Bóng
Người Trên Sương Mù
Viết theo chuyện một người bạn kể lại.
Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng
tôi ngồi đối diện với Trạch, một người bạn cũ, tình cờ gặp vì cùng đi một
chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi
như tôi; bây giờ gặp nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng
mừng cho nhau.
Lúc nói chuyện, tôi thấy bên cạnh bạn có cái hộp
khảm rất đẹp, liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi như có ý không
bằng lòng, nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy rất lạ: hộp
bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:
– Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này?
– Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì chính là một con ngài, nhưng đối với tôi…
Vừa nói đến đấy, xe rầm rầm đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi
nói:
– Xe đi qua cầu N.G.. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm
nay…
Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:
– Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đây?
– Vâng, nhưng sự tích buồn… chuyện đã ngoài mười năm: mười năm trước độ anh đi
Saigon thì tôi còn là anh cầm lái tầu hỏa. Chính độ ấy tôi chạy con đường này,
tình cảnh tôi độ ấy anh đã rõ.
– Cũng như tình cảnh tôi…
– Nhưng có một việc tôi không nói anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ,
nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong tình cảnh nghèo
khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu
được kham khổ nên người một ngày một yếu dần.
Về sau nhà tôi bị bịnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở
nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người đi mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi
được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền. Thật là một
dịp rất hay cho tôi. Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền vào kêu với ông
Chánh, nói là vợ ốm. Ông Chánh đập bàn đập ghế, gắt:
– Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ
này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra!
Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ ra sao: lúc về nhà,
ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dầu có mất việc làm
cũng không cần.
Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi nguyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy kể
lại cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên bảo tôi rằng:
– Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đỡ
nhiều. Chiều mai về mua cái gì làm quà cho tôi đấy.
Tôi thấy nhà tôi cười nói vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Đến ga đúng
mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi, tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều.
Lúc đó tôi có cái cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không
nhìn thấy mặt vợ tôi nữa. Tôi cố định trí để cầm máy, nhưng chỉ được một lúc
thôi.
Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người “ét”
của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói:
– Ô hay! hôm nay ông làm sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không
hãm máy. Ông ngủ à?
Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ đến người vợ nằm đợi chết
một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm
cả người.
Xe đi vào khe núi, hết cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra
cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả,
chỉ một màu trắng xóa dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa.
Bỗng tôi thấy… rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc
áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình
người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người “ét” lại cửa toa, bảo ông ta nhìn rồi hỏi:
– Bác có thấy gì không?
Vừa nói xong hình người vụt biến mất. Bác “ét” thò đầu ra và bảo tôi:
– Chỉ thấy sương mù! ông lại mê ngủ rồi.
– Không rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.
Người “ét” cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc than cho vào lò, còn tôi vẫn đứng
nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Được một lát, hình người đàn bà lại
hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay ngăn thẳng như muốn ngăn đường không cho
xe chạy lên nữa.
Tôi gọi người “ét” nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy cứ cắm đầu xúc than cho
vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật, mà ai
cũng phải thấy. Tôi đến cầm lấy tay bác “ét” kéo bác ra xem rồi bảo, cả quyết:
– Nhìn xem!
Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt, hốt hoảng nói:
– Lạ thật!… ma ông ạ!
Xe tiến đến đâu, cái hình người lại đến đấy, có lúc mờ, lúc rõ, lơ lửng giữa
lưng trời. Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo
chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự gì nguy hiểm.
Tôi bảo bác “ét”:
– Bác này, có sự gì lạ sắp xảy ra.
– Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại.
Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫy thật nhanh như người tỏ ý
thất vọng, vì bảo chúng tôi mà chúng tôi không nghe.
– Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!
– Không được, tự nhiên vô cớ.
Còn tôi lúc bây giờ hai tai ù như người mất trí khôn: tôi văng vẳng nghe có
tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:
– Đỗ lại! Đỗ lại!
Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái “phanh” như định hãm rồi lại không hãm. Một
lát, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi:
– Hãm lại! Hãm ngay lại!
Lúc bấy giờ tôi không biết gì nữa, nhắm mắt hãm phanh lại thật mạnh. Các toa
rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng. Xe chạy từ từ một quãng
rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người “xếp tanh” cầm đèn lên hỏi:
– Việc gì thế?
Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả
lời một cách mập mờ:
– Chắc có sự gì lạ. Để tôi cầm đèn đi xem đã.
Lúc bấy giờ mấy ông quan hầu quan Toàn Quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo
chúng tôi. Vừa đi được một quãng thì nghe trước mặt có tiếng nước chảy ầm ầm.
Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G..
Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy. Đến bờ sông,
giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G. bị nước nguồn chảy về
xoáy gẫy làm đôi.
Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở quan Toàn Quyền
đâm nhào xuống sông sâu, chắc không sống sót một ai; tưởng không có cái tai nạn
nào ghê gớm hơn, thế mà chính vì tôi nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng
ngẩn người không hiểu sao cả.
Người “xếp tanh” mừng cuống quít, hỏi tôi:
– Sao ông biết mà hãm?
– Tôi cũng không hiểu.
Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không
biết trả lời ra sao, một lát, mọi người đứng giãn ra, quan Toàn Quyền đến, ngài
không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi,
cái bàn tay đầy bụi than, rồi ngài tỏ lời khen.
Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối
với tôi cũng như không. Tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao. Tôi
đi trở lại và thoáng thấy cái gì bám ở cái đèn để đầu toa, nhìn kỹ thì ra một
con bướm thật to, vướng vào đen, đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là
con bướm trong cái hộp này đây.
Trông thấy con bướm tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người
đàn bà lúc nãy là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là
đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cái tay người vẫy.
Tôi bắt con bướm rồi định thả cho nó bay đi, sau nghĩ con bướm đã giúp mình
được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim
chỉ đúng hai giờ đêm…
Hôm sau tôi vừa về tới cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất
vào khoảng một giờ đêm qua.
Tôi không hay tin nhảm; tôi chắc đó chỉ là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên,
nhưng tôi vẫn yên trí rằng linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ
cho tôi tránh được tai nạn hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi
thoát được thân tôi mà làm gì, giầu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như
không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.
Bạn tôi kể xong câu chuyện, đậy cái hộp khảm lại, rồi lại thẫn thờ nói:
– Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn!
NHẤT LINH (1934)