trong ái tình; những đêm thanh vắng, chị đã biết bao lần cất tiếng ca nỗi lòng
u ẩn để riêng anh rạo rực nghe; những buổi chiều vàng rực, linh hồn của hai trẻ
đã từng hòa hợp với lá, với cỏ xanh non hơn dưới ánh nắng sắp tàn.
ánh
chiều qua, ánh chiều lại qua. Chuỗi ngày ái ân bao giờ cũng ngắn ngủi. Thời
khắc trôi, và trôi theo tuổi trẻ, tình yêu và hy vọng. Gánh hát tan. Anh chị
đưa nhau về ẩn một nơi thôn quê trầm tịch, nhưng người ta không thể chỉ sống
bằng ái tình và nước lã. Hai người đã cố tìm việc làm, đã dầy dạn nắng mưa, đã
biết đời cực nhọc.
Cũng
như những con ve không biết phòng xa, anh chị đã phải sống trong sự cùng khốn.
Bây giờ đây, sống tạm bợ cho qua ngày, hai người có lẽ không còn nhớ những tình
cảm ngây ngất, những giây phút mãnh liệt thuở trước nữa. Sự nghèo khó đã in vết
răn trên trán. Người lam lũ chóng khô héo. Tôi ngồi nhìn vợ chồng chị Tạc, bây
giờ không tìm thấy dấu vết cuộc đời xưa. Trên nét mặt hai vợ chồng, tôi chỉ còn
nhận thấy vẻ nhẫn nhục của những người nghèo khó. Không lúc nào hai vợ chồng
còn nở được một nụ cười vui vẻ; họa hoằn một đôi khi tiếng trinh, tiếng xu ném
vào chậu thau liên tiếp, vẻ mặt hai người mới sáng lên một chút. Lúc đó, chồng
nắn cung đàn, vợ cao giọng hơn lên, nhưng chỉ còn là mong đợi được người ta
thưởng nhiều hơn. Không bao giờ chị còn hát cho chị nghe nữa, cho chồng chị
nghe nữa, mà chồng chị cũng không còn rạo rực như xưa; chị, ngày nay, chỉ còn
hát để mà nuôi thân.
Những
ngày hè oi nồng đã hết, và cũng đã hết những ngày trong sáng của mùa thu ngắn
ngủi. Gió bấc đã bắt đầu đuổi lá bàng trên những con đường vắng, và tiếng sếu
kêu lạnh đã vang động trong đêm khuya. Con gái nhà giàu mặc thử những bộ áo
nhung ấm, con nhà nghèo rét run trong mảnh áo rách.
Đêm
đến, đường sá vắng tanh, không có vẻ đông đúc rộn rịp nữa. Cuộc sinh nhai ngoài
phố càng thêm khó khăn; càng ngày càng thấy vắng người dừng chân nghe vợ chồng
chị Tạc. Họ vội vàng đi về những căn nhà ấm cúng, hưởng sự êm đềm của gia đình,
không ai nghĩ đến những cảnh đời thiếu thốn chung quanh. Tiếng xu rơi vào chậu
thau mỗi đêm một hiếm, và tiếng hát của chị Tạc không thấy cao lên nữa.
Thỉnh
thoảng, tôi vẫn gặp hai vợ chồng chị, nhưng gió mỗi lúc một rét, tiếng đàn
tiếng hát mỗi lúc một nhanh; và những buổi mưa phùn lạnh lẽo thì điệu Nam ai
gần hóa ra điệu Binh bán. Thằng cu con trời rét mà vẫn mặc có cái áo cánh rách;
mẹ nó chỉ bó thêm vào mình nó một manh chiếu con để che gió. Tuy vậy, tôi vẫn
thấy nó run cầm cập và bỏ cả chậu thau, nép mình vào người mẹ cho ấm. Chị Tạc
vừa ôm con lên lòng vừa hát; chị cũng thấy lạnh, môi chị đã thâm lại, chốc chốc
chị lại dừng, ho khan lên một tiếng ngắn. Một vài phút sau, không có ai, vợ
chồng cuốn chiếu dắt nhau đi, không biết đi về đâu nữa. Nửa tháng sau đến chỗ
cũ, tôi không thấy vợ chồng chị Tạc như mọi lần. Thu mình trong áo, tôi nghĩ
rét mướt đã đuổi anh chị đi phương khác kiếm ăn và cũng không để ý đến nữa.
Một
hôm, có việc về chơi người anh em ở Bạch Mai, tôi rẽ qua xem nghĩa trang Hợp
Thiện. Trời đã xế chiều, ánh nắng còn thếp vàng những ngọn cây cao. Cỏ tươi
thắm. Hoa vạn thọ vàng thẫm. Bỗng tôi rùng rợn thấy lạnh lẽo cả tâm hồn, nhưng
không dám phân tách rõ cái cảm giác lạnh lẽo ấy.
Trời
tối dần. Về phía mộ làm phúc, tôi chợt thấy một đám ma người nghèo. Ba, bốn
người phu đương khiêng một cái quan tài mộc, theo sau một người lớn và một đứa
trẻ. Một nỗi buồn thấm thía đến cắn lấy lòng tôi khi tôi nhận ra cha con anh
Tạc. Tôi sực nhớ đến tiếng ho khan của chị Tạc những đêm đông giá lạnh, và tôi
chợt hiểu vì lẽ gì ít lâu nay tôi không gặp vợ chồng chị. Trong lúc ấy, áo quan
từ từ đặt xuống hố, tôi nghe tiếng rút dây rõ ràng trong sự yên lặng của buổi
chiều. Rồi có tiếng khóc rên rỉ, đem lại một nỗi buồn mênh mông.
Mộ
đã đắp xong. Đột nhiên tôi thấy những nét trắng của mấy bông huệ rung trong
bóng tối, như sự xao động cuối cùng của một linh hồn sắp tiêu diệt. Người tôi
lúc đó dễ xúc cảm như một cốc pha lê mong manh, sẽ động là có tiếng vang. In
sâu vào trí nhớ những chấm đỏ thẫm của hương, mùi thơm mát trong gió. Anh Tạc,
thằng cu con, mấy người phu trở nên những vết lờ mờ không rõ, nhòa trên nền cỏ
đen. Không một tiếng động. Im lìm. Trong một giây, tôi có cái cảm giác người và
vật sắp tan vào bóng tối.
Có
tiếng nói. Như một sự quái lạ:
-Cho
chúng tôi tiền để chúng tôi về. Tối rồi.
Câu
nói thản nhiên của bọn phu trong cái không khí âm thầm tôi nghe như một sự xúc
phạm. Lặng lẽ, tôi bước lại, cho chúng một hào, và còn bao nhiêu tiền trong túi
tôi dốc cả vào tay thằng cu con.
Từ
hôm ấy, tôi không gặp cha con anh Tạc lần nào nữa. Có lẽ anh lang thang với
chiếc đàn lẻ loi, với những nỗi đau khổ ngấm ngầm, cha con không chết đói là
anh không còn mong mỏi gì nữa.
Và
từ đấy, tôi cũng bỏ mất cái thú đi hóng mát buổi chiều.
Hoàng
Đạo