Chúc Mừng Năm Mới Nhâm Dần - 304Đen
Wednesday, January 26, 2022
Mộ Nửa Xuân - Thuyên Huy
Mộ Nửa Xuân
Lại một mùa
Xuân nữa
Em ở đó tôi
đây
Không có hoa
Mai nở
Không giao
thừa nơi này
Sáng đầu
Xuân ngày đó
Quen em bên rừng
Mai
Trống lân say
pháo nổ
Vàng trên
tóc em cài
Chùa đông người
hái lộc
Em thẹn
thùng bên tôi
Ngồi xa xa một
góc
Xuyến xao nhìn
nhau cười
Chuông từng
hồi chuông đổ
Người nô nức
đón Xuân
Chấp tay quỳ
nói nhỏ
Xuân này mãi
là Xuân
Xuân tàn tôi
rời xóm
Miệt mài xa
cứ đi
Sáng Ba Mươi
chợ nhóm
Em chết đêm
giặc về
Góc sân chùa
ngày cũ
Mộ em nằm quạnh
hiu
Rừng Mai buồn
thôi nở
Sầu vương nắng
Xuân chiều
Tôi đi em dưới
mộ
Mai muộn vàng
tiễn em
Ngút ngàn xa
chốn cũ
Xuân xưa biết
đâu tìm
Ngồi ở đây
mà nhớ
Một Xuân nữa
xa quê
Đong lệ sầu
thiên cỗ
Đâu đây thấy
em về
Thuyên Huy
Xuân người tàn Xuân mình chưa tới 2022
Tuesday, January 25, 2022
Người Lượm Tiền Trên Bải Đậu Xe Robert Barrett - Thuyên Huy
Người Lượm Tiền Trên Bải
Đậu Xe Robert Barrett
1.
Mới chập chững vào những ngày đầu Thu
mà trời hình như lạnh sớm. Cũng như thường lệ, trên đường làm ca đêm, đi bộ về,
từ đầu góc công viên Barrett, theo lối mòn nhỏ nằm giữa hai hàng cây thông chưa
đủ cao, chạy đổ dài dọc xuống cánh đồng cỏ, cuối bờ sông Maribyrnong, Ngữ băng
ngang bải đậu xe phía Nam khu thương mại High Point để về nhà trọ. Sương giăng
mù cả một khoảnh trời sáng sớm, lờ mờ chuyến xe điện từ hướng Moonee Ponds lặng
lẽ ngang qua, trên xe không thấy ai và ở trạm đón cũng không có bóng người. Người
đàn bà trong chiếc áo lạnh lùng thùng, tay dắt con chó nhỏ màu trắng ngà đi
ngang, gật đầu chào buổi sáng, Ngữ đáp lại như mọi ngày, không buồn nhìn mặt
nhau. Người đàn bà và con chó khuất dần ở cuối ngõ ra công viên từ lâu nhưng
không thấy bóng dáng bác Tư, người đàn ông lớn tuổi mà sáng nào Ngữ cũng gặp
khi đi làm về ngang, lang thang trên bải đậu xe. Ngữ đứng lại, đảo mắt nhìn kỹ
dưới những gốc cây khuynh diệp, có tàng lá lớn ướt đẩm hơi sương bao quanh nơi
này, không một bóng người, ngoại trừ hai ba con chim Hải Âu đuổi nhau giành đôi
miếng ăn thừa, mà người đi mua sắm vứt lại sau buổi chiều ra về muộn. Rải rác
đâu đó, hơn một chục cái xe đẩy mua hàng của mấy cửa hàng lớn và siêu thị Woolworth,
nằm bừa bải trên mấy lối đi dành cho người đi bộ.
Ngữ quen bác Tư vào
một sáng đầu Thu năm ngoái, trong những ngày đầu, mới đi làm ca đêm cho một xưởng
sản xuất ghế ngồi an toàn, gắn trong xe hơi cho trẻ em ở Tottenham sau khi hảng
điện tử cũ, nơi Ngữ vào làm từ ngày đến Úc đóng cửa, dời về Queensland, môt tiểu
bang khác, cách đây hơn mấy ngàn cây số. Trước đó vài hôm, ngày nào cũng vậy,
trên đường đi bộ về nhà trọ, băng qua bải đậu xe này, cũng vào giờ này, Ngữ đều
thấy một người đàn ông đi đứng khập khễnh, trông có vẻ già tuổi, trong bộ quần
áo cũ nhàu nát, đội cái nón vải rộng vành đen màu bạc như sương, lũi thũi đẩy từng
cái xe mua hàng, bằng sắt bạc của siêu thị, xếp nối hàng dài nhau trong khung cọc
sắt dành cho khách hàng trả lại, sau khi chất đồ vào xe hơi rải rác trên bải.
Ông cứ lầm lũi đẩy, cúi gầm mặt xuống đất không ngó ai, nhưng cũng không có mấy
người qua vì trời còn quá sớm. Ngữ nhìn ông trong mệt rã, sau một đêm thức trắng
làm công, vội vã về để còn kịp ngủ bù lại cho đêm nay.
Buổi sáng đầu Thu
năm ngoái đó, trên đường đi bộ về, bất chợt trời đổ mưa lất phất như sương mang
theo cái lạnh giao mùa khó chịu. Người đàn ông với bộ quần áo nhàu nát và cái
nón vải củ bạc màu sương mà Ngữ gặp mấy hôm trước, đã có trên bải đậu xe từ hồi
nào rồi, hình như ông mới đẩy một hai xe mua hàng, vì còn thấy nhiều cái khác
còn nằm rải rác, chắn ngang những lằn vạch sơn trắng chia ô đậu xe. Đi ngang
qua, ông không buồn nhìn lên, Ngữ cũng không buồn ngó lại, ở phía dưới đồi cỏ,
con sông Maribyrnong lặng thinh chờ mặt trời lên đâu đó. Chưa kịp bước qua phía
bên đường, có tiếng kêu “trời ơi” nghe thật rõ, át tiếng mưa, Ngữ khựng người
quay lại, ông trợt té nằm ngã dưới đất, bên cạnh cái xe mua hàng cũng lật
nghiêng, bất động.
Ngữ quăng túi xách,
ngồi bệt xuống, cố dùng hết sức đở ông lên. Toàn thân ông run từng chập, Ngữ cởi
cái áo khoát của mình ra, choàng qua người ông, rồi một lần nữa đở ông đứng dậy.
Qua màn mưa lất phất, cả hai ướt sũng, ông cố nhìn xuống đất, trên mặt đường nhựa,
rãi rác hai ba đồng bạc cắc ngay chỗ ông té hồi nãy. Ngữ nhặt túi xách lên, dìu
ông chầm chậm qua bên kia đường, ngồi xuống cái băng gỗ dài đặt một bên hành
lang cửa ra vào khu thương mại. Ông thì thầm hai tiếng cám ơn trong lúc Ngữ đưa
tay vuốt nước mưa đang chảy dài xuống mặt mình. Ngữ nhìn ông cười mà không nói
gì hết. Đã có một chút mặt trời lưa thưa vài chỗ ngoài bải đậu xe, khu thương mại
vẫn chưa tới giờ mở cửa. Hai người ngồi lặng thinh, không ai nói lời nào, Ngữ
quen ông từ ngày hôm đó và cũng biết ông đã làm cái việc đi lượm tiền bạc cắc từ
các cái xe đẩy mua hàng của siêu thị, trên bải đậu xe của khu thương mại High
Point từ lâu lắm rồi nhưng chưa hề hỏi tại sao và để làm gì.
Từ ngày đó, Ngữ
không hỏi tên hay tuổi ông mà chỉ gọi hai tiếng bác Tư. Trước ngày mất nước, Ba
Mươi Tháng Tư năm Một Chín Bảy Năm, bác là xã trưởng của một xã nhỏ, thuộc quận
Cai Lậy, tỉnh Định Tường, gần cầu Long Định. Vợ bác có một sạp bán trái cây
trong nhà lồng chợ khá đông khách. Bác có hai đứa con, một trai trạc cở bằng tuổi
Ngữ và một gái học ở trường tiểu học quận. Cuộc sống gia đình bác lúc bấy giờ
tương đối an bình dù chiến cuộc xem ra ngày càng tăng hơn trước. Quân du kích
Việt cộng thường rình mò về phá rối tại các ấp trong xa, nhất là những vùng nằm
kề cận phía Mộc Hóa, Kiến Tường. Một ngày giữa tháng 3 năm 1974, Việt Cộng dùng
súng cối 82 ly pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy lúc xế trưa, đúng ngay giờ
đang ra chơi, giết chết 32 em trong đó có hai đứa con của bác Tư và gần 50 em
khác bị thương nặng. Vợ bác cũng không may, trúng đạn chết vì mấy trái đạn pháo
khác lạc qua làm sập khu đầu chợ gần trường không xa, nơi sạp trái cây bà ở đó.
Cả trời Cai Lậy phủ mờ một màu tang và nước mắt trên từng nấm mộ của trẻ thơ vô
tội. Sau ngày chôn cất, bác có ý định về lại quê cũ ở Chợ Gạo, Bến Tranh nhưng
trong nổi đau mất mác tột cùng này, bác lại rơi vào tình cảnh, đi không nở mà ở
cũng không đành. Biết là bác sẽ buồn, nhưng bác chỉ buồn có một, mà vợ con đang
nằm dưới ba tấc đất kia sẽ buồn tới mười, bác không muốn người ta gọi là những
nấm mồ vô chủ. Bác quyết định ở lại xã, ở lại Cai Lậy nơi bác đã lớn lên và sống
một phần đời với mùi bùn của đồng chua nước mặn từ những ngày sau đó
Miền Nam thua cuộc,
cùng với nhiều người khác, bác bị bọn cầm quyền quận Cai Lậy bắt tập trung nhốt
vào trại tù cải tạo ở khu Bến Đá, Mộc Hóa mênh mông trời nước, sau lần cúng giỗ
đầu cho vợ con. Căn nhà bác ở cũng nhanh chóng đặt dưới quyền quản lý của họ,
ngay khi bác ôm cái túi xách đựng mấy bộ quần áo bước ra khỏi cửa. Giữa mùa nước
lụt hơn ba năm sau, bọn cộng sản buộc phải dời trại tù và cũng là lúc họ cho
tràn bộ đội vào đất Miên, thêm hàng ngàn thanh niên buộc đi làm “nghĩa vụ quân
sự”, bác cùng hai ba người bạn tù khác trốn trại trên đường di chuyển bằng ghe
xuồng, trà trộn vào đám thanh niên qua được tới vùng người Việt sinh sống quanh
Biển Hồ. Định mạng một lần nữa không cho bác một sự chọn lựa nào khác hơn, đành
làm người thất hứa, đành phải sống mà bỏ đi, vợ con bác ở lại dưới những nấm mồ
vô chủ. Đã không còn nữa nước mắt mà khóc, bác sống vất vưỡng theo đó, ăn nhờ ở
đậu, làm thuê làm mướn, lần mò cũng lên được tới miệt biên giới phía bắc và cuối
cùng nhập đoàn vào nhóm người vượt biên bằng đường bộ từ Sài Gòn lên vào đất
Thái Lan. Ở trại tỵ nạn chưa tới hai năm, bác được một hội từ thiện Tin Lành
người Úc, bảo trợ đưa qua định cư ở tiểu bang Tasmania, một cái đảo nằm chếch cận
Nam cực của lục địa Úc trong một ngày đầu Đông buốt lạnh.
Không học hành nhiều,
tiếng Anh tiếng u ngọng nghệu, người Việt lại không có bao nhiêu, bác Tư theo
vài người mới quen từ trại tỵ nạn, trên cùng chuyến máy bay Qantas ngày qua
Tasmania, bỏ nơi này vào đất liền, tìm một chỗ ở đậu nhờ trong cái nhà phụ, dựng
phía sau mà người ta gọi là cái “băn-ga-lô”của ông mục sư Tin Lành khá già người
Úc, chủ tế cái nhà thờ cây cũ kỹ nghèo nàn, ở vùng ngoại ô thành phố Ascot
Vale, thuộc tiểu bang Victoria, một tiểu bang có số người Việt sinh sống đông
thứ nhì và thành công, giàu có có tiếng trên xứ Úc này. Cũng may, Bác tìm được
việc làm tại hảng vỏ xe hơi Dunlop sau ngày đến Melbourne không lâu, một việc
làm cần tay chân, ra dấu nhiều hơn là nói năng và cũng không may, tại chỗ làm,
không bao lâu, một ngày đó, khi dùng cần trục bằng điện kéo cuộn cao su lớn khoảng
thùng phuy đựng dầu, để thay cho cái vừa hết, thanh sắt ngang, tuột khỏi dây
xích, rớt đè đánh trúng vào ống chân, bác té quỵ, không có máu nhưng đau đớn
không thể tả. Xe cứu thương đưa bác vào bệnh viện, nằm ở đó gần một tháng trời,
cuối cùng bác bị gảy xương ống chân và trở thành một người tàn tật vĩnh viễn.
Một hôm sáng sớm trời
giữa Hạ, bác quen một ông già người Úc, hình như cũng bệnh hoạn lắm, quần áo
cũng rách nát tả tơi, lang thang bước mất bước còn, đi lượm tiền bạc cắc, bằng
cách đẩy mấy cái mấy cái xe mua hàng của siêu thị xếp nối hàng vào nhau, để tiền
rớt ra từ ổ khóa, trên bải đậu xe ở công viên Barrett, khi ngồi nghỉ chân bên cạnh
ông già, dưới gốc cây thông rậm bóng, chờ xe điện về nhà, trên sân cỏ úa màu trời
rám nắng không xa bải đậu xe bao nhiêu. Hai người ba xí ba tú quơ tay gục gặc
nói với nhau bằng tay chân, không biết có hiểu hết những gì mình nói hay không
nhưng người ta thấy họ lúc thì gật đầu, lúc thì lắc đầu, nhìn nhau cười khoái
chí. Ông già người Úc, dẫn bác Tư tới chỗ mấy cái xe đẩy, chỉ cho bác làm sao lấy
tiền bạc cắc ra và đưa cho bác vài đồng, vừa kiếm được sáng nay, ra dấu chỉ vào
chai nước nhỏ bằng mủ mà hai người đang uống, bảo bác cầm lấy. Rồi sáng nào
cũng vậy, bác cũng đến công viên, gặp ông già người Úc, hai người lầm lũi loanh
quanh từ bải đậu xe bên này đến bải đậu xe phía bên kia đường Rosamond cho đến
giờ trung tâm thương mại mở cửa. Không lâu sau ông già người Úc qua đời vì xuất
huyết mạch máu não và từ đó bác Tư thui thủi một mình.
2.
Ngữ đi nhanh hơn thường lệ, cố nhìn
quanh quất một lần nữa trong màn sương mờ mờ đục, tới gần cuối rào của bải đậu
xe, nơi giáp ranh với một khoảng đất rộng, đầy cỏ hoang khoảng chừng cái sân đá
banh, bỏ trống từ mấy năm qua và con đường tráng xi măng, dùng để xe hàng loại
lớn chất bỏ đồ đạc xuống cho cửa hàng bách hóa Target. Lố nhố hai ba người đứng
lên ngồi xuống chỉ chỏ dưới đất, trước vĩa hè của tiệm bán máy may, dưới gốc
cây to có nhiều hoa tim tím nhỏ, có cái gì đó hơi lo, Ngữ chạy vội đến, bác Tư
nằm im bất động, hơi thở xem ra ngắn và từng cơn một, một hai cái xe đẩy mua
hàng nằm rải rác sát bờ tường. Một trong mấy người này, người đàn bà lớn tuổi
cho Ngữ biết, họ chạy bộ thể dục ngang, thấy ông đang đi té ngã xuống, nên dừng
lại xem, chắc là bị “đứng tim” nên dùng điện thoại di động gọi xe cứu thương rồi.
Chưa kịp hỏi thêm câu nào, thì xe cứu thương tới với tiếng còi hụ kéo dài, vang
lanh lãnh cả một khu phố còn lặng im ngáy ngủ. Hai nhân viên cứu cấp, kéo băng
ca, nhanh nhẹn dùng ống nghe, vừa khiêng bác lên xe vừa ra sức đè tay lên ngực
bác liên tục. Theo thủ tục, với sự đồng ý của mình, họ điền tên Ngữ là người
thân trên phiếu bệnh nhân, Ngữ nghe lời họ nhảy vội theo xe, tiếng còi một lần
nữa ré lên, chiếc xe chạy bất kể đèn đường xanh đỏ về hướng bệnh viện Western
General, bác Tư vẫn còn thoi thóp. Tới bệnh viện, người ta đưa bác vào phòng cấp
cứu, Ngữ ở lại đó cho tới quá trưa, rồi ra về trong nổi buồn cay mắt, cô y tá
trực không quên xác nhận lại số điện thoại di động của Ngữ trước khi nói tạm biệt.
Quá nửa khuya của ca làm đêm, bệnh viện gọi điện thoại cho Ngữ báo tin bác Tư mất
trước đó chừng hơn một tiếng đồng hồ. Ngồi
bất động, có chút nước mắt vội ứa ra mằn mặn trên môi, nổi đau vằn vặt kéo
chùng lòng mình xuống, Ngữ chợt biết mình vừa khóc, trước mặt, cái máy đúc
khuôn ghế đã ngưng chạy từ lâu, Ngữ vẫn ngồi yên ở đó.
Ông mục sư già người
Úc đem bác Tư đi chôn tại khu đất nhỏ gọi là nghĩa địa của hội nhà thờ, có mấy
cây Phượng tím và cánh đồng hoa dại vàng rộng mênh mông, mà ông là người cai quản,
ở một vùng nông thôn hẻo lánh. Đám tang chỉ có năm người vỏn vẹn, ông mục sư, một
bà cụ già bưng đồ lễ, hai người đàn ông lo việc đào đất và Ngữ. Chờ ông mục sư
làm dấu thánh giá kết thúc phần nghi lễ cầu nguyện, như đã nói với ông, Ngữ gom
hết những gì ở cái “băn-ga-lô” gọi là của riêng bác Tư, bỏ xuống huyệt, trong
đó có cái bao vải màu nâu bạc sờn nếp nhăn với tấm hình đen trắng hoen màu loang lỡ, chụp
vợ chồng bác và hai đứa con trước cổng trụ sở xã với lá cờ ba sọc đỏ phía sau,
hai đồng tiền cắc 50 xu của VNCH đã đen hơn phân nửa và một cái lon nhỏ đầy các
đồng bạc cắc Úc mà bác đã lượm nó trong vài năm qua. Hai người đàn ông
phụ việc lặng thinh, nhẩn nại cúi người đấp từng lớp đất một. Nắng trở mình, chạy
dài từng vệt nhỏ về từ phía cuối cánh đồng, bóng ông mục sư già nghiêng theo
hình cây thánh giá nằm vắt ngang nấm mộ mới đấp.
Một lần nữa, ông mục sư sờ tay lên trên
lớp đất cao và cái mộ bia bằng gỗ xám, làm dấu thánh giá và lâm râm đôi lời trước
khi lên xe, ở đó mấy người đi theo đang chờ. Ngữ ngồi xuống, đưa tay vuốt trọn
tên bác Tư trên mộ bia, thì thầm, vĩnh biệt và cầu mong bác tư ra đi bình yên,
sớm gặp lại gia đình ở nơi không còn oan nghiệt và ở đó, bác sẽ mừng vui vô hạn,
mang về cho con mình những đồng tiền bạc cắc mà bác đã chắt chiu đi lượm trên
công viên Barrett. Chiếc xe hơi cũ chỡ người đi đám tang, nặng nề khuất dần sau
hàng cây thông già ngoài đường cái. Ở một
phía xa đằng sau nghĩa địa mây kéo nhau về một màu xám ngắt, trời bất chợt nổi
gió.
Thuyên
Huy
Quê Tôi Bến Cầu & Tìm Ánh Trăng Xưa - Nguyễn Thị Châu
QUÊ TÔI
BẾN CẦU
Ai có về lại Bến Cầu không?
Cho tôi nhắn nhủ lại đôi
dòng
Quê hương tôi đó ngày hôm
ấy
Thảm lúa vàng om trải đầy
đồng
Con sông Vàm Cỏ chia nhiều
nhánh
Có con đò nhỏ khách sang
sông
Đưa ta đến những vườn xanh
mát
Vang tiếng ngày xưa vùng
ngủ long.
Long Thuận Long Khánh Long
Giang đó
Long Chử Long Phi ngoảnh
lại nhìn
Bàu Tràm Tiên Thuận chim xoải
cánh
Lợi Thuận đi ra nhớ bưng
xình.
Mộc Bài nhìn qua biên giới
bạn
Gió bay đem lại ánh trăng
sầu
Trăng về An Thạnh buồn
thương nhớ
Yêu mến quê tôi huyện Bến Cầu ...!
Nguyễn thị Châu
12-1-2022
TÌM ÁNH
TRĂNG XƯA
Người hởi có hay tôi một
mình
Đang nhìn xa vắng nhớ bình minh
Đêm nay trăng sáng thăm bên ấy
Tôi lại hờn trăng chẳng nhớ
mình.
Một mình thao thức suốt
canh thâu
Nhớ trăng nhớ cả áng mây
sầu
Đau thương khép kín đời đơn
độc
Tôi đến đây rồi trăng ở
đâu?
Nếu mai tôi đã xa trăng rồi
Trăng còn có nhớ bóng hình
tôi
Có còn thương nhớ loài hoa dại
Một mình ôm mãi bóng trăng
thôi
Đêm nay trăng sáng ngoài hiên
vắng
Bỏ lại tình xưa ướt lệ sầu
Một mình lại nhớ trông
trăng đến
Trăng hởi bây giờ trăng ở
đâu ??
Nguyễn thị Châu
12-1-2022
Phượng Cầu Hoàng Trong Bích Câu Kỳ Ngộ - Vũ Thế Thành
Phượng Cầu Hoàng trong Bích
Câu Kỳ Ngộ
Hồi
học Đệ lục (lớp Bảy bây giờ), trong phần Cổ văn, tôi phải học Bích Câu Kỳ Ngộ.
Đây là truyện thơ lục bát dài cả mấy trăm câu, tôi chỉ được học trích đoạn. Tôi
không hiểu tâm tư cô giáo thế nào mà lại cho đám học trò vắt mũi… chưa (chắc)
sạch như bọn tôi học trích đoạn Tú Uyên tương tư Giáng Kiều.
Vũ
Thế Thành
Thực ra, trích đoạn này cũng nằm trong quyển Việt Văn lớp Đệ lục của giáo sư Phan Ngô, mà cô
giáo khuyến khích nên mua để đọc thêm. Khuyến khích chứ không bắt buộc, vì bả
không bao giờ kiểm tra sách, mà chỉ kiểm tra vở xem học sinh có chép bài tử tế
không, có chịu học thuộc và hiểu những gì bả “muốn” không.
Bị “truy bức” thì cũng phải ráng lảm nhảm học cho thuộc. Mà thơ lục bát
vần điệu êm tai nên cũng dễ nuốt. Cho đến giờ, cả nửa thế kỷ trôi qua tôi vẫn
còn nhớ, mà nhớ gần hết chứ không đùa. Đây này…
Lần
trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn
thông khêu cạn giấc hòe chưa nên…
Cổ văn thường có nhiều điển tích. Điển tích giống như những câu chuyện
nhỏ trong một truyện thơ lớn. Nghe chuyện phong thần, tình ái lãng mạn thì
người lớn còn thích, huống chi con nít. Nghe giảng, đọc phần chú thích trong
sách, có khi còn lò mò lần qua những trích đoạn khác để xem thêm.
Nhờ môn Cổ văn mà tôi hiểu thêm được nhiều từ Hán Việt, thêm các điển
tích… Tôi có thể nói với các ông thầy bà cô dạy Văn thời nay, nói không cần
khách sáo, rằng nếu bây giờ mà tôi giảng trích đoạn Tú Uyên tương tư Giáng
Kiều, không chừng còn hay hơn… nguyên bản. Suy bụng ta ra bụng người mà không
hay sao được.
Có một điển tích mà tôi rất thích, đó là Phượng
Cầu Hoàng. Điển tích này có trong trích đoạn Tú Uyên tương tư Giáng
Kiều mà tôi đã học hồi nhỏ:
Cầu
Hoàng tay lựa nên vần
Tương
Như lòng ấy Văn Quân lòng nào!
Ngày xưa, nói đến chim phượng, người ta hiểu đó là con phượng trống, còn
phượng mái gọi là chim hoàng. Phượng Cầu Hoàng là
khúc ca nói về chim phượng trống đi tìm chim phượng mái. Cũng chẳng khác gì, Tú
Uyên lòng ấy Giáng Kiều lòng nào. Chuyện ái tình giai gái là thế!
Tư Mã Tương Như là tay phong lưu tài tử, nổi danh cầm kỳ thi họa, ngao
du đây đó, cùng bạn đến chơi nhà Trác Văn Quân. Biết Văn Quân lấp ló sau rèm
nghe… lén, Tương Như làm khúc ca Phượng Cầu Hoàng để
ghẹo cô nàng, rồi đàn hát luôn tại bữa tiệc. Văn Quân nghe nhạc, phải lòng
Tương Như, nhưng ông bố lại không ưng. Con phượng mái nửa đêm trốn nhà đi theo
phượng trống.
Hồi trước học Việt văn, dù không có khiếu (mà cũng không ưa luôn) món
văn tả tình tả cảnh, lòng thòng dây nhợ, nhưng tôi thấy thoải mái, không bị áp
lực khuôn mẫu, tha hồ tán hươu tán vượn, miễn là đừng lạc đề và không được nói
trật, chẳng hạn “cầu Hoàng” mà bốc phét là cái cầu có tên Hoàng thì mới bị lãnh
búa. Chứ còn nói trật ý thầy cũng chẳng sao.
Thí dụ, Tú Uyên mới gặp Giáng Kiều lần đầu là đã mê mệt, mê đến phát ốm,
thơ văn chứng cớ rành rành ra đó, cãi thế nào được. Nhưng bây giờ nói ngược
lại, Giáng Kiều mồi chài Tú Uyên cũng rành rành ra đó. Ai thả lá hồng đề thơ
rơi vào chân Tú Uyên ở sân chùa? Làm gì có chuyện “hoa rơi hữu ý, nước chảy vô
tình” đến thế? Rồi sau đó cô nàng mới từ cổng chùa nhẹ nhàng bước ra, lượn qua
ẻo lại thì còn gì hồn vía con nhà người ta! Chưa hết, lại bày ra trò báo mộng,
nhập hồn vào tranh vẽ… Sao chỉ toàn là những chuyện vô tình có nguyên cớ thế?
Mấy chiêu trò ảo diệu này chỉ có tiên mới làm được. Giáng Kiều là tiên, dù là
tiên bị đọa, nhưng biết được cơ trời, biết cái số của mình phải vướng vào Tú
Uyên, nên mới bày vẽ ra trò mèo vờn chuột cho biết tay bà. Tiên mà xuất chiêu
thì phàm nhân trốn đâu cho thoát?
Ấy là sau này tôi ngẫu hứng mà “phản biện” như thế, chứ hồi đi học, hai
chữ “tương tư” còn chưa hiểu mùi vị ra sao, ở đó mà đòi “phản biện” đấu phép
với tiên. Nhưng nói ngược với thầy cô là chuyện thường, được khuyến khích ở học
đường, lọt tai thầy cô có khi được điểm cao cũng không chừng.
“Nói ngược” ở học đường thuở niên thiếu, và “nói ngược” sau này ở môi
trường giáo dục cao hơn là cách nói dân dã. Thực ra đó chính là “Khai
phóng”, một trong ba nguyên tắc trong triết lý giáo dục miền Nam thuở trước
(Nhân bản – Dân tộc – Khai phóng). Khai phóng mới bật ra Sáng tạo. Đi học là để
sáng tạo, chứ không phải copy / paste.
Trở lại khúc ca Phượng Cầu Hoàng,
Trác Văn Quân sau khi trốn nhà đi… bụi đời với tình nhân đã sinh nhai bằng cách
mở quán… nhậu. Thật tuyệt vời! Vài tài liệu sau này nói rằng họ mở lò rượu,
nhưng tôi ngờ. Cặp vợ chồng tài hoa này phải mở quán nhậu thì tao nhân mặc
khách mới tìm đến, chứ mở lò rượu thì đi bỏ mối rượu à?
Bích Câu là địa danh có thật, nằm đâu đó ở Hà Nội. Tôi chưa đến, mà chắc
cũng không bao giờ dám đến.
Nhưng ở Đà Lạt thì có quán Bích Câu, nằm trên rẻo đất nhô ra ở hồ Xuân
Hương, cũng có cây cầu gỗ bắc qua lạch nhỏ. Thỉnh thoảng tôi vẫn ra đó uống cà
phê vào sáng sớm, đọc sách và ngắm trời mây non nước. Phải là sáng sớm, vì khi
nắng lên, khách du lịch vào nhiều, Đà Lạt biến mất.
Truyện Bích Câu Kỳ Ngộ thật tẻ nhạt,
chẳng có gì đáng nhớ, nhưng điển tích Phượng Cầu Hoàng trong đó lại là câu
chuyện đẹp. Khúc ca ngân nga mãi trong lòng…
Phượng
hề, phượng hề quy cố hương,
Ngao
du tứ hải cầu kỳ hoàng…
Vũ
Thế Thành,
Đà
Lạt, 24.1.2017
(trích ” Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ”, 2020)
304Đen – llttm - sgtc
Saturday, January 22, 2022
Em Ở Đó Anh Nơi Này - Thuyên Huy
Em Ở Đó Anh Nơi Này
Nhớ Đông
Nghi và những ngày mới lớn ở trường xưa bên bờ sông chợ quận
Ở đó có dòng
sông và những cơn mưa muộn
Nơi này có
con đường và những chiều mù sương
Em ở đó chắc
còn dáng xưa áo bay theo gió
Anh nơi này
một mình lầm lũi một mình buồn
Trời ở đây
mùa thu cũng thu vàng lá đổ
Mùa lá thay
màu như ngày mới quen nhau
Lối nhỏ sáng
chiều hai buổi mình qua phố
Mưa nhè nhẹ
như những ngày mưa muộn cũ
Sông xuyến xao
trộm nhìn em nghiêng nón che đầu
Bên em đường
hun hút mắt sâu
Buồn em mang
về để sầu cho anh ở lại
Nơi này cũng
có dòng sông
Nhưng không là
dòng sông của hai mùa mưa nắng
Bờ hai bờ
sáng chiều im vắng
Không có lục
bình bông tím ngắt ngược xuôi
Không có con
đò ngang chờ nhau trên bến nắng chiều rơi
Chiều tan
trường bịn rịn bước đi bước ở
Xa thật rồi
xa mà cứ nhớ
Em ở đó anh ở
đây
Sáng trưa
chiều kể chuyện với cỏ cây
Những chuyện
mà cây cỏ nghe hoài không hiểu được
Hỏi với cỏ
cây em có còn bên sông hai mùa con nước
Hay bỏ những
cơn mưa chiều muộn đi xa
Khép áo
không còn thả gió bay đôi tà
Nếu vậy,
khép lại đi em để đừng lỡ một đời con gái
Khi anh vẫn mãi
là bóng chim tăm cá tận chân mây
Đã quá muộn
nhưng thôi xin được tạ tình
Cám ơn em những
tháng ngày hoa mộng
Thu hôm nay
tàn rồi ngày mai lại đến
Cố quên mà vẫn
nhớ những cơn mưa muộn và một dòng sông
Thuyên
Huy
Mùa đông
vừa tàn hôm qua 2021
Xuân Đất Khách - Nhóm Vườn Thơ Mới Xướng Họa
THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 91- VƯỜN THƠ MỚI
Bài
xướng:
XUÂN ĐẤT KHÁCH
Mừng xuân
mới ngậm ngùi nơi đất khách
Nhìn hàng
cây trong gió lạnh mùa đông
Vọng cố hương sao tránh khỏi chạnh lòng
Mấy ngày Tết lòng vòng
trong xóm nhỏ
Đưa
ông táo mang lư đồng kỳ cọ
Phản
chiếu gương soi rõ mặt người lau
Nguời phương xa thì chột dạ
nao nao
Kẻ ở lại vui mừng màu mai thắm
Xuân năm
nay mong bên nhà êm ấm
Chớ bận tâm rối rắm kẻ xa
nhà
Đêm
giao thừa mà không pháo không hoa
Nhìn
tuyết đổ lại nhớ về quê cũ.
PTL
Họa 1:
XUÂN
THA HƯƠNG
Xuân tha hương chạnh lòng bao lữ
khách
Nhìn đất trời quạnh quẽ lạnh cuối đông
Nhớ quê xưa sao khỏi xốn xang lòng
Mấy độ xuân đến xuân đi từ thuở nhỏ
Bóng ông đồ lom khom gò cây cọ
Đặt bút lông gió nhẹ chuyển hàng lau
Người năm xưa biền biệt ở phương nao
Nơi đất khách hoa đào luôn tươi thắm
Nguyện cầu mọi người bình an đầm ấm
Hạnh phúc vui tươi hết thảy muôn nhà
Đón năm mới tưng bừng vạn pháo hoa
Quên hết ưu phiền từ nhiều năm cũ.
Hương Lệ Oanh VA
Jan. 19, 2022
Họa 2:
XUÂN THA HƯƠNG
Xuân đã đến chạnh
lòng người lữ khách
Nghe tim đau buốt
giá lạnh chiều đông
Đêm canh thâu thao
thức ở trong lòng
Bao kỷ niệm nhớ thời
còn tuổi nhỏ
Ba ngày tết mẹ
khuyên đừng cãi cọ
Trên bàn thờ lư đồng
đỏ vừa lau
Lòng hân hoan trong dạ thấy nôn nao
Đón năm mới nắng
xuân về tươi thắm
Nơi đất khách trong
nhà thiếu hơi ấm
Của mẹ cha yên nghỉ
chốn quê nhà
Đêm giao thừa chẳng
có pháo ngàn hoa
Chỉ thấy tuyết rơi
bên thềm nhà cũ.
Nguyễn
Cang (Jan. 18, 2022)
Họa 3:
HƯƠNG XƯA
Trời chuyển tiết, ngậm ngùi thân lữ khách,
Ngóng trời xa mờ mịt buổi tàn đông,
Hỏi mây kia có se sắt trong lòng
Sao lơ đãng che mờ gương nguyệt nhỏ?
Làn gió khẽ lung lay tàu lá cọ,
Ngỡ màn sương trắng đục có ai lau.
Hồn bâng khuâng mơ về tận phương nao
Xuân sắp đến cội mai đào có thắm?
Bao kỷ ức tuổi ngọc ngà đầm ấm,
Pháo rộn ràng, áo mới rạng quê nhà,
Khắp nẻo đường nắng ướp rực ngàn hoa
Hương sắc Tết đậm đà năm tháng cũ…
Minh
Tâm
Họa 4:
VỀ NHÀ ĐÓN
TẾT.
Đợi đón Tết buồn lòng người viễn khách,
Vẫn còn bay hoa tuyết lạnh tàn đông.
Chờ về quê rối rắm cả cõi lòng,
Kịp gói bánh quây vòng đàn con nhỏ.
Đi chợ nổi, ghe thuyền chen bãi cọ,
Hai ngạn sông hoa cỏ dại bờ lau.
Người mua bán cùng vội vã nôn nao,
Mai vàng, trái chín,cành đào nở thắm.
Cả gia đình buồn hiu trong mái ấm.
Mong người thân vất vả trở về nhà.
Đón giao thừa hái lộc đốt pháo hoa,
Mừng năm mới quê nhà quên chuyện cũ.
Mỹ Ngọc.
Jan. 20/2022.