Những điều ít được
biết về bài hát 'Đôi mắt người Sơn Tây'
Bài thơ được Quang Dũng viết tặng cho người
tình của ông, một kỹ nữ xinh đẹp. Chiến cuộc nổ ra, nàng lìa thành vào vùng
kháng chiến, chàng thành quân nhân lên đường chống giặc như bao trai tráng thời
tao loạn.
"Thương nhớ ơ hờ...
thương nhớ ai. Sông xa từng lớp lớp mưa dài, mắt em... ơi mắt em xưa có sầu cô
quạnh. Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai…"
Hầu như ai cũng biết đây
là sáng tác được Phạm Đình Chương phổ nhạc dựa trên lời thơ của Quang Dũng.
Nhưng không mấy người yêu nhạc xưa có thể biết được những câu mở đầu trong bài
hát trên là lời bài thơ “Đôi bờ” của thi nhân Quang Dũng.
Tôi dùng chữ thi nhân
thay vì thi sĩ để gọi Quang Dũng giống như những sách biên khảo khác. Xưa nay,
người ta gọi ông là thi nhân, bởi lẽ chất thơ trong Quang Dũng toát lên từ
những việc đời thường chứ không riêng gì trong thi ca. Con người tài hoa
ấy từng là chỉ huy một đơn vị trong kháng chiến chống Pháp và là nhà thơ trứ
danh thời đó.
Bối cảnh bài thơ khoảng
năm 1948, khi mà sự ly hương, tiêu thổ, hoang tàn vì cuộc chiến đã khiến cho
"người em" phải lìa bỏ thành Sơn Tây. Cuộc lửa binh “Từ độ thu về
hoang bóng giặc, điêu tàn thôi lại nối điêu tàn” khiến nhiều cuộc chia ly diễn
ra để tác giả phải thốt lên: “Mẹ tôi em có gặp đâu không. Những xác già nua
ngập cánh đồng”, “Tôi cũng có một thằng em nhỏ. Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi
sông”... cho đến đất đá cũng phải “nhiều ngấn lệ” đau thương.
Quang Dũng viết “Đôi mắt
người Sơn Tây” để tặng cho người tình của ông, một kỹ nữ trước kháng chiến tên
là Nhật, cô còn có mỹ danh khác là Akimi. Vào thời chưa có chiến tranh, khi
những giá trị xưa cũ vẫn còn, thi nhân, nhạc sĩ có tình nhân như thế là chuyện
thường.
Chiến cuộc nổ ra, nàng
lìa thành vào vùng kháng chiến, trở thành một cô bán cafe như những bài hát trứ
danh “Cô hàng cafe”, “Cô hàng nước”.... Còn chàng thành quân nhân lên đường
chống giặc như bao trai tráng thời tao loạn.
“Tôi từ chinh chiến đã ra
đi. Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì. Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc. Non
nước u hoài, non nước hao gầy, ngày chia tay. Em vì chinh chiến thiếu quê
hương. Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn. Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm. Em có bao
giờ, em có bao giờ, em thương nhớ... thương?”được.
Sông Đáy lững lờ chất
chứa nỗi lòng quanh Phủ Quốc. Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn trong tang thương,
mây trắng xứ Đoài nay chỉ còn trong hoài niệm, chỉ là một thứ mây Tần gợi cho
ta nhớ về cố hương xa vời.
|
Bài thơ "Đôi
mắt người Sơn Tây" được Quang Dũng sáng tác vào năm 1948, là một trong
những bài thơ nổi tiếng nhất thời đó.
|
Quang Dũng quê ở Sơn Tây,
quê ngoại của Hoài Bắc Phạm Đình Chương cũng ở Sơn Tây. Vì thế, hai tâm hồn
nghệ sĩ lớn đã tìm thấy sự đồng điệu trong thơ, nhạc. Bài hát “Đôi mắt người
Sơn Tây” được Phạm Đình Chương phổ nhạc vào mùa thu năm 1970 tại phòng trà “Đêm
màu hồng” (nổi tiếng ở Sài Gòn thời đó).
Đây là phòng trà do Phạm
Đình Chương lập nên, nơi ông cùng ban nhạc Thăng Long huyền thoại trình diễn
văn nghệ. Bài hát trên được ông phổ nhạc trong giai đoạn thứ hai của sự nghiệp
âm nhạc. Cuộc chia tay với nữ tài danh Khánh Ngọc đã làm ông trở thành một con
người khác, u uất hơn, tâm trạng hơn...
Trước đây, khi mới khởi
nghiệp, nhạc Phạm Đình Chương trong sáng bao nhiêu, ca từ đẹp đẽ yêu đời bấy
nhiêu thì kể từ sau cuộc hôn nhân tan vỡ, nhạc của ông trầm tư, ca từ u uất lạ
thường. Những tuyệt phẩm để đời trong giai đoạn này được ông sáng tác có thể kể
như: "Nửa hồn thương đau", "Người đi qua đời tôi",
"Đêm màu hồng", "Khi cuộc tình đã chết", "Dạ tâm
khúc"... và "Đôi mắt người Sơn Tây" bất hủ.
Giai thoại kể rằng, có
những đêm dưới ánh đèn màu mê hoặc của phòng trà “Đêm màu hồng”, trong cái đặc
quánh của khói thuốc và hơi rượu mạnh, khi mà ngoài xa kia vẫn văng vẳng tiếng
súng, tiếng đại bác... Thể theo lời yêu cầu của khách mộ điệu, Hoài Bắc (nghệ
danh của Phạm Đình Chương) tay cầm ly rượu cất giọng ca u hoài trứ danh thì
khán thính giả đều nín lặng trong tiếng nhạc hay tiếng lòng u uất của chính tác
giả. Đó là những phút giây bất hủ của nghệ sĩ tài hoa, làm thành những giai
thoại để đời của Hoài Bắc.
Bài thơ vốn dĩ đã hay lại
được đặt trong khuôn nhạc tuyệt diệu của bậc thầy phù thủy phổ thơ
trở thành tuyệt tác. Chỉ có những danh ca vào hàng tuyệt đỉnh với nội lực
thượng thừa mới có thể trình bày bản này như Thái Thanh, Duy Trác, Tuấn Ngọc và
chính Hoài Bắc.
Hãy nhìn vào nhạc phổ mới
thấy câu “em có bao giờ, em có bao giờ, em thương nhớ… thương” được Phạm Đình
Chương đặt nhạc tuyệt vời thế nào. Đây là câu khó hát nhất của ca khúc
này, ngoài những danh ca kể trên chưa ai có thể hát thành công.
Phạm Đình Chương đã sáng
tạo lời nhạc: “Em hãy cùng ta mơ, mơ một ngày đất mẹ, ngày bóng dáng quê hương
đường hoa khô ráo lệ…” thay cho lời thơ gốc: “Tôi gửi niềm nhớ
thương, em mang dùm tôi nhé. Ngày trở lại quê hương, khúc hoàn ca rớm
lệ…”. Chiến cuộc dù có đau thương thì người nghệ sĩ vẫn hoài mong về một
ngày thanh bình, ngày đó bóng dáng quê hương sẽ “khô ráo lệ” u hoài.
Thế rồi, một ngày chưa
hết chiến tranh nhưng người tình Akimi của ông rời bỏ vùng kháng chiến để “dinh
tê” về thành, bỏ lại nỗi u hoài cho người thi sĩ. "Dinh tê" vốn đọc
từ chữ "Rentrer" (quay trở về) trong tiếng Pháp, dùng để chỉ người
rời khỏi vùng kháng chiến về thành, tức vùng kiểm soát của Pháp.
"Rét mướt mùa sau
chừng sắp ngự, kinh thành em có nhớ ta chăng? Giăng giăng mưa bụi quanh phòng
tuyến, hiu hắt chiều sông lạnh đất Tề…" (Đôi bờ). Quang Dũng buồn vì
giờ đây hai đàng đã cách ngăn, nàng ở vùng Tề, còn chàng ở vùng kháng
chiến. Tôi đoán người đẹp ấy có nét tựa như con gái xứ Phù Tang. Vì thế
nét đẹp đó mãi mãi là "nàng thơ" trong các tác phẩm của Quang Dũng.
Mặc dù lời bài thơ
"Đôi bờ" chỉ góp mặt trong nhạc phẩm "Đôi mắt người Sơn
Tây" chỉ một khổ thơ đầu, nhưng để dẫn giải xung quanh "nàng
thơ" của Quang Dũng thiết tưởng nêu lên những câu chuyện diễm tình kia kể
cũng không thừa. Chỉ cách biệt nhau có một vùng giữa "thành" và
"khu" mà như cách biệt nhau cả đôi bờ.
Rồi nàng vào Nam, lần này
là cách biệt thật giữa hai đàng đất nước nhưng như xa cách cả đất trời. Để rồi
đêm đêm chàng thi sĩ chỉ còn mơ bóng Akimi hiện về trong đáy cốc rượu để nói
cười, để tâm sự cùng chàng. Thật hay là mộng? Mộng hay là thật? Chỉ thi sĩ biết
mà thôi.
Mùa thu 1970, khi cuộc
chiến đã đi vào những khúc bi thương nhất, người ta chỉ có thể hoài niệm về
những vùng đất xa xưa ở xứ Bắc, những chuyện tình của ngày thơ mộng cũ, nhưng
lời ru êm xưa qua trí tưởng. Hoài Bắc cũng mộng tưởng như vậy. Lần lượt những
xứ Đoài mây trắng, những Sông Đáy, những Phủ Quốc chầm chậm trôi qua trong trí
tưởng, đem lại những giây phút êm đềm ngắn ngủi về một thời thanh bình quá
vãng.
“Bao giờ tôi gặp em lần
nữa, ngày ấy thanh bình chắc nở hoa. Đã hết sắc mầu chinh chiến cũ, còn có bao
giờ em nhớ ta…”. Đoạn ngâm này của Hoài Bắc mới tuyệt diệu làm sao. Đó là
điểm nhấn trong suốt bản nhạc của ông. Thì ra, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù
tang thương binh lửa, dù đớn đau bởi đời sống nội tâm... người nghệ sĩ cũng để
dành một chỗ trang trọng, êm ái, bí mật và kín đáo cho nàng thơ của mình.
Phạm Đình Chương tự hỏi,
sau những mất mát đau thương của chiến cuộc, rồi một ngày thanh bình, ngày mà
những sắc hoa sẽ lại nở, liệu nàng có nhớ đến ta chăng? Đó cũng chính là lời
tâm tình của thi nhân Quang Dũng.
Phụ nữ muôn đời là niềm
cảm hứng bất tận của thi nhân, của nhạc sĩ. Cho dù đôi lần, người phụ nữ là
liều độc dược làm tan nát cả trái tim nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và "nàng
thơ" cũng làm Quang Dũng xót xa khi nàng bỏ về thành và vào Nam.
Bên cạnh đó, chính
người phụ nữ cũng là "thần dược" xoa dịu những vết thương đang
nhức nhối. Độc dược và tiên dược ấy đôi khi tách biệt nhau, đôi khi hòa lẫn
nhau để làm thành một thứ xúc tác thần kỳ tạo ra những tuyệt phẩm để đời.
Ở đoạn cuối của bài hát
có đoạn: “Đôi mắt người Sơn Tây, đôi mắt người Sơn Tây, buồn viễn xứ khôn
khuây…”. Điệp từ “đôi mắt người Sơn Tây” được lặp lại hai lần với một nỗi
u hoài man mác. Nhạc lúc này được cất lên cao vút, và người ca sĩ cũng xuất
thần, xuất hồn theo bài hát.
Bài thơ ra đời vào thời
kháng Pháp, bài nhạc được hoàn thành khoảng hơn hai mươi năm sau đó (năm 1970)
và xuất bản vào năm 1972. Tác phẩm được trình bày hết sức trang nhã và đẹp mắt
với nét chữ bay bướm.
Giờ
đây, nhạc sĩ và thi nhân ắt hẳn đã tương ngộ nhau nơi miền miên viễn, có chăng
còn lại cho đời là tuyệt phẩm "Đôi mắt người Sơn Tây" mà thôi.
Bài thơ gốc: Đôi
Mắt Người Sơn Tây.
Em ở
thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày
quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy núi Ba Vì
Vầng trán em mang trời
quê hương
Mắt em như nước giếng
thôn làng
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng
lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương?...
Mẹ tôi em có gặp đâu không?
Những xác già nua ngập
cánh đồng
Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Tử độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều
suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan?
Đôi mắt người Sơn
Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Thương vườn ruộng
khôn khuây
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn
tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến
cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?
1949
Quang Dũng
Không đề tên tác giả
304Đen – Đăng lại từ trang Hoài Niệm Tây Ninh
No comments:
Post a Comment