Chiều Yarra Nhớ Vàm Cỏ
Tuesday, February 4, 2025
Nghiệt Ngã Cỏi Trời Riêng - Thuyên Huy
Nghiệt Ngã Cỏi Trời Riêng
Mượn đâu đó vài mảng vụn đời thật, tự
dựng, hư cấu tình tiết cho thành chuyện. Tặng người mà đám bạn cùng trường ngày
đó còn nhớ
Buổi chiều, ngày cuối đại hội triển lảm của các viện đại học, vẫn còn
người lại qua tấp nập, nhất là đám sinh viên học sinh, nắng Sài Gòn cũng như
mưa Sài Gòn, mới rực lên hồng một trời rồi bất chợt nhạt nhòa vàng vỏ, gió cũng
vẫn vậy, dìu dịu mát như từ sáng, nói cười ồn ào lấn át cả tiếng xe cộ trên đường
Hồng Thập Tự.
Nhìn qua ngó lại, có lẽ trường của Khương so với các viện đại học khác,
Huế, Đà Lạt, Sài Gòn, Cần Thơ, Cao Đài, Minh Đức… ít cô cậu nào chú ý, một phần
vì nó là người dưng, không thuộc vào ai, nhưng cũng “bon chen” có mặt,
tuy không thuộc của ai nhưng ai cũng “nể mặt”, thứ nhì là, các trường
chuyên khoa như luật, văn khoa, nông lâm súc, y khoa, dược khoa, kỹ sư Phú Thọ,
Sư phạm … có đủ mọi thứ sách báo hình ảnh trưng bày, hấp dẩn lôi cuốn, ai cũng
thích thú nhìn, còn trường Khương, ba cái thứ chính trị khô khan, luật lệ dày cộm,
sinh viên học nó cũng đã ngất ngư, ba thứ xa xôi mà cô cậu sinh viên học sinh
Sài Gòn thấy xa lơ xa lắc.
Vây mà hai ngày qua rồi cũng vui, vì ít ra cũng có người nhìn người hỏi
câu này câu nọ, để mấy anh phụ trách gian hàng tự cho mình còn “có giá
“, có chút vui đở tủi thân. Coi vậy mà chiều ngày cuối, đám sinh viên lo chuyện
triển lảm xa gần, có lạ có quen cũng bịn rịn, buồn buồn vì ngày mai, “gặp
nhau đây rồi chia tay”, biết có khi nào và chừng nào gặp lại. Gian hàng trường
chiều nay vắng thật, Khương lặng thinh đứng nhìn thiên hạ lại qua, lên xuống, mấy tay khác bỏ đi rảo tới rảo lui các gian
hàng khác từ lâu, chẳng anh nào màng “được mất hay thành công thất bại”,
vài anh chị đi ngang nhìn vào, Khương cười chào nhưng không mời mọc ghé thăm vì
thừa sức biết, cái nhìn tò mò chứ không thích thú của họ.
*
Vừa lúc kéo ghế định ngồi xuống thì anh Tâm, người đàn anh khóa trên,
anh cả trong nhóm phụ trách, cũng vừa trở lại, không biết làm sao mà có hai cô
gái áo dài màu, một xanh da trời, một xanh thiên thanh, cao cao đi theo, thẹn
thùng cười. Khương bước ra, không hỏi không chờ anh quay lại sau, hai cô còn đứng
ngập ngừng, chỉ qua Khương nói “Khương đưa hai người đẹp đi một vòng đi”,
không cần Khương trả lời, anh quay mặt giấu cái nheo mắt khoái chí.
Đường ngoài phố chập chững lên đèn, nắng chiều âm thầm đi, tuy là giờ thứ
hai mươi lăm nhưng người càng lúc càng đông, chắc là “thà một phút huy hoàng
rồi chợt tắt”như một nhà văn nào đó đã viết. Đi bên nhau, Khương ngừng ở
gian hàng này, gian hàng kia, chỉ qua chỉ lại, có vậy thôi, vì ai cũng biết nó
là cái gì rồi, được đi bên người đẹp, chiều nay bổng dưng Khương thấy đời mình,
đâu đó hình như có “niềm vui trở lại”, niềm vui mà anh đã không có từ
lâu lắm rồi, từ ngày người yêu đầu đời, không nói chia tay nhưng bỏ đi xa, xa
ngút ngàn khơi nơi xứ người. Nói chuyện qua lại, cả hai cô Hoàng Yến và Thư không
còn học, đã đi làm cho nên ngại ngùng nói thật, thấy đông vui, sẳn đi dạo phố
chiều, thấy người ta vào ra tấp nập thì cũng theo vào cho biết, vậy thôi. Phải
tự nhận lòng mình, Khương xem ra, không hẳn là “tiếng sét ái tình”, nếu
đem ra cân nhắc, thì anh thấy có cảm tình với Hoàng Yến nhiều hơn, nghĩ thì
nghĩ thầm vậy thôi nhưng ai ngờ, không nói ra, Hoàng Yến lén nhìn Khương nhiều
lần, cái nhìn có gì đó ngồ ngộ đủ ngầm cho anh hiểu, chắc Thư cũng có linh tính
như vậy cho nên, lâu lâu khẻ nhìn hai người nói câu này câu kia với nhau, cười
thầm “chịu người ta rồi”.
*
Bữa tiệc cho các nhóm phụ trách gian hàng của các viện đại học do bộ
Giáo dục đải, bữa tiệc chia tay, chấm dứt trời cũng ngấp nghé vào khuya, đường
phố vẫn còn ồn ào xe cộ xuôi ngược, cũng sắp tới giờ giới nghiêm, bóng dáng xe
tuần hổn hợp quân cảnh cảnh sát lên xuống đâu đó ngoài đường, trở xuống gian
hàng, ai nấy cũng rục rịch thu xếp về nghỉ, dù không có gì nhiều để dọn dẹp
nhưng có hai cô phụ vào, mọi việc xong sớm hơn mấy ngày trước, cả bọn nấn ná
noài cổng, chào nhau từ biệt, đi xa một khúc bên lề đường Hồng Thập Tự, anh Tâm
quay lại, Khương còn đứng bên Hoàng Yến ở
góc đường, Thư đã bỏ về trước đó, chỉ phía Hoàng Yến đưa ngón tay cái làm dấu
cười khoan khoái.
Khương chạy xe Honda chầm chậm bên Hoàng Yến trên xe Honda PC, ngược hướng
về Phú Nhuận, nói qua nói lại vài ba câu, không đầu không đuôi, thì không còn
bao lâu nữa tới giờ giới nghiêm, dừng ở bên lề đường, trước căn biệt thự kín cổng
kín của ai đó, Khương không biết nói gì hơn là, nếu Hoàng Yến rãnh thì sáng mai
ra chỗ triển lảm coi dọn dẹp cho vui, cô nàng khẻ cười hai tiếng cám ơn, nhìn đồng
hồ đeo tay, vội nhấn ga từ từ chạy bỏ đi, không hẹn gặp lại, bóng Hoàng Yến mờ
khuất xa rồi, đèn đường cũng vàng vọt, Khương vẫn còn ngồi trên xe nhìn theo, về
tới nhà trọ, từ lúc đầu Khương nói huyên thuyên nhưng giờ chợt biết ra là đã
quên không hỏi nhà, không hỏi chỗ, chỉ biết tên, nếu cô nàng không đến thì xem
như “nước chảy qua cầu”, biết tìm đâu mà gặp lại, bổng dưng lòng anh đau
nhói, tự trách mình, đêm đó là một đêm mà chưa có đêm nào Khương mong trời mau
sáng như vậy, ngồi bên bàn học, thức trắng, cái đồng hồ trên bàn đi quá chậm,
nhìn qua phía trường, Khương bất giác thở dài “thôi đành” dù lòng vẫn
còn đâu đó chút hy vọng nhỏ nhoi. Đêm dài cứ dài, hơn cả những đêm nằm chớ sáng
ngày thi Tú Tài.
*
Dọn dẹp, thu xếp đồ đạc dùng cho gian hàng, chở về lại trường trời vừa mới
giữa sáng, Khương buồn bã thất vọng, cả nhóm cũng buồn theo, thương cho thằng bạn
nghèo, tội nghiệp vừa tưởng như đã có lại niềm vui sau mấy năm là người cô đơn.
Hoàng Yến không tới sáng nay, như vậy là xong rồi, tình vẫn chưa tới. Mọi việc
trả lại trường xong, buổi sáng không có giờ học, cả bọn kéo nhau qua căn – tin
ăn sáng, cà phê cà pháo tán gẩu chuyện trên trời dưới đất, nhưng né không đụng chạm
vào “trái tim tan vỡ” của anh bạn “sầu tư biếng lự”, đang ngồi
nhìn ra sân, cái sân rực nắng sắp vào hạ, chưa một lần nhưng bày đặt thả khói
thuốc mà mắt đỏ cay. Cả bọn đứng bật dậy, Khương khục khặc ho vì khói thuốc, ngó
ra bác cảnh sát già gát trạm ra vào trường thường ngày, đi tới căn – tin, đẩy cửa
nói vọng vào “có người tới kiếm anh Khương đang chờ ngoài cổng” rồi
thong thả quay lại bỏ đi, không thêm không bớt lời nào.
Đứng chết trân, sững sờ, Khương bổng dưng muốn khóc, bác cảnh sát già, mở
cái cổng nhỏ, Hoàng Yến đẩy xe Honda PC vào trong, hai người nhìn nhau, cười mà
không ai nói được lời nào, Khương tưởng chừng như mơ. Để xe trong nhà xe, Hoàng
Yến e thẹn theo Khương trở vào căn – tin, vừa chưa qua khỏi sân quần vợt, đám bạn
ùa ra hành lang chào, cô nàng khựng lại, mặt ửng đỏ. Xong bữa ăn, mạnh ai nấy tới
quầy tính tiền ghi sổ, chuyện cũ thường tình mà họ, những tên “kẻ ở miền xa”
về sống đời ở trọ đã làm như từ khuya, nhất là những ngày giữa tháng tiền học bổng
chưa tới. Chia tay, Khương đưa Hoàng Yến về nhà trọ bên kia đường, anh Tâm theo
sau vẫy tay chào, qua cổng, Hoàng Yến khẻ cười nhẹ với bác cảnh sát già “con
cám ơn”, bác mĩm cười, cái cười thầm nói biết gì rồi.
*
Rồi thì chuyện gì đến cũng đến,
hai người yêu nhau và cũng có những chiều dạo phố, con đường tình đón đưa hò hẹn,
chia ngọt sớt buồn, cùng vui cùng buồn của kiếp đời, những cái nắm tay, cái hôn
phớt nhẹ như bao nhiêu cuộc tình khác theo đất trời xưa nay định sẳn. Bữa ăn
chiều ở căn – tin trường, dạo này ít thấy Khương như trước, đám bạn chẳng có gì
ngạc nhiên, vui cho thằng bạn từ năm đầu, học giỏi, nói năng lịch sự, hay tếu, có
cười nhưng ít nói. Khương dạo này, xa bạn bè, bỏ bớt cuộc vui của mấy thằng con
trai “đơn thương độc mã” giữa đường phố phồn hoa ngựa xe Sài Gòn, gần
người yêu hơn, một tuần đã có ba bốn bữa ăn cơm chiều ở nhà Hoàng Yến nhưng thỉnh
thoảng cũng mang về cho những thằng ngồi “ôm gối mộng” xa nhà trong mấy
căn phòng lẻ loi của ký túc xá trường cái bánh trái cam, trái xoài từ nhà cô
nàng, người mà gần hết bọn này biết mặt, biết mặt mà ngước lên trời cao “thằng
này may mắn” thiệt, ăn cho đở tủi thân, vui qua ngày qua tháng, nói vậy chứ,
dăm ba tên trong bọn cũng đã tìm được và có đôi với “bóng hồng” nào đó rồi,
chẳng tên nào màng hỏi tới.
Bác Ba Thảo, má Hoàng Yến, làm thư ký tại bộ Kinh Tế, hiền và phúc hậu,
bác thương cho con, đứa con gái độc nhất, không bao giờ nói đến ba, và cô nàng
cũng quen từ ngày còn trong nôi nên cũng không và chưa lần nào hỏi, học không
khá, bỏ học ngang khi chưa xong trung học, nhờ cô Tiền, người bạn thân cũng làm
chung phòng với bác, giới thiệu và đi làm cho một ngân hàng tư nhân “Nam Á”,
không mấy xa nhà, hai má con sống khuây khỏa, không thừa không thiếu ở một căn
nhà phố nhỏ, trong con hẻm khá rộng tại ngã ba sau chợ Phú Nhuận. Thương Khương
như con, bác không buồn hỏi và chưa hề hỏi gì nhiều về gia cảnh anh, nghèo
giàu, nhà tranh nhà ngói, ruộng vườn đất đai, chỉ biết là ở tỉnh xa đâu đó miệt
miền Đông, cũng con một, vậy thôi.
*
Giữa năm cuối, trước Tết mấy ngày, theo lời Khương, Hoàng Yến theo anh
ta, chở nhau bằng xe Honda về tỉnh, trước là ra mắt ông bà sau là chúc Tết năm
mới, vì sắp nghỉ học mùa Tết. Ba má Khương, vui vẻ, hỏi thăm qua loa, cô nàng ấp
a ấp úng, tiếng dạ tiếng thưa, chờ ông bà hỏi mà trả lời, thế thôi. Ở chơi gần
chiều mới trở xuống Sài Gòn, ông bà theo ra tới cổng rào, đi đường cẩn thận, rảnh
thì về chơi, người quen ở khu chợ, kéo nhau đứng lòng vòng trước sân, đi lên đi
xuống, xầm xì, nhỏ to, chắc là thấy “gái Sài thành” quần tây áo thun kỳ cục,
ngó ngó nhìn nhìn, không biết chê hay khen. Mấy ngày về nhà ăn Tết, ba má
Khương không nhắc nhở gì Hoàng Yến, qua Tết, hôm trở xuống trường, vào học lại
những tháng cuối, chợt dưng ông bà hỏi lại, gia cảnh cô nàng, Khương nói như những
gì anh biết, ông bà nghe mà cười vậy thôi, không tỏ thái độ hài lòng hay không,
chỉ thở dài xem ra hình như có cái gì khó nói hay sao đó mà ông bà chưa muốn
nói ra.
Ra trường, Khương về nhà, ở chơi vài hôm trước khi đi nhận nhiệm sở, một
tỉnh xa xôi miền tây sông nước. Ba má anh vui rất vui vì thằng con đã “công
thành danh toại” nhưng Khương ngỡ ngàng, chưng hửng khi ông bà cho biết ý
kiến về chuyện tình của anh và Hoàng Yến, ông bà không một lời chê ít chê nhiều
gì về cô nàng và gia đình cô dưới Sài gòn, nhưng, lại một lần nữa ông bà thở dài, cái thở dài như hôm về nhà ăn Tết,
theo ý ông bà chuyện hôn nhân của Khương có lẽ không thành, lòng anh chết lặng,
cố giữ mặt thản nhiên ngồi nghe, thì ra cái khó nói hình như của hôm đó, ông bà
đang nói ra đây. Khương chào ông bà, nhắc lại câu nói hôm qua “thôi để con
đi làm đâu đó tạm yên, rồi mình tính nghe”, tạm biệt cái xe Honda đã âm thầm
chịu đựng buồn vui theo anh trong suốt khoảng đời qua, ở lại, chuyến xe đò đầu
ngày xuống Sài Gòn chạy khỏi chợ xã khá xa, cái buồn bất chợt không nghỉ là sẽ
có vẫn còn kéo dài ray rứt trong hồn.
*
Hai má con lặng thinh ngồi nghe Khương, nói lại những gì ba má anh đã
nói, bữa cơm chiều cũng đã nguội từ nãy giờ, không ai màng nhắc, xem ra người
nào cũng có chút buồn buồn nhưng không đến nổi “sẩu tư biếng lự”. Ba má
anh đã hứa hôn với gia đình một người bạn thân, bác Thịnh, người mà Khương đã gặp
đôi ba lần, coi như là “ơn cứu tử” không thể không quên được khi ba anh
còn lang thang làm mướn trên miệt Xa Cam Hớn Quản, rồi miền Cai Lậy, Mỹ Tho, hai
người trước kia là bạn cùng quê. Ơn đó cho tới ngày hai người gặp lại sau gần mấy
chục năm, bác Thịnh giờ đã giàu, có tiệm bán nông cơ cụ lớn trên chợ tỉnh, người
đó là cô con gái út, đang học năm cuối trường Dược, vì không học chung trường từ
nhỏ, Khương chưa một lần biết mặt, dù thỉnh thoảng có nghe ba má anh nhắc tới,
cô còn người anh lớn hiện là sĩ quan huấn luyện viên ở một quân trường nào đó.
Bác ba Thảo, khẻ cười nghe, rồi ôn tồn với Khương, khi anh cho biết, quyết
định không nghe theo lời, “chuyện từ từ tính con, ông bà có giận thì cũng
không giận hoài được, hùm dữ sao nở ăn thịt con, bác không có gì buồn đâu, con
yên tâm, rồi mọi chuyện sẽ qua mà”, Hoàng Yến nghe, gật đầu, nắm tay Khương
“như má em nói, anh yên tâm, anh cứ lo đi làm đi, rồi chắc không sao đâu, em
chờ mà”.
*
Không ngờ chỗ làm của Khương, có chị thư ký, quê cùng tỉnh, ở xã bên, cũng
một bên quốc lộ, không xa nhà bao nhiêu, cùng chồng là lính trong tiểu khu về
phép thăm nhà, anh gởi chị hai cái thư, một cho ba má, cho biết quyết định của
mình, xin ba má tha lỗi, không thể nghe lời được, và một cho bác ba Thảo với
Hoàng Yến, cũng báo là có thư cho trên nhà về chuyện Hoàng Yến, vì trước sau
hai vợ chồng cũng ghé Sài Gòn chơi một hai bữa gì đó nên cũng tiện.
Tội cho cô Tiền, thay mặt má Hoàng Yến, đón xe đò lên tỉnh, đến nhà
Khương, chuyện anh và Hoàng Yến không được kết quả như cô mong có, ba má Khương
vui vẻ tiếp, nghe, nhưng cuối cùng, ông bà cám ơn cô đã có lòng, không chê
trách gì gia đình Hoàng Yến hết, nhưng
khó cho ông bà đổi ý, còn nếu, “thằng Khương, có còn thương vợ chồng tôi hay
có làm được hay không, thì tùy nó quyết định, vợ chồng tôi không hỏi thêm bớt
gì nó nữa”.
*
Miền Nam thua cuộc, quân nhân công chức miền Nam buông tay, buông súng,
lợi dụng tình thế nhá nhem, nhập nhằng, Khương lặng lẽ, về lại thăm nhà trên tỉnh
vài ngày, xem cớ sự ra sao rồi tính chuyện đời mình, chuyện đời không biết “ngày
sao sẽ ra sao”. Ba má anh không nhắc nhở gì chuyện cũ, đi ra đi vào, đường
trước nhà ngập một màu cờ đỏ, cả ba cũng không ai biết nói cái gì bây giờ, gia
đình bác Thịnh đã ra đi từ chiều 30 tháng 4, má Khương cứ thở dài ngày qua ngày
“phải chi thì đâu phải lo”, chán chường, nản chí, ông bà chỉ nói đi nói
lại với Khương “đã mất hết rồi, may mà còn căn nhà, ba má không còn gì để phụ
cho con, thôi con ráng mà lo cho thân mình”. Hôm giã từ ông bà trở xuống
Sài Gòn, giã từ nhưng không hẹn chắc khi nào trở lại, chưa biết chắc có hay
không, dù sao dưới này còn nhiều xô bồ xô bộn, phồn hoa xe ngựa mới mẽ với nhà
cầm quyền mới nên có phần dễ lòn lách, tạm dung chờ thời được, ngồi trên xe đò
mà rưng rưng khóc, như cái khóc hôm nào khi nghe lời cuối ông bà nói.
Khương vào tù như hàng ngàn người thua cuộc “bổng chợt buông xuôi
thành bại tướng khác”, không một lời hỏi han gì của ba má anh. Ngày “nộp
mạng” cho chế độ mới, hai má con Hoàng Yến rưng rưng nước mắt tiễn anh tới
chỗ trình diện, giữa rừng người thân còn ở lại, sau cánh cổng sắt lạnh lùng,
nhìn lại lần nữa, họ vẫn còn đứng đó, Khương bổng dưng muốn khóc.
Mang tấm thân chưa đến nổi tàn, được thả sau hơn hai năm từ một trại tù
“thâm sơn cùng cốc” giữa rừng núi hoang dã Tam Biên, Khương về, chỗ nương tựa
không chỗ nào khác hơn là nhà của Hoàng Yến. Suốt những ngày tháng vật vã, khốn
khổ trong tù, cũng vẫn là bác ba Thảo và Hoàng Yến, dù chưa một lời chính thức
rể con, “cắt ca cắt củm” từng miếng thịt ruốc, từng miếng đường táng,
gói trà gói ghém gởi vào tù cho anh mỗi lần được phép. Vẫn vậy, ba má Khương vẫn
không nghe gì về số phận thằng con ra sao, anh cũng không dám biết tại sao, câu
“hùm dữ sao nở ăn thịt con” mà bác ba Thảo nói, xem ra không hẳn là vậy
rồi.
Cũng nhờ cô Tiên, chup thời cơ, vốn lanh lợi xông xáo hơn bác ba Thảo,
quen biết quan chức mới nào đó, tìm được cho Hoàng Yến chỗ làm tạm qua ngày ở cửa
hàng xa xí phẩm trong khu thương xá Tam Đa cũ, nên nhà không đến nổi vất vả,
còn ngáp ngáp qua ngày, Khương lăn lộn vào chợ trờ, vàng thau lẫn lộn, cũng tạm
yên, chuyện đi về trên tỉnh anh không dám nghĩ tới, yên như vậy cũng là may rồi,
đến văn phòng nhà cầm quyền để có được tấm “giấy đi đường” thì “trần
ai” nhưng chưa chắc đã được. Một chiều mưa tháng sáu, sau khi đạp xe chở
bác ba Thảo đến nhà cô Tiên về, cô Tiên còn ra tới cửa, ngó trước ngó sau, nói
nho nhỏ gì đó với bác mà xem ra cũng chưa muốn hết chuyện, về nhà, đêm đó hai
má con có phần vui, cái vui mà họ, ba người chưa thật có từ lâu, cả hai không
nói gì hết, Khương cũng không hỏi.
*
Chiếc ghe đánh cá nhỏ, cũ kỹ, trốc nước sơn, chở hơn ba chục người lớn
nhỏ, ra khơi giữa khuya, trời đêm không âm u lắm, gió thỉnh thoảng lộng từng
cơn, từ Phước Tỉnh, ậm ừ lướt sóng bình yên suốt hai ngày về hướng nào đó cứ
đi. Xế chiều hôm sau trời bất chợt nổi giông bảo, gió gào gió thét, âm u ma
quái, mưa trút xuống như thác đổ, gầm gừ như trút giận dữ, chiếc tàu nhỏ vốn cũ
giờ xem ra cũ hơn, bị gió thổi dạt lên hướng bắc thay vì hướng nam, nước
trong tàu dâng ngập, người tát người la
hét, vẫn vậy, sóng mặc sóng cao hơn nhà, mặc sức lạnh lùng đánh từng đợt hằn học,
chiếc tàu cuối cùng bể ra từng mảnh, trong màn đêm tối đen như đêm Ba Mươi, tiếng
la tiếng thét thất thanh không át nổi tiếng gió, không ai nghe, người trôi, người
nổi bập bềnh trên một vùng biển mênh mông rùng rợn.
Những mảng ván trôi, cái không cái có xác người, sóng đẩy ai đó còn bám
víu vào cái gì đó trôi dật dờ, dạt càng lúc càng về hướng bờ, qua màn sương sớm
mù mờ, trời nhấp nhen sáng, chiếc tàu đánh cá lớn, cờ đỏ lất phất trên mui
phòng lái trên đường về, dừng lại, chạy vòng quanh một vùng, người trên tàu hối
nhau vớt người vớt xác, còn chừng bảy tám người còn thoi thóp sống. Sóng êm,
không còn gầm gừ gió hú, tàu thong thả chậm về bải biển Tuy Hòa. Mặt trời vừa ửng
lên ngoài khơi một màu hồng nhạt. Phần lớn người trên chiếc ghe đánh cá chết gần
hết, chỉ vớt được năm sáu xác chết, cho chở về nhà xác bệnh viện tỉnh, công an
đem số người còn sống, vừa tạm tỉnh lại, trong đó có cô Tiên và bác ba Thảo, về
nhốt tại đồn công an. Hai người giờ như người mất hồn, gia đình cô Tiên chỉ còn
lại đứa con gái vừa lên mười, bác ba Thảo thì hết rồi, Khương và Hoàng Yến đã
vùi thây dưới lòng biển lạnh.
*
Cái chùa nhỏ quê nhà Bạc Liêu, người dân thấy giờ có thêm bà ni cô mới,
chùa có thêm hồi chuông cầu siêu muộn cuối chiều, bên trong chánh điện đơn giản,
có thêm hai bài vị tên Khương và Hoàng Yến. Bác ba Thảo đó, sau ngày được thả về
từ Tuy Hòa, căn nhà bên Phú Nhuận còn may, chưa bị lấy, bà giao lại cho cô
Tiên, từ biệt, rồi lặng lẽ đón xe về lại quê xưa, xuống tóc bỏ đời, bà đi mà
không buồn nhắn báo cho gia đình Khương biết, biết để làm gì, chắc ông bà cũng
không cần biết, thôi để cho hai đứa bình yên ở cỏi trời riêng không còn nghiệt
ngã.
Thuyên Huy
Tháng giữa mùa 2022
Bụi Vàng - Từ Kế Tường
BỤI VÀNG
Anh rất
nhớ một chiều trưa tháng Bảy
Bụi che tay không thấy hết đường về
Trời rất nắng còn anh buồn đến vậy
Khác chi ngày hiu hắt nép hiên mưa .
Rộn rã ve kêu báo Hạ sang mùa
Chùm phượng đỏ rung lòng anh như lửa
Tình rất sâu cứ chìm trong mê lộ
Lầm lũi đời người vén bụi mà đi
Ngồi bên nhau ai nói được điều gì
Trưa tháng Bảy chẳng dài thêm góc phố
Lòng nặng trĩu sầu thêm ngôi quán gió
Dài đến thinh không mấy chấm bụi đường
Bao nhiêu năm còn thoáng vọng mùi hương
Một ánh mắt, nét cười trong sợi tóc
Buồn chưa hết, hàng cây khô nước mắt
Ngửa bàn tay tê dại dấu thời gian .
Có đọng lại trong em một chút bụi vàng
Trái tim nguyên vẹn của ngày lầm lỡ
Tại sao ? cứ hỏi tại sao vậy chớ !
Chỉ một lần không vội nắm tay em
Đời chất lên những mộng mị ưu phiền
Anh tỉnh giấc bên gốc mai già cỗi
Cứ tưởng tiếc dấu hài xưa qua vội
Thềm rêu phong cỏ lạnh – tiếng chim vườn .
Có nhớ không em một hạt bụi đường
Vướng đâu đó trên cuộc tình sương khói
Chiều tàn phai hoa vẫn dậy mùi hương
Ngày tháng lụn vẫn còn trưa tháng Bảy
Đời cứ xuôi theo một dòng nước chảy
Xin nhắc em một thủa đứng bên cầu
Tình trăm năm bờ bãi hoá nương dâu
Vẫn lắng xuống chất bụi vàng óng ả
…
Từ Kế Tường
Xuân Nơi Đây - Dư Thị Diễm Buồn
XUÂN NƠI ĐÂY
Xuân nơi
đây
không hoa
vàng đua nở
Không hoa đào lộng lẫy dưới nắng xuân
Không trẻ con mặc áo quần rực rỡ
Chạy tung tăng
đốt pháo, vỗ tay mừng
Xuân nơi
đây
không cây
xanh nắng ấm
Không áo dài tha thướt gió xuân bay
Không nón bài thơ, khăn nâu, yếm thắm
Không thoảng hương
từ những khóm hoa lài
Xuân nơi
đây
thiếu cụ
già viết liễn
Thiếu trầm nhang, bánh tét, bánh
chưng xanh
Thiếu bầu trời trong, bầy chim én
liện
Thiếu cá thịt kho,
nem chả dưa hành
Xuân nơi đây
thiếu thiêng liêng ấm cúng
Thiếu cây nêu, lá phướng, trống
lân mừng
Thiếu cả những lời chân thành chúc
tụng
Thiếu vị
hương xuân thắm thiết mặn nồng
Xuân nơi đây
có rượu ngon, bánh ngọt
Có thiệp xuân chúc phúc, chúc an
lành
Có mây xám giăng khung trời giá
buốt
Có hoa tuyết
trổ đầy cành long lanh
Xuân nơi đây
có tiếng lòng nức nở!
Tiếng thở dài trong héo hắt nhớ
thương
Có nỗi lòng của những người xa xứ
Đón xuân về
hồn thổn thức bâng khuâng
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
(Trích
trong tuyển tập “Bóng Thời Gian”
phát hành năm 2021).
Thương Lắm Những Mùa Xuân - Việt Hà
Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, người Việt
tha hương lại không tránh khỏi những giây phút bùi ngùi, đôi khi đến thẫn thờ,
để rồi tự hỏi mình: Xuân này sẽ ra sao?
Với những người đã có mái ấm gia đình
(mái ấm được hiểu ở quyền hội nhập; công ăn việc làm; con cái được đi học, trưởng
thành…) thì xuân đến dường như có phần rộn rã hơn. Ấy là tôi nói theo thể tích
cực (positive), chứ thực tế nhiều người còn chẳng biết cái giây phút thiêng
liêng ấy nó rơi vào ngày nào, chứ đừng nói tới chuyện thắp một vài nén hương để
nhớ về tiên tổ. Không ít người vô tư bảo: Dào ôi! Sống đâu Âu đấy. Ừ! Giá mà Âu
hóa được toàn diện, thì cũng là phước đức cho cái dân tộc có dải chữ “S“, khổ nỗi,
có nhiều người lắm tiếng Ta càng ngày càng quên, tiếng Tây càng ở lâu càng
không biết. Mà biết để làm chó gì cơ chứ? Cứ cày – ăn ngon – ngủ kỹ – đô la (ê–
rô) nhét đầy trương mục là… lucky. Hòa nhập, nghĩ ngợi, trăn trở làm gì cho nhọc
xác. Kể ra cái vòng tuần hoàn khép kín ấy cứ xoay đều đặn (không có khiếm khuyết)
âu cũng là chuyện tâm đắc.
Nhưng muôn sự tại nhân, thành sự tại
thiên, có dễ mấy ai ung dung, tự tại để mà lọt vào cái vòng mĩ miều ấy? Vậy là
hễ có chuyện vượt ra khỏi bốn bức tường là… bỏ mẹ. Tính sao bây giờ? Không lẽ cứ
nhe sỉ ra để khỏa lấp mọi chuyện? Nhiều ông Tây, bà Đầm bảo: dân Việt mày cũng
hay. Thắng cũng cười; thua cũng cười; buồn cũng cười (chuyện nhà có tang, giỗ
kèm theo tiết mục Mini Disco hoặc Karaoke ở xứ này đang trở thành model thời
thượng) thậm chí bị chửi bới, nhục mạ cũng vẫn nhe sỉ ra… cười. Và không ít ông
Tây, bà Đầm đã ngộ nhận, cho đó là sự “niềm nở“; “hiếu khách“ mặc dù có phần
thái quá của dân da vàng, mũi tẹt nhà ta. Họ có biết đâu đó là cách ứng xử cực
kỳ uyển chuyển, mang đậm truyền thống văn hóa Á Đông (?!). Lâu dần cái “truyền
thống“ ấy đã trở nên bệnh hoạn, đến nỗi không ít người đã nâng sự bệnh hoạn ấy
lên hàng “đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc“. Cái “bản sắc“ ấy cứ đeo đuổi cả một
vài thế hệ, và biết đâu chừng cho đến mãi mãi về sau? Nhưng thôi, Tết nhất là
phải nói chuyện: Bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành; câu đối đỏ…
Ừ thì chuyện Xuân!
Tết xưa – Tết nay
Bên này những người còn nhớ đến xuân,
ngày Tết đến cũng cập rập ra trò. Nào là đặt lá rong (không thì lá chuối) nhưng
cũng chỉ chạy qua hàng lá cho có màu sắc và hơi hướng của bánh chưng thôi, còn
gạo, thịt và gia giảm thì vô lo chứ không còn cảnh đêm hôm, xếp hàng rồng rắn
như thời bao cấp để chầu chực vài ký gạo nếp, đôi khi pha lẫn cả một tiểu đội mọt
cho… thêm đạm. Mẹ cha thằng Tư Bản, cái của nợ gì cũng có, chỉ cần xỉa tiền ra
là nó vác đến tận nhà. Ấy là công đoạn thô. Công đoạn mịn là gói bánh. Ở xứ này
gói bánh chưng cũng là một kỳ công, không phải vì nó luxus, trái lại quá rườm
rà, bởi cái tối thiểu nhất là lạt giang để cột bánh cho chắc (có vậy bánh mới
vuông vức và dền). Khổ nỗi dân ta đang “họat động trong lòng địch“ nên phải rút
ngắn công đoạn, thôi thì có dây nào, sào dây đó, miễn có cái để mà… thít là được.
Gạo đấy, thịt đấy, lá đấy (lá “nhảy dù“ thôi còn phải thêm anh giấy bạc bọc
ngoài, vừa đẹp lại đỡ tốn…). Vậy là khéo tay mọi người cũng có mươi cặp bánh
vuông vức ngược lại có “túm mắm tôm“ một chút cũng chẳng ai kiện. Hương vị của
bánh chưng với dân ta bây giờ không còn là “đỉnh cao muôn trượng“, vả lại có
gói cho kỹ, đẹp rồi cũng chỉ là anh cháo cơm nguội quá đà, bởi ở xứ này thời
móc đâu ra củi, mà dẫu có đi chăng nữa cũng bố bảo anh nào dám “nổi lửa lên em“
chứ nói gì chuyện cả nhà quây quần bên bếp lửa hồng, hàn huyên thế cuộc, nghe
tí tách lửa reo trong ngào ngạt hương lá, hương gạo cùng đạch… đùng tiếng pháo
– tiếng pháo gợi xuân của con trẻ…
Gợi lại chuyện này nhiều người bảo: cổ
ơi là cổ. Thời buổi ê-rô hóa rồi mà còn bánh chưng với bánh tét. Lẩm cẩm. Quẳng
ra vài chục ê-rô là có vài cặp bánh chưng luộc kiểu experess (vì sợ tốn điện)
còn thích sực lúc nào chỉ cần liệng vào nồi, ninh cho nửa tiếng là có quả “cháo
nếp tẻ“ ngon lành. Ôi dào, thích thì làm dăm ba miếng cho có phong trào, chứ ở
xứ này lòng phèo đặc quánh toàn đạm, thèm thuồng chó gì nữa mà chưng với cả dầy.
Vậy là hương vị quê hương ngày một, ngày hai đã trở nên lạ lẫm, nhiều khi phiền
hà, chẳng ai buồn nghĩ hay động tới…
Bạn tôi đi phép về Việt Nam ăn Tết
sau gần 20 năm ra đi “tìm đường cứu nước“. Anh tâm sự: trước ngày về anh mắc bệnh
thấp thỏm, mất ngủ đến vài tháng trời. Anh bảo chỉ cần hình dung cả nhà ngồi
quây quần bên nồi bánh chưng, rồi nghe tí tách tiếng mưa xuân rắc nhẹ từng hạt
trắng, mỏng, mịn như tơ trên những vầng lá non, xanh biếc; rồi nghe tiếng pháo
đì đùng cùng tiếng hò reo dội lên đâu đó của đám con trẻ… cũng đã cảm thấy lâng
lâng lắm rồi.
Nhưng… anh thở dài não nuột: Tết ở Việt
Nam bây giờ buồn đến phát rồ. Tôi bảo: Có bôi đen không đấy? Tết của thời Kinh
tế Thị trường phải khác chứ? Anh chửi thề: Mẹ kiếp! Nó khốn nạn ở cụm từ đó.
Thiên hạ cứ tự hào là 4000 năm văn hiến, vậy nhưng mới chỉ thậm thụt hơn chục
năm đổi mới thì cả cái dân tộc ấy cứ như bị lên đồng. Ai đời 29-30 Tết mà dân
tình cứ im như thóc. Bạn tôi sốt ruột hỏi người nhà sao không gói bánh chưng?
Người nhà anh đáp gọn lỏn: Ngu gì mà hành hạ thể xác. 30 Tết, phôn một phát,
thích bao nhiêu, chỉ 5-10 phút tụi nó ào ào khiêng tới. Anh thắc mắc: thế còn
đào; quất cảnh? Mấy đứa em anh giọng sành sỏi: Ông anh ngỗng vàng ơi! Ở nhà bây
giờ không ai đi sắm đào, quất trước Tết cả. Bạn tôi hỏi: Tại sao? Chẳng lẽ đi sắm
đồ tháo khoán à? Em anh tủm tỉm: Đúng thế đấy!
Nghĩ anh mình không tin, đứa em giơ
tay ra hiệu: ngày mai (chiều 30 Tết) tất cả đào, quất, hoa… đều đại hạ giá. Anh
chờ xem, với 1/3 giá, em tậu cho anh một quả bích đào chúm chím nụ; một quả quất
cảnh 6-7 tầng, nếu thích tụi nó còn kính tặng luôn cả đèn nhấp nháy. Thấy bạn
tôi mặt ngắn tũn, đứa em bảo: anh không tin hả? Nhưng Việt Nam mình bây giờ là
thế. Trăm người bán, một người mua. Công đoạn khó nhất là sản ra tiền, nhưng
khi anh có tiền rồi thì cứ nhét chặt trong túi, không việc gì mà phải hoáng hết
lên. Chỉ cần búng tay tách một cái là bọn nó sẵn sàng mọp lưng phục vụ đồng chí
từ A-Z.
Ở nhà bây giờ thích Tết lúc nào được
lúc ấy. Cái cảnh mắt nhắm mắt mở, thức đêm hôm, xếp hàng dài cả cây số, rồi
chen lấn, ẩu đả, xỉa xói vào mặt nhau những quyển sổ ưu tiên “gia đình thương
binh, liệt sỹ“ để “trấn“ đồ Tết qua rồi. Ngày mai với vài chục ngàn đồng, em sẽ
kính tậu cho anh cả một vườn xuân. Bạn tôi bảo: Vậy là rẻ hơn củi à? – Chứ sao.
Đứa em đáp. Đấy là họ gạ mình mua, vả lại tính em cũng thích làm từ thiện, bằng
không chỉ có nước mang về mà… hỏa táng. Anh bảo: tự nhiên thấy thương cho người
trồng cây cảnh quá. Cả năm lụi hụi, chăm bẵm, cứ ngỡ xuân sang sẽ có cơ mở mặt,
mở mày, nào ngờ xuân chưa đến mà hy vọng đã tiêu tan…
Đó là chuyện chợ xuân.
Bạn tôi kể: Đêm 30 Tết cũng hớn hở lắm,
mặc dù pháo Tết đã bị cấm chỉ từ chục năm nay. Hỏi, thiên hạ cười đểu bảo: các
ông ấy sợ tranh tối, tranh sáng tụi nó làm đảo chính như hồi 68 các ông ấy làm
trong Nam. – Đảo chính? – anh tròn mắt hỏi lại. – mà ai đảo? – Ôi dào! Ông về
phép có sẵn “đạn“ cứ nạp đầy vào mà “khạc“ cho sướng. Bao năm đi xa làm nghĩa vụ
“trả thù cho dân tộc“, giờ trở về ông nên nghĩ chuyện “phục vụ dân tộc“ thì tốt
hơn. Chuyện pháo pheo ông để ý làm chó gì. Lúc giao thừa, nếu ông thích thì bật
tivi lên mà xem pháo ngửng. Bạn tôi hỏi: Sao lại pháo ngửng? Em anh quát: Anh
đúng là đồ tẩm. Ở nhà bây giờ giao thừa các cụ Trung ương cho đốt pháo hoa, rồi
nối cầu truyền hình cho dân cả nước xem.
Đúng là dở hơi. Tết mà không có pháo,
khác chó gì ngày Bác “thăng“. Vậy là cứ thằng nào vi phạm luật đốt pháo là bị
lĩnh “sẹo“. Những ngày giáp Tết các đồng chí công an xã, phường, quận bận túi bụi,
bởi trọng trách các đồng chí được giao là lo giữ gìn anh ninh, trật tự cho bà
con vui vẻ ăn Tết. Kẻ nào to gan mà đốt pháo rồi bị phát giác thì chí ít cũng
lĩnh phạt 5-3 triệu đồng. Cấm thì cấm. Nhưng những đồng chí trẻ con vốn không sợ
chết, lợi dụng lúc giao thừa vẫn cho pháo nổ đì đùng (dĩ nhiên là vụng trộm, và
phải đề phòng cảnh mật, bằng không sẽ bị “xông đất“ tức thì). Thế là xuân cũng
vội vàng ra đi hệt như xuân vội vàng tới. Đã lâu rồi người Việt mình không còn
khái niệm mùa xuân. Hình như ai cũng nghĩ: Xuân sang là qui luật của trời đất,
mà đã là qui luật thì tất có đến, có đi. Hơi đâu mà phải nặng lòng?
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Mực tàu câu đối đỏ
Trên phố đông người qua
(Vũ Đình Liên)
Xuân vẫn còn đấy, ấm áp, nồng nàn, đầy
thi vị và cũng ngập tràn niềm vui, hạnh phúc, nhưng liệu mấy người còn nghĩ đến
Xuân?
Việt Hà
Nguồn: văn học nghệ thuật