Ỷ LAN PHU NHÂN
Văn chương bình dân Việt Nam thường hay phản ánh đường nét hiện thực của một xã
hội tổ chức trên nền tảng lao động lồng trong khung cảnh của những quan hệ luân
lý, đạo đức và tình thương gia đình, tỉ dụ những câu như sau:
Mẹ ơi! Chớ đánh con đau,
Ðể con mót lúa, hái dâu mẹ nhờ. (Ca dao)
hoặc là trong Thơ mới:
Tằm
em ăn rỗi hôm nay,
Hái dâu em bận suốt ngày hôm qua.
(Nguyễn
Bính, Áo anh, 1939)
Trong một số công
việc liên quan tới nông nghiệp hay công tác nơi đồng áng nông thôn Việt Nam,
các việc làm như mót lúa hoặc hái dâu, hầu như chỉ dành cho lớp người phụ nữ
nghèo khổ bình dân trong xã hội. Với bốn thành phần giai cấp sĩ, nông, công,
thương của xã hội phong kiến Việt Nam từ ngàn xưa, những người chuyên nghiệp
mót lúa, hái dâu cũng không được xếp vào hạng nào cả trong các hạng nói trên
bởi vì điều kiện vật chất của họ tương đối thấp kém. Văn chương thi phú và các
hình thái nghệ thuật bác học khác trước đây cũng ít khi nhắc tới hoặc viết đến
họ. Họ không được một luật lệ nào của xã hội bảo vệ quyền lợi và cuộc sống của
họ cả.
Tuy nhiên, trong lịch
sử Việt Nam, một nhân vật nữ xuất thân từ nghề hái dâu hèn mọn đã leo lên vị
trí của một bậc mẫu nghi thiên hạ để lại tiếng thơm trong lịch sử, đó là Ỷ Lan
Nguyên Phi, vợ của vua Lý Thánh Tông (1054-1072), mẹ của vua Lý Nhân-Tông
(1072-1127).
Vào thời tiền chiến ở
nước ta, một số tác phẩm ít nhiều có viết về các đề tài xã hội và gần đây cái
khuôn hiện thực thuộc định chế xã hội chủ nghĩa có nhắc đến với mục đích sử
dụng tầng lớp nghèo của xã hội nông thôn làm đề tài trong một thể loại văn nghệ
gọi là nền văn nghệ minh họa qua đó mượn họ mà đề cao một chế độ chính trị hoặc
xưng tụng những kẻ cầm quyền của nền chuyên chính vô sản. Chúng ta đọc lại
chuyện Ỷ Lan, một người con gái xuất thân từ nghề trồng dâu nuôi tằm để trân
quý một mẫu người có nghị lực biết tìm cách vươn lên trong hoàn cảnh khó khăn,
một người có tầm nhìn hiện thực và đầy viễn kiến dù sống cách chúng ta hơn mười
thế kỷ.
1.-
Nghề tang tầm, nét đặc thù của nền văn hóa cần lao Việt Nam.
Nếu cây lúa là biểu tượng cho cái ăn của người Việt Nam thì cây dâu, con tằm
nói chung “tang tằm” chỉ cái mặc của tiền nhân chúng ta qua trường kỳ lịch sử.
Nền văn hóa Việt Nam trước đây chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc mà trong nền văn chương Trung Quốc, cây dâu được dùng để ví von cho nhiều việc, nhiều
sự kiện, tốt cũng như xấu, từ sự biến thiên thay đổi ngoài không gian đến tình
tự lứa đôi giữa các cặp trai gái thời xưa, sự được thua may rủi trong cuộc đời,
hình ảnh nói về cảnh quan địa lý, thậm chí đến cả kỹ thuật “chài mồi” bậc hoàng
đế quân vương trong chốn tam cung lục viện của các cung nữ ngày xưa.
Trong văn chương ta thường nghe “tang bồng” tức tang hồ, bồng thỉ: cung bằng gỗ
dâu, tên bằng cỏ bồng. Ngày xưa tục nước Tàu hễ đẻ con trai thì dùng cung tên
bằng tang và bồng bắn sáu phát lên trời xuống đất và ra bốn phương, tỏ ý người
con trai sẽ có công việc ở thiên địa tứ phương. Vì thế người ta dùng chữ
tang-bồng hồ-thỉ mà tỏ chí khí của nam nhi. 1 Liên hệ đến
tình cảm gia đình, người Trung Quốc dùng hai chữ tang và
tử (cây dâu và cây thị qua kinh Thi với câu “Duy tang dữ tử, tất cung kính chi”
ý nói cây tang, cây tử là của cha mẹ trồng, mình nhớ đến nó thì sinh lòng cung
kính. Sau vì thế mà nói tang-tử là nơi quê nhà.
Trong văn học Trung Quốc, người ta thường nói
“thương hải biến vi tang điền” hay ngắn gọn là “tang hải” chỉ sự đổi
thay trong ngoại cảnh không gian (biển xanh hóa thành ruộng dâu). Thành ngữ “Bộc
thượng tang gian” nói về tích xưa con trai nước Trịnh và con gái nước Vệ,
thời Xuân Thu, hẹn nhau ra vườn dâu trên bờ sông Bộc để tư tình. Một điển tích
khác nói rằng quan Thái Sử vua Trụ hay đàn bản dâm cho vua nghe. Sau ông trầm
mình chết ở sông Bộc, lưu truyền lại cho dân-cư tại đó những bản đờn dâm. 2 Trong
Kinh Thi của Trung Hoa, bài “Tang Trung” có câu : “Kỳ ngã vu tang trung”
(hẹn với ta ở trong bãi dâu) cười chê con trai con gái hẹn nhau làm việc dâm
bôn. “Tang trung chi lạc” nghĩa là “cái vui ở trong ruộng dâu” tức chuyện trai
gái cẩu hợp.
Trung Quốc có chữ tang
du. Sách Tàu xưa truyền rằng ở góc biển Tây có cây tang-du, mặt trời
đến đó thì lặn, nên người ta nói cảnh tượng người già gần chết, thì nói rằng
tang-du vãn-ảnh. Như vậy tang-du là phương tây nên còn có câu “ Thất chi đông
ngung, thu chi tang du” nghĩa là mất ở góc đông, thu lại góc tây, ý nói mới ra
lầm lỡ sau lại đền bù được vậy 3. Ở Trung
Quốc,
trong thời cổ, người dân không được phép trồng cây lớn trong ruộng, sợ mất đất
trồng lúa, nhưng được phép trồng dâu, rau, trái cây chung quanh mỗi nhà, có lẽ
cũng vì những lợi ích thực tiễn, ngắn ngày của chúng.
Trong văn chương bác học Việt Nam, qua tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, Ðặng Trần Côn
đưa vào đó hình ảnh cây dâu có lẽ cũng rất quen thuộc với xã hội nông thôn Việt
Nam, phản chiếu bóng dáng của một “thương hải biến vi tang điền” đậm đặc nét Trung Quốc trong ý nghĩa điển tích:
Tương cố bất tương kiến,
Thanh thanh mạch thượng tang,
Mạch thượng tang, mạch thượng tang…
Thiếp ý quân tâm thùy đoản tràng.
Ðoàn Thị Ðiểm (?) đã dịch là:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn
dâu xanh ngắt một mầu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? 4
Cụm từ mạch thượng tang (mạch: đường nhỏ, đường bờ ruộng) 5
được tác giả sử dụng kỹ thuật điệp ngữ để tạo ra hình ảnh trùng trùng điệp điệp
ngàn dâu xanh trong văn bản chữ Hán vẫn được dịch giả tài tình diễn lại trọn
tình, trọn ý trong bản Nôm!
Trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều đã mượn điển
tích của văn học cổ Trung Hoa nói về người cung nữ rải lá dâu trước cửa phòng
để dụ xe dê chở vị hoàng đế đi qua, dừng lại phòng mình để mong lọt mắt xanh
đấng cửu trùng:
Xe
dê lọ rắc lá dâu mới vào.
Kiếp tằm vương tơ, biểu tượng số mệnh của người nghệ sĩ, vốn là điều ai cũng
biết nhưng tìm nguồn gốc ví von này cũng không đơn giản. Con tằm đến thác vẫn
còn vương tơ. Từ đó biết bao nhiêu nhà thơ, nhà văn nói đến thân phận tằm cũng
để nói lên số kiếp của mình.
Trong văn chương bình dân nước ta, chúng ta cũng đọc thấy những vần điệu về
nghề tằm tang như sau:
Trời
mưa lác đác ruộng dâu,
Cái nón đội đầu, cái thúng cắp tay.
Bước chân xuống hái dâu này,
Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ.
Thương em chút phận ngây thơ,
Lầm than đã trải, nắng mưa đã từng…
Hoặc là:
Sáng ngày ta đi hái dâu,
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn.
Hai anh đứng dậy hỏi han,
Hỏi rằng: Cô ấy vội vàng đi đâu?
- Thưa rằng tôi đi hái dâu,
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
- Thưa rằng bác mẹ tôi răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Trong sách Tìm
về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho biết văn minh tằm tang là
của người phương Nam truyền ngược lên phương Bắc : “Trong những di chỉ khảo
cổ thuộc Hậu Kỳ Đá Mới cách nay khoảng 5.000 năm (như di chỉ Bàu Tró), đã thấy
có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung. Ðến giai đoạn Ðông Sơn (cách
nay khoảng 3.000-2.500 năm), hình người trên trống đồng đều mặc áo, váy và đóng
khố. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang – đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn
liền nhau của người nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa đã luôn xem đó là
hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam: Ðó cũng chính là hai đặc
điểm đầu tiên mà Từ Tùng Thạch kể đến trong cuốn Việt Giang Lưu Vực Nhân Dân
[Kim Ðịnh 1971a: 108]; trong chữ “Man”mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam
có chứa bộ trùng chỉ con tằm.” Và tác giả này trích dẫn: “Từ phương
Nam, nghề tằm tang đã được đưa lên phương Bắc. Sách Hoàng Đế Nội Kinh của
TrungQuốc nói về việc này một cách hình tượng là “Khi Hoàng Ðế chặt đầu Si Vưu
thì thần Tằm Tang dâng lụa cho ông”(hiểu là: khi bộ lạc phương Bắc do Hoàng Ðế
làm thủ lĩnh chiến thắng bộ lạc phương Nam do Si Vưu làm thủ lĩnh, thì người
phương Bắc tiếp thu được bí quyết nghề trồng dâu nuôi tằm của người phương
Nam). Các sách cổ Trung Quốc như Thủy Kinh Chú, Tam Đô Phú, Tề Dân Yếu Thuật…
đều nói rằng đến đầu Công Nguyên, trong khi ở Trung Quốc một năm chỉ nuôi được
3 lứa tằm thì năng suất tằm ở Giao Chỉ, Nhật Nam, Lâm Ấp (Chăm-pa) một năm đạt
được tới 8 lứa.” 6 Nói như vậy có
cường điệu phần nào chăng? Có thể là như vậy. Vả lại nền văn minh Ðại Việt tiên
vàn là nền văn minh Hán hóa và các tầng văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn rồi Ðông Sơn
có thật sự là nền văn minh Việt Nam hay của dân sở tại thuộc giống Indonésien
hay Mélanésien mà hậu duệ ngày nay là người Mường7, một vấn đề đã
được sử gia Nguyễn Phương, Giáo Sư Sử Học Viện Đại Học Huế nghiêm túc trình bày
cách đây hơn bốn thập kỷ?
Năm 1092, trong bước đầu củng cố và phát triển chế độ quân chủ tập quyền, nhà
Lý tiến hành lập địa bạ lúc đó gọi là điền tịch trong đó xác
nhận địa phận làng xã, kê rõ diện tích ruộng đất làng xã, phân loại phẩm chất
đất, phân loại theo cây trồng như trồng lúa, trồng dâu, trồng mía và như vậy
nghề trồng dâu đã được minh định trên sổ sách giấy tờ từ rất lâu cách nay mười
thế kỷ.8 Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
gọi tắt là Cương Mục, sau khi đánh thắng Hai bà Trưng, “vì thấy
huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong
Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập thành quách, đặt tỉnh ấp (xóm
làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái tổ kén,
nên gọi là thành Kiển Giang.” Lời chua sách Cương Mục tiếp
đó chép: "Theo Ðại Thanh Nhất Thống Chí, Thành Kiển Giang, thành Vọng
Hải đều ở huyện An Lãng. Khoảng năm Kiến Vũ (25-56), trong khi Mã Viện nhà Hán
sang bình Giao Chỉ, đắp hai thành ấy ở huyện Phong Khê và huyện Vọng Hải.”9 Kiển
là cái kén tằm, tức là cái tổ của con tằm nó tự nhả tơ ra để che mình nó. Như
vậy từ thế kỷ I sau Công Nguyên, nghề tăng tằm hay ít nhất ý niệm về nghề này
cũng mới được truyền vào nước ta qua công trình kiến thiết thành lũy của Mã
Viện, vị tướng nổi danh của phương Bắc. Việc Mã Viện dùng danh từ Kiển Giang để
gọi kiến trúc phòng bị mới xây hoặc là vì cấu trúc chung của thành có hình
giống cái tổ kén mà đặt tên về sau hoặc sơ đồ dự án xây cất dựa trên ý niệm
thời thượng lúc bấy giờ trong một xã hội mà việc tang tằm mới được du nhập và
cổ xúy ở nước ta.
Như một quy luật của lịch sử, các con sông lớn ở Việt Nam cũng như các con sông
khác trên thế giới thường tạo nên một số các nền văn minh quốc gia. Thí dụ ở Trung Quốc có hai sông Hoàng Hà và Dương Tử tạo ra nền văn
minh Trung Quốc. Ở Cận Ðông và Lưỡng
Hà Ðịa là văn minh của Mesopotamia thuộc hai sông Tigris và Euphrates. Ở Ai
Cập, có văn minh sông Nile. Các sông lớn ở Bắc Mỹ như Mississipi, Amazone hoặc
các sông ở Pháp như Rhône, Garonne, Rhin v.v… cũng từng giữ những vị trí quan
trọng trong đời sống người dân ở các vùng đất chúng chảy qua. Ở Việt Nam, nói
đến văn minh sông Nhị Hà, người ta thường gọi văn minh sông Hồng, hay ở trong
Nam thì gọi văn minh Nam bộ hay văn minh miệt vườn, có khi gọi là văn minh sông
Cửu Long.
Do việc những bãi đất tân bồi của sông ngòi xứ Bắc như bờ bãi sông Hồng, sông
Thái Bình, sông Thương là những vùng đất lý tưởng đối với việc trồng dâu nên đã
khiến nghề trồng dâu nuôi tằm trở thành một công nghệ gia đình phổ biến với
diện tích độ từ 14.000 đến 15.000 héc-ta.10 Tại miền Trung, đất
hẹp người đông, nhiều sông ngòi nên dân địa phương đã tranh thủ các vùng đất
bồi từ các sông thuộc rặng Trường Sơn phía tây đổ về để phát triển nghề trồng
dâu với một quá trình lịch sử cũng lâu đời như miền bắc và tơ tằm của ta ngay
từ thời Lê mạt đã cạnh tranh rất đắc lực với tơ tằm Nhật và Trung Hoa.
Ở Quảng Bình, dọc theo hữu và tả ngạn sông Gianh ở ba nguồn
sông là Nguồn Nậy, Nguồn Son và Nguồn Son có nhiều làng chuyên trồng dâu, dệt
vải, dệt lụa như Thuận Bài, Thổ Ngọa v.v… Quảng Nam có sông Thu Bồn, Quảng
Ngãi có sông Trà Khúc, sông Vệ, sông La-châu với những bãi đất mới ven sông do
các trận lụt thường niên bồi đắp, nông dân từ đời này sang đời khác tranh thủ
biến thành ruộng lúa, nương dâu. Tơ tằm dùng để dệt lụa và có khi được dùng để
đan lưới rất chắc. Các vùng đất thuộc lưu vực các sông ở Bình Ðịnh như sông
Vực-lấm, sông Ðà-bàng, sông An-lão, sông Kim-sơn thuộc tỉnh Bình Ðịnh, lưu vực
sông Ðà-Rằng thuộc tỉnh Phú Yên cũng có nhiều vườn dâu vì cây dâu ưa loại đất
xôm xốp có thấm nước. Tơ lụa ở huyện Duy Xuyên (Quảng Nam) cũng nổi tiếng khắp
nước, và dĩ nhiên nỗi vất vả còn theo mãi với cuộc sống người dân quê ở đây.
Ai về qua phố Hội An
Mua dùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên
(Trần Trung Ðạo, Lụa
Duy Xuyên).
Hay là:
Ai đứng đó bên kia bờ Giao Thủy
Khăn lụa vàng còn chít ở ngang vai
Nghiệp tầm tơ khuya sớm vẫn đeo hoài
Nghề canh cửi chắc còn nhiều cực khổ.
(Trần Trung Ðạo,
Bao giờ nhỉ tôi về thăm xứ Quảng).
Nói chung toàn bộ các tỉnh miền trung có khoảng 6.500 héc-ta vườn dâu. 11
Ở miền Nam, Trần Văn Giàu đã khái quát hóa khi cho rằng “trước khi Tây đến,
nghề trồng dâu để tằm khá thịnh đạt; rất nhiều làng có những “xóm lụa”, “xóm
lãnh”, “xóm cửi”. Vĩnh-long là một chợ quan trọng mua bán tơ, Sa-đéc, Bến-tre,
Hà-tiên, Châu-đốc, Long-thành, Thủ-dầu-một, xưa kia đều thịnh vượng về nghề tằm
tang lụa vóc. Nhưng đến sau 1914-1918 thì hầu như Nam-kỳ không còn có nghề trồng
dâu để tằm đáng kể nữa. Ðó là vì vải nước ngoài do Pháp đem vào cạnh tranh làm
cho nghề trồng dâu để tằm, dệt lụa chết sạch. Nay (sau 1914-1918) chỉ còn có ở
Tân-châu, Chợ-mới, Ba-tri, Cai-lậy, An-hóa. Từ năm 1920 đến 1927 chỉ có 450
éc-ta trồng dâu thôi; từ 1927 diện tích trồng dâu có lên, năm 1930, Nam-kỳ có
1.200 éc-ta trồng dâu.” 1
Dựa theo tài liệu của
nhà đương cuộc Pháp trong Niên Giám Ðông Dương, Nguyễn Phan Quang đã viết khá
đầy đủ về nghề tằm tơ. Theo ông vào những năm cuối thế kỷ XIX cây dâu được
trồng phổ biến ở Nam Kỳ. Mỗi gia đình trồng dăm gốc dâu để nuôi tằm, nhưng nghề
trồng dâu với quy mô lớn thì chưa thành hình. Giống dâu trồng phổ biến ở tỉnh
Gia Ðịnh là dâu tàu (gốc Trung Hoa), cho nhiều lá, thân cây rất cao. Ngoài ra còn
giống dâu sẻ, thích nghi với đất bùn, thu được ít lá. 13 Căn
cứ theo phúc trình của Công Sứ tỉnh Gia Ðịnh, trong Chiến Tranh Thế Giới lần
thứ nhất, ở Gia Ðịnh rất ít người nuôi tằm ươm tơ, chỉ thấy lác đác một số gia
đình ở An Thạnh, Long Tuy Hạ và Bình Trị Thượng. Sau Chiến Tranh Thế Giới lần
thứ nhất, diện tích trồng dâu ở Nam Kỳ có tăng thêm. Tổng diện tích trồng dâu
năm 1924 là 438 ha; trong đó nhiều nhất là Châu Ðốc (300 ha), Bến Tre (100 ha).14
Tư liệu của Nguyễn Phan Quang cho biết ở Nam Kỳ lá dâu có thể thu hoạch quanh
năm, còn ở Bắc Kỳ chỉ thu hẹp trong ba tháng mùa đông.15 Nói
chung toàn quốc có khoảng 20.000 hécta đất để trồng dâu.
Nghề tằm tang vốn là một nghề phụ của nông nghiệp nhưng đặc biệt lại là nghề
riêng của đàn bà con gái. Trong các gia đình Việt Nam ngày xưa, việc cày sâu
cuốc bẩm vốn để cho cánh đàn ông con trai vốn vai u thịt bắp, có sức khỏe chịu
đựng được mưa nắng còn nghề hái dâu, chăn (nuôi) tằm thường để cho con gái bình
dân nơi thôn xa, kể cả con gái nhà khá giả vốn cần mẫn, chịu thương chịu khó
với nghề nghiệp của mình. Ðàn bà, con gái Việt Nam sẵn khéo tay lại siêng năng,
tỉ mỉ, chu đáo nên khá thích hợp với nghề đó. Nhiều người xác nhận đây là một
nghề rất vất vả cực nhọc (Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa;
Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng). Kinh nghiệm nghề nghiệp cho biết
từ tơ tằm, người Việt chúng ta ngày trước đã từng dệt nên nhiều loại sản phẩm
khác nhau như: tơ, lụa, lượt, là, gấm vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, đũi, địa,
nái, sồi, thao, vân…
Nhà thơ Nguyễn Bính đã từng nhắc nhở như là những vật thể kỷ niệm:
Nào
đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Trong tác phẩm Việt Nam Phong Tục, Phan Kế Bính đã viết rất chi
tiết về cách nuôi tằm và cách ươm tơ với những đoạn trích dẫn như sau:
“Cách
nuôi tằm trước hết mua trứng ngài treo để chỗ mát cho nó nở ra các con sâu nho
nhỏ rồi bỏ vào nong, lấy lá dâu thái thực nhỏ như sợi thuốc lào, rắc vào nong
cho nó ăn. Mỗi ngày phải cho ăn độ ba mươi sáu hoặc bốn mươi tám lần, ít nhất
cũng phải hai mươi sáu lần. Cho ăn như thế độ một tuần lễ, rồi thái to hoặc để
cả lá mà cho ăn mỗi ngày độ năm sáu lần. Nuôi cho đến khi thấy con tằm vàng ánh
bụng ra thì bắt nó lên né cho nó kéo tơ làm tổ, gọi là quả kén.
Cứ hai mươi bốn ngày hoặc một tháng thì được một lứa tằm. Nhà thường thường mỗi
lứa nuôi vài chục nong, nhà giầu nuôi đến hàng trăm nong.
Nuôi tằm phải làm một phòng riêng hoặc phải làm riêng một cái nhà. Nền nhà phải
cao cho khỏi ẩm thấp. Nhà phải kín và bốn mặt đều phải có cửa, thường thường
phải mở cửa cho thông khí. Giời nóng phải mở cho mát, giời rét phải đóng cho
ấm.
Phải giữ gìn đừng cho ruồi nhặng đậu vào con tằm. Nếu để ruồi nhặng đậu vào thì
sinh ra bọ mà hại kén về sau. Lại phải giữ chuột vì chuột hay ăn tằm lắm.
Nuôi tằm kiêng nhất là hơi người chết. Nếu phạm phải hơi ấy thì tằm giã nước
mồm ra, ăn kém, không kéo được ra tơ mà làm thành kén nữa.
Lại kỵ nhất là gió tây. Hễ mùa bức động có gió tây thì tằm chết nhiều, nên phải
che kín chiều gió ấy mà mở cửa khác cho mát.”
Ngòi bút của Phan Kế Bính lướt vào lãnh vực ươm tơ từng chi tiết như độ
nóng của nước, cách bỏ kén vào nồi ươm, cái cần để bắt chéo mối tơ v.v… và kết
luận: “Nghề nuôi tằm và nghề làm ruộng đều là nghề nghiệp căn bản rất hệ
trọng cho việc sinh nhai và lại rất khó nhọc hơn cả mọi nghề, nước nào, thì
cũng phải trọng hai nghề ấy làm cốt. Nước Tàu và nước ta, nhà vua cũng phải có
ruộng tịch điền, có nhà tàm thất, vua thì phải thân canh, bà hoàng hậu thì phải
chăn tằm để làm gương cho thiên hạ, cũng là ý trọng nghề căn bản đấy thôi.”16
2.- Một bậc anh thư
nổi tiếng trong lịch sử xuất thân từ nghề hái dâu.
Dưới thời các vua nhà Lý, chính sách trồng dâu nuôi tằm được triều
đình khuyến khích, đặc biệt Lý Thánh Tông thường “khuyên dân làm ruộng trồng
dâu, chẩn cấp kẻ bần cùng, chấn chỉnh việc văn, xét duyệt võ bị, các chính sự
tốt, trong sử chép luôn luôn.”17 Thời Lý Thần Tông
(1128-1138), nhà vua cho lập tại chùa Kim Liên một cung điện để công chúa Từ
Hoa dạy dân trồng dâu nuôi tằm, thuở ấy mang tên là trại Tằm Tang.18 Lịch
sử Việt Nam trong thế kỷ XI cung cấp mẫu chuyện về một người con gái xuất thân
từ nghề hái dâu lại trở thành hoàng hậu, một bậc “mẫu nghi thiên hạ” đã để lại
một số nghi án trong lịch sử. Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư gọi tắt Toàn Thư chép như
sau:
“Bấy
giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mà chưa có con trai nối dõi, sai Chi Hậu Nội
Nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan Phu Nhân có
mang, sinh hoàng tử Càn Ðức tức Nhân Tông. (Tục truyền rằng vua cúng khấn cầu
tự chưa thấy hiệu nghiệm, nhân đi chơi khắp các chùa quán. Xa giá đi đến đâu,
con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ
đứng nép trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu,
phong làm Ỷ Lan Phu Nhân. Vua muốn có con trai, sai Bông đem hương cầu đảo ở
chùa Thánh Chúa. Nhà sư dạy cho Bông thuật đầu thai thác hóa, Bông nghe theo.
Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy là Ðồng
Bông. Chùa ở xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Ðồng Bông ở phía tây trước cửa chùa,
nay hãy còn). 19
Trước hết, sự kiện
cần được cẩn án lại đó là tên họ thực sự của người con gái hái dâu dựa trên một
số tài liệu của quốc sử quán (chính sử) và sử liệu tư nhân (dã sử). Ông vua mà
Toàn Thư vừa đề cập tới ở trên là Lý Thánh Tông, con trưởng của Lý Thái Tông,
mẹ là Kim Thiên Thái Hậu họ Mai, lên ngôi năm 1054, tại vị 17 năm, mất năm
1072. Ða số các tư liệu Việt Nam chỉ đề cập đến nhân vật nữ này với cái tên là
Ỷ Lan Phu Nhân (dựa vào cây lan). Cương Mục ghi mẹ đẻ của Thái tử Càn Ðức
(hay Kiền Ðức) là Ỷ Lan Nguyên Phi và không rõ họ là gì.20 Trong Việt
Sử Tiêu Án, Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ có ghi: “Vua mất, miếu hiệu là
Thánh-Tôn, Thái-tử lên nối ngôi vua, mới 7 tuổi, mẹ đẻ là Ỷ-Lan Lê-Thị.” 21 Như
vậy, Ngô Thời Sỹ đã biết rõ họ của bà Ỷ Lan nhưng không ghi tên thật mà chỉ để
Lê-Thị, vì theo lối viết sử trước đây, khi gặp nhân vật nữ người ta chỉ được phép
ghi họ mà thôi.
Trong tác phẩm Lý Thường Kiệt, Lịch Sử Ngoại Giao & Tông Giáo Triều
Lý, học giả Hoàng Xuân Hãn có dẫn sách Mộng Khê Bút Ðàm của Thẩm Hoạt đời
Tống viết rằng “Nhật Tôn (Thánh Tông) mất, Càn Ðức lên, chọn hoạn quan Lý
Thường Cát và mẹ Lê Thị Yến Loan Thái Phi cùng coi việc nước.” 22 Như
vậy Ỷ Lan Phu Nhân, mẹ của Lý Nhân Tông, có tên là Lê Thị Yến Loan.
Nếu chúng ta không đặt thành vấn đề việc một thiếu nữ không thèm ra đón nhìn xa
giá là chuyện thật hay hư cấu thì sự kiện đó cũng là một việc khác thường. Hoặc
là vì người con gái hái dâu kia thủ phận, không dám đua đòi với các chị em
chung quanh, hoặc là vì nàng coi khinh mọi đối nhân, đối tượng dù đó là vị vua
chúa giàu sang, quyền thế, mà trong đầu óc nàng đã xây dựng một mẫu người tình
lý tưởng khác hay đang nghĩ vẩn vơ về một chuyện nào đó mà lơ là đối với sự
kiện quan trọng kia chăng?
Toàn
Thư ghi thêm : “Ðổi hương Thổ Lỗi làm hương Siêu Loại, vì là nơi
sinh của Nguyên Phi.” 23 Theo Trần Trọng Kim, làng này
sau còn đổi là Thuận-quang có lẽ vì để tránh trùng tên với huyện
Siêu-Loại cũng thuộc tỉnh Bắc Ninh (nay là tỉnh Hà Bắc) chăng? 24
Hoàng Xuân Hãn cho biết : “Làng là bởi chữ hương mà dịch ra. Nhưng hương
không phải một làng nhỏ như bây giờ. Từ đời Tần, nước Trung Quốc chia ra từng
quận. Quận chia thành huyện. Huyện chia thành hương. Hương chia thành đình.
Ðình chia thành Lý. Tuy đời sau có đổi chế độ ít nhiều. Nhưng Hương vẫn là phần
của huyện. Lúc nước ta thuộc Bắc, nước thành quận, cũng bị chia ra châu hay
huyện. Vậy chế độ hương có từ đời ấy. Mà hương là lớn như một tổng lớn
đời sau.”25 Việc đổi tên làng từ Thổ Lỗi ra Siêu Loại
là một sự kiện khá đặc biệt trong lịch sử, có lẽ chịu ảnh hưởng của một tục lệ
thời thượng (đổi tên) từ tên mới của kinh đô là Thăng Long chăng? Dưới thời nhà
Nguyễn, khi viết về quê hương của Nguyễn Kim là làng Gia-Miêu (Gia Miêu ngoại
trang) và huyện Tống-Sơn, Quốc Sử Quán thường viết là quý hương và quý huyện để
tỏ lòng kính trọng (kị húy) chứ không đổi ra tên khác.
Lúc này mọi quyền hành thu vào trong tay Thái Hậu Dương thị và Thái Sư Lý
Ðạo Thành.
Cương
Mục chép: “Tháng giêng, mùa xuân, Lý Thánh Tông mất. Nhà vua mất ở
điện Hội Tiên; đặt tên thụy là Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường
Minh Văn Duệ Vũ Hiếu Đức Thánh Thần Hoàng Đế, miếu hiệu là Thánh Tông, ở ngôi
17 năm, thọ 50 tuổi.
Thái Tử Kiền Ðức lên ngôi, đổi niên hiệu mới (tức là Lý Nhân Tông).
Tôn mẹ già (đích mẫu) là Thượng Dương Thái Hậu Dương Thị làm Hoàng Thái Hậu, mẹ
đẻ là Ỷ Lan Nguyên Phi (không rõ họ là gì) làm Hoàng Thái Phi. Thái Hậu buông
mành, ngồi bên trong, nghe bầy tôi tâu bày và quyết đoán mọi việc chính sự. Nhà
vua mới bảy tuổi, Thái Hậu buông mành cùng tham dự chính sự. Thái Sư Lý Ðạo
Thành làm Phụ Chính.”26 Thái Phi dĩ nhiên không có
quyền hành cho bằng Thái Hậu. Vai trò của Thái Hậu lúc bấy giờ là “buông mành”,
nghĩa là bắt chước quy luật của Trung Quốc, tức “thùy liêm thính chính” (buông
rèm ngồi bên trong mà nghe việc nước). Trong triều đình nhà Lý lúc bấy giờ,
quyền hành thuộc về bà Thái Hậu họ Dương và Lý Ðạo Thành. Biết mình lâm vào thế
yếu nên dĩ nhiên Thái Phi phải tìm cách liên kết với một lực lượng để tranh
đoạt quyền hành, đó là phe nhóm của Lý Thường Kiệt lúc bấy giờ đang cầm quân đội.
No comments:
Post a Comment