Kính Chúc Mừng
Năm Mới
Dương Lịch
2021
Kính chúc
quý anh chị và bạn bè thân hữu gần xa
Một Năm Mới
Dương Lịch 2021 An Vui Và Mọi Điều Như Ý
304Đen - Kính Chúc
Kính Chúc Mừng
Năm Mới
Dương Lịch
2021
Kính chúc
quý anh chị và bạn bè thân hữu gần xa
Một Năm Mới
Dương Lịch 2021 An Vui Và Mọi Điều Như Ý
304Đen - Kính Chúc
Chiều Rơi Cuối Dốc Mơ
Chiều
rơi cuối dốc đồi mơ
Nửa
xôn xao nhớ nửa thơ thẩn chờ
Phố
xưa vẫn đó đôi bờ
Cũng
mùa hạ cũ ngu ngơ giận người
Ngữa
tay hứng vạt chiều rơi
Chắt
chiu nhặt nắng của thời biết thương
Ngẫn
ngơ cỏ úa sân trường
Bước
đi bước ở hồn vương vấn tình
Tạ
từ trời đất lặng thinh
Quằn
vai nổi nhớ gập ghềnh đời nhau
Đồi
mơ một dốc mơ sầu
Chiều
rơi theo tiếng vó câu cuối đường
Thuyên Huy
Giáng Sinh Ở Một Làng Nhỏ Miền Đồng Tháp
Năm 1958, áo cơm đưa đẩy tôi về
miền Tây. Đói, đầu gối phải bò. Và tôi đã bắt đầu gối tôi phải bò mãi về làng
Mỹ Lương, thánh địa Hòa Hảo, nơi ra đời của vĩ nhân Huỳnh Phú Sổ, dạy ở ngôi
trường trung học bán công mà học trò, hầu hết đều bằng tuổi tôi.
Mỹ Lương buồn lắm. Vào những ngày
mười tư, mười rằm và ba mươi, mồng một chợ búa chỉ bán rau cỏ, tương chao, tầu
vị yểu. Quán nước trần xì cà phê đen. Điểm tâm bằng dầu cháo quẩy. Không thịt
cá những ngày đó. Là kẻ tội lỗi từ thuở lọt lòng, dẫu ăn chay trường cũng khó
sạch tội, nên khi thánh địa ăn chay, đọc kinh, nghe lời giảng của Đức Thầy, tôi
bèn làm những chuyến… sang sông.
Chúa sanh ra nơi nghèo hèn. Giáng
sanh này, ngài cũng sẽ về những nơi nghèo hèn…
(ảnh minh họa)
Con sông nhỏ có thể đưa ghe, tầu sang
tận Cao Miên nhưng chỉ đưa tôi qua Tân Huề bằng chiếc đò máy. Cách một dòng
sông bên này là thánh địa Hòa Hảo, bên kia là… lung tung beng. Một xóm đạo nhỏ
với ngôi nhà thờ bé và vị linh mục kéo vĩ cầm. Lại chỉ khoái chơi nhạc kháng
chiến! Tôi có nhiều học trò bên Tân Huề. Và tôi thường mò sang ăn mặn vào dịp
Mỹ Lương ăn chaỵ
Tôi quen với linh mục khoái nói
chuyện bưng biền hơn là nói chuyện Chúa, ở Tân Huề. Nhà thờ thiếu cái đàn
“Harmonium”, thiếu ban hát lễ, thiếu nhô con áo đỏ giúp lễ ố những chuyên viên
quỳ ố thiếu luôn bánh thánh và… nước phép. Cha sở – tạm gọi thế – kéo vĩ cầm
buồn cười vỡ bụng. Ngài lười “vibrer”. Ngài cứ đưa cái “archet” lên xuống cả
những nốt ngân. Nhưng con chiên của ngài xứng đáng được Chúa thương xót nhất
nếu Chúa biết ngót mười lăm năm trời, họ đã sống trong nỗi hãi hùng, lép vế,
buồi tủi. Mà vẫn phụng thờ Chúa, vẫn tin ngày nhắm mắt được gặp Chúa ở trên
trời, vẫn làm sáng danh Chúa.
Giáng Sinh những năm trước, tôi không
biết ở đây, ở cái xóm đạo nhỏ bé của làng Tân Huề thuộc miền Đồng Tháp, cái đám
giáo dân tổ chức đón mừng Chúa Hài Đồng ra đời ra sao, nhưng năm nay, hang đá
tại nhà cô út lớn gấp ba hang đá của nhà thờ. Tôi thấy một điều lạ. Chúa ở thật
xa, Cha ở thật gần, đám con chiên hèn mọn của Chúa chỉ theo Chúa. Có lẽ, cha sở
mải lo chuyện bưng biền, quên phụng vụ Chúa, quên an ủi đám con chiên lạc lõng,
bị kìm kẹp giữa miền hắt hủi như những tội đồ.
Cô út là chị thằng Lễ, học trò lớp đệ
thất. Cô mở tiệm may bên Tân Châu. Mọi năm, cô không về Tân Huề mừng Chúa giáng
sinh đâu. Ở Tân Châu vui hơn. Nhà thờ lớn hơn. Tiếng chuông ánh ỏi hơn. Lời ca
vút cao hơn. Giáng sinh năm nay, cô út mừng Chúa ra đời ở quê nhà. Chắc tại
thằng Lễ nói có tôi dự tiệc nửa đêm ở nhà nó. Tôi không phải là công giáo. Gần
Giáng Sinh, tôi dạy tới bài Christmas trong cuốn Anglais Vivant của Fialip
Carpentier. Bài này và hai bài kế tiếp đều nói về Giáng Sinh, thời tiết trong
ngày Giáng Sinh với ông Santa Claus. Thằng Lễ tưởng tôi khoái “đạo” của nó lắm
nên năn nỉ mời tôi sang Tân Huề. Tôi nhận lời ngay.
Buổi chiều hôm 24, nhà thằng Lễ rộn
rã mà nếu Chúa biết. Ngài sẽ cảm động vô cùng. Cái cổng chào đã dựng xong ở ngõ
từ sáng. Trên nền lá dừa chẻ nhỏ, cắt ngắn là hàng chữ cắt ráp tỉ mỉ của Lễ
“Mừng Chúa Giáng Sinh”. Chiếc đèn ông sao treo ở giữa. Rất đông bà con thân
thuộc của gia đình Lễ tới tô điểm hang đá và trang hoàng nhà cửa. Cuối sân, cô
út đang sửa soạn bếp quay một cặp ngỗng. Mọi người hầu như quên nhà thờ, quên
cha sở, quên cả nỗi cay đắng trải dài nhiều năm tháng. Họ ăn mặc chỉnh tề. Niềm
hân hoan hiện rõ. Càng thắm đậm oan khiên, tủi cực họ càng tin rằng Chúa không
bỏ họ như cha sở. Chúa sẽ đến với họ. Chúa đã quên họ từ bao nhiêu năm naỵ Chúa
phải đến đêm naỵ Chỉ cần Chúa đến giây lát. Chỉ cần Chúa hiểu họ không bao giờ
quên Chúa và lời dạy của Chúa.
Đêm xuống dần. Gió sông lùa lên tăng
thêm cái lạnh dễ yêu. Tôi bảo Lễ chở xe gắn máy đưa tôi đến nhà thờ. Nhà thờ ở
gần bến đò. Vắng như bến đò. Có một giáo đường nào im bóng hơn giáo đường này,
vào đêm Chúa giáng sinh? Hai chúng tôi trở về. Những chiếc đèn ông sao thắp
sáng một vùng quê hương u tối. Mọi người quỳ trước hang đá cầu nguyện và suy
tôn Chúa cao cả. Mùi hoa Huệ thơm nhẹ. Hoa Huệ chỉ thơm khi gần khói hương hay
gần ánh đèn cầy. Mùi thịt ngỗng quay thơm lừng. Nhưng tôi còn ngửi được một mùi
thơm thần thánh toát ra từ những tâm hồn ngoan đạo của đám con chiên côi cút
đang kính cẩn nguyện cầu trước Chúa của họ. Tôi tự hỏi ngoài nhà thằng Lễ, còn
nơi nào đón mừng Chúa giáng sinh bằng nghi thức ở nhà thằng Lễ. Nghi thức!
Không, không nghi thức đâu. Đó là sự tôn kính tuyệt đối. Đó là ý muốn của Chúa.
Chúa cũng giản dị. Chúa ghét nghi thức. Chúa giáng sinh không phải vì nghi
thức, cho nghi thức. Mà vì nỗi cùng khổ của loài người, cho loài người biết
thương yêu nhau.
Gần nửa đêm, tiếng cầu nguyện lớn
thêm, lan tỏa. Và khi tiếng chuông buồn tẻ từ giáo đường vọng tới, mọi người
mừng vui cuống quýt. Chúa đã ra đời. Chúa đã ra đời cách đây 1958 năm, ra đời ở
một nơi thấp hèn hơn nhà thằng Lễ. Người ta bỗng thấy thiếu một cái gì. Ba
thằng Lễ giục tôi:
– Thầy Long, thầy có biết hát thánh
ca không?
Phải thú thật là tôi xúc động ghê
gớm. Tôi gật đầu. Và tôi run giọng hát
– Silent night, Holly night, all is
calm, all is bright…
Tôi hát tới đó, dừng lại ngay và nói:
– Qúy vị cần hát một bài mừng Chúa
giáng sinh với tôi.
Và tôi dạy họ hát bài “Đêm đông lạnh
lẽo Chúa sinh ra đời… ”
Như thể được hưởng ân điển của Chúa,
họ thuộc rất nhanh. Lát sau, tiếng hát vút lên:
Chúa sinh ra đời
Nằm trong hang đá nơi máng lừa
Trong hang Bê Lem
ánh sáng tỏa lan tưng bừng
Nghe trên không trung
Tiếng hát thiên thần vang lừng
…….
Ôi Chúa thiên tòa giáng sinh thấp
hèn.
Tiếng hát lắng lại. Mọi người ngước
nhìn bầu trời. Cả tôi nữa. Tôi thấy một vì sao lung linh. Và tôi còn mơ hồ thấy
một vì sao rơi từ từ xuống thẳng nhà thằng Lễ. Chúa đấy. Ngài đã đoái hoài đám
con chiên có cái hiện tại hẩm hiu như dĩ vãng của Ngài, ở Tân Huề năm ấy.
Mười ba năm đằng đằng, tôi không có
dịp trở về thăm làng Tân Huề. Chiến tranh đã qua đấy chưa? Giáo đường đã sụp đổ
chưa? Cha sở đã bỏ con chiên chưa? Đám con chiên ngoan đạo bây giờ ra sao? Dù
chiến tranh đã qua Tân Huề, dù cha sở bận hạc nội mây ngàn, tôi vẫn tin Giáng
Sinh năm nay nhà thằng Lễ còn hang đá, còn đèn ông sao, còn lời nguyện cầu, còn
hát thánh ca. Có thể thằng Lễ đã chết trận. Không sao cả, miễn là, từ cái sân
đất khô cằn của nhà nó, người ta còn dựng nổi cái hang đá. Cho niềm tin.
Duyên Anh
CHỜ MONG
1 .
Khóc nữa đi em thỏa tấm lòng
Hướng về phương ấy mỏi mòn trông
Xa nhau từ độ tàn chinh chiến
Lặng lẽ quay về cảnh trống không!
2 .
Lâu quá tin anh cứ biệt xa
Tàn thu man mác ánh trăng tà
Trong tim khắc đậm hình ai đó
Chan chứa lệ nhòa nước mắt sa!
Nguyễn Cang (8/6/2020)
HỌA 1
1 – NGÓNG TRÔNG
Ai xui nước mắt ngược vào lòng
Để giấu tình đau - chôn ngóng trông
Lữ thứ bao năm xa cách biệt
Thân côi đêm vắng – tủi buồn không?
2 – TIỄN ĐƯA
Con tàu bay tít tận trời xa
Quay bước trở về dưới nắng tà
Mắt lệ rưng rưng - tim thổn thức
Mây đen kéo đến – giọt mưa sa!
HỌA 2
1-ĐẠO ĐỜI
Trời lành lạnh khiến sắt se lòng
Dù ngoại Đạo vẫn luôn ngóng trông
Thiên Chúa Giáng Sinh ban lôc phúc
Đạo Đời ngăn cách chỉ còn không!
2-ĐÔNG ĐẾN
Ngày về quê cũ đâu còn xa
Đông đến nhịp chân dưới nắng tà
Hai dứa cùng nhau ôn kỷ niệm
Ngày xưa- thổn thức giọt châu sa!
Saigon
Tháng
12/2020
vkp công chúa nhỏ
Đà Lạt trong ký ức
Không cần đến câu “khi yêu trái
ấu cũng tròn”, cũng thấy giọng nói của người dân xứ lạnh sao dễ thương ấm áp vô
cùng, đặc biệt là cách phát âm của những người gốc Huế đã sinh sống lâu năm tại
Dalat. Nhẹ hơn giọng của những người “Huế rặt”, âm hưởng ngả về giọng Nam nhiều
hơn nên … dễ nghe, nên lẽ dĩ nhiên dễ hiểu hơn, dễ “thân nhau” hơn.
Bích Vân
Tôi của hơn 40 năm về trước vẫn
thường đi lên đi xuống cái thành phố mù sương ấy ít nhất mỗi tháng một lần.
Thuở ấy tôi mê Đà Lạt với những căn nhà đầy hoa rực rỡ, những ngọn đồi thoai
thoải mầu xanh và mê… cả người Đà Lạt.
Chúng tôi vẫn thường lui tới quán
cà-phê H.S. ở giữa con dốc đường Minh Mạng. Làm sao quên được những buổi chiều
ngồi với nhau nhâm nhi ly trà cúc, rù rì to nhỏ đủ mọi thứ chuyện trên đời? và
hình ảnh ông chủ Q.H. với cái khăn foulard đỏm đáng quanh cổ, tay thọc túi
quần, nách kẹp tờ báo, đứng trước cửa tiệm bập bập ống pipe? Làm sao quên được
những buổi tối đi dạo loanh quanh khu Hòa Bình rồi sà vào mấy hàng xe đẩy ăn tô
miến gà cho ấm bụng hoặc nhấm nháp những ly chè đầy ắp tình bạn ngọt ngào?
Đà Lạt của thời sinh viên bay nhảy
quả thật vẫn làm mềm lòng mỗi khi nhớ lại.
Giờ đây, tôi đi lang thang qua những
con đường cũ mà cảm thấy xa lạ. Suýt nữa đi lạc vì còn mải nghếch mắt nhìn
những thay đổi. Không chỉ tên đường đã đổi, mà những căn nhà bé bé xinh xinh
cũng chẳng còn, thay vào đó là những tòa nhà nhiều tầng chiếm gần hết hai bên
đường. Buồn.
Cà-phê H.S. cũng không còn, thay vào
đó là một văn phòng du lịch. Tôi đi lên đi xuống con dốc đường Minh Mạng hàng
chục lần, ngơ ngác, ngẩn ngơ.
Cà-phê Tùng ư? vẫn còn đấy, và khung
cảnh vẫn thế. Nhưng có lẽ không khí không còn mời gọi tôi nữa. Ngồi đấy lâu làm
gì, thêm buồn.
Có hôm đi ngang qua khu nhà ngày xưa
của B., tôi thấy rõ ràng tim đập mạnh, vì chợt nhớ đến những buổi tối B. đưa
tôi đến phòng trà (quên mất tên) nơi có ban nhạc chơi khá hay và B. giữ tay
trống. Phòng trà bỏ túi này không thể so sánh với quán Hầm Gió trên đường Võ
Tánh ở Saigon cuối những năm 60 thỉnh thoảng có nhiều ca sĩ thứ thiệt đến trình
diễn. Nhưng không khí tại đây ấm cúng hơn, thân mật hơn và các giọng ca tuy
không điêu luyện nhưng hát hò hết mình, sôi nổi, hâm nóng cả gian phòng bé nhỏ
và khán thính giả.
Ngày ấy chưa có phòng trà mời khách
lên sân khấu hát như bây giờ, nên các ca sĩ vườn “chạy sô” và ban nhạc phải
gồng suốt chương trình từ A đến Z. Những bản nhạc được yêu cầu phần lớn là nhạc
Mỹ và Tây, ví dụ như Aline, Capri c’est fini, Unchained melody, Smoke Gets In
Your Eyes, .v.v… là những bản nhạc ca tụng tình yêu mà giới trẻ khắp nơi trên
thế giới say mê, không riêng gì giới trẻ của Saigon. Là những bản được lặp đi
lặp lại nhiều nhất trong chương trình nhạc ngoại quốc yêu cầu của đài Phát
Thanh Quân Đội trước 75, với xướng ngôn viên là cô Mỹ Linh (còn có tên là Hồng
Phương Lan).
Sở trường của B. là drummer nên công
tâm mà nói, giọng ca chỉ xoàng xoàng thôi nhưng dư sức làm chân tay tôi rũ riệt
khi nghe B. hát bài And I Love Her của Beatles, phụ họa là ánh mắt nhìn chăm
chăm về phía tôi… đang ngồi chết lịm!
Với thời gian, mọi sự đều thay đổi,
cả lãnh vực văn nghệ của Đà Lạt cũng đã thay đổi. Ca nhạc tại phòng trà Dương
Tùng mà tôi được thưởng thức mới đây cũng thế. Phòng trà trở thành “Hát cho
nhau nghe”. Ông chủ quán làm MC, chốc chốc lại kiêm luôn vai ca sĩ và nhạc sĩ.
Khách cũng được mời lên hát. Khách hầu hết là những người đứng tuổi. Những bản
nhạc từ thuở nào chợt nghe lại, thấy xốn xang trong lòng. Hát đâu cần hay,
nhưng hát cả nỗi lòng, người ta cảm thấy gần nhau. Gần nhau về ký ức..
Người bạn ở Đà Lạt kể: “Chủ quán là
dân Bắc kỳ 54 gặp thiếu nữ Bắc kỳ 75 ở chợ Bến Thành. Họ kéo nhau lên Đà Lạt
mướn nhà rông, mở quán làm văn nghệ hát hò. Chủ quán chết cái tên “Phương nhà
rông” là vậy. Duyên nợ văn nghệ với Đà Lạt hơn 20 năm, quán dời hết chỗ này đến
chỗ nọ như dân du mục, nhưng “nhà rông” vẫn còn bám vào tên ông chủ, “Phương
nhà rông”. Bây giờ quán đậu lại cuối đường Nguyễn Công Trứ.
Đà lạt bây giờ nóng và nắng. Cuối
tháng Năm lẽ ra có những cơn mưa lớn và dai dẳng, người bạn bảo vậy. Nhưng có
lẽ để chiều lòng tôi, trong gần một tuần lễ tôi trở lại xứ ngàn hoa, ông giời
chỉ thỉnh thoảng lắc rắc mưa bụi.
Con đường quanh bờ hồ vẫn đẹp nhưng
sao cứ thấy có cái gì đó thất vọng trong tôi; có phải vì những công trình kiến
trúc đồ sộ thi nhau khoe bóng ven hồ, đuổi dần sự thơ mộng mộc mạc của thiên
nhiên?
Giọng người Dalat gốc cũng trở nên
hiếm hoi. Lại cũng buồn.
Khí hậu mát lạnh cũng không còn; tuy
không đến nỗi đổ mồ hôi mồ kê nhễ nhại như ở Saigon nhưng vẫn có thể ăn mặc
phong phanh, kể cả khi mặt trời đã lặn. Sự quen thuộc còn chăng là trong một
vài buổi chiều tắt nắng được nhìn thấy sương mù giăng mắc trên những nóc nhà,
ngọn cây.
Lạ một điều, đứng trên balcon của nhà
người bạn và phóng tầm mắt nhìn xa xa, thấp thoáng sau rặng thông của
ngọn đồi là trường Couvent des Oiseaux năm nào, bỗng dưng như tìm lại được vẻ
đẹp quyến rũ rất Đà Lạt, một chút Đà Lạt thuở xưa.
Cho dù thay đổi hay vẫn thế, gì thì
gì, tôi vẫn yêu Đà Lạt.
Tôi mượn một đoạn văn trên blog
của người bạn nói về cà phê Dương Tùng để kết thúc bài viết: Quán nhỏ,
nên ấm, bài trí cổ điển. Ai lên Đà Lạt, thấy mình chưa già thì nên tới đó, mà
thấy mình đã già cũng nên tới đó luôn. Tới để thành ca sĩ (ruộng), chẳng lẽ
“một đời dấu kín, đến khi xuôi tay còn thấy ngậm ngùi” hay sao?
Bích Vân
304Đen – Llttm - sgtc
Chú Tư Cầu Lê Xuyên Và Những Ngày Cuối Đời
Gần 10 giờ đêm 2-3-2004, chị Lê Xuyên
điện thoại cho tôi thông báo tin anh vừa mất lúc 9 giờ 20, tức là cách đó nửa
giờ. Lời chị kèm theo rất chân tình:
– Tôi gọi cho anh trước khi gọi cho
nhà đòn.
Tôi hiểu ý chị và phải nói hiểu từ
lâu mới đúng. Gia đình anh chị trong hoàn cảnh sinh sống rất khó khăn chật vật,
vì thế nên tôi đã dặn trước: Nếu có chuyện gì cần chị cứ gọi cho tôi. Tôi không
tin vào tôi mà tin vào tình yêu thương của bạn bè từ khắp nơi luôn sẵn sàng
giúp đỡ Lê Xuyên nên hứa ngay: Chị cứ lo mọi chuyện cho tang lễ của anh, còn
chuyện khác để anh em chúng tôi lo. Chị vui vẻ:
– Nếu thế tôi an tâm rồi.
Buông điện thoại, tôi hoàn toàn không
ngạc nhiên trước cái tin buồn này. Từ hai năm nay, Lê Xuyên nằm một chỗ, có thể
nói thẳng nằm đó chờ ngày “về với ông bà”. Một năm trước đây thôi, anh phải vào
bệnh viện, chị cũng gọi cho tôi rồi đến nhà mang theo cả giấy “nhập viện” và số
tiền phải trả.. Tôi cũng lại làm cái nhiệm vụ thông báo cho một số anh em ở nước
ngoài để kiếm tiền trả bệnh viện. Không phải chỉ có riêng chúng tôi mà còn
những người quen khác của anh, những người bạn đồng hương, những người học cùng
trường cùng lớp, có cả những người không hề quen biết cũng xúm nhau vào chung
lo. Hầu như ai cũng hiểu rằng ngày “ra đi” của anh không xa. Nhưng may mắn, anh
vẫn còn qua được vài mùa Xuân.
Những lần sau này tôi đến thăm anh,
anh nằm đó nhưng tỉnh táo, không nói chuyện được song hỏi nhiều điều, anh vẫn
nhớ, vẫn hiểu. Khi anh gật đầu, thỉnh thoảng có được một nụ cười, đôi mắt ánh
lên một niềm vui.
Nhất là khi tôi cố gợi lại một vài
câu chuyện vớ vẩn từ hồi xa xưa chúng tôi gặp nhau ở ngoài đường hoặc ở toà
soạn một vài tờ báo.
TÍNH CÁCH LÊ XUYÊN
Để cho anh được sống lại với những kỷ
niệm cũ, tôi kể lại một buổi sáng sớm vào khoảng năm 1971-72, sau một đêm đánh
chắn với vợ chồng ông chủ báo Kịch Ảnh đường Cống Quỳnh, tôi lái xe về nhà. Qua
đường Lê Lai, tôi thấy Lê Xuyên cúi đầu đi trên hè phố.. Tôi đậu xe sát lại, Lê
Xuyên vẫn chưa thèm nhận ra là xe của ai. Tôi bóp còi, lúc đó anh mới ngước lên
nhìn và toét miệng cười. Ít khi ông Lê Xuyên cười lắm. Tôi đẩy cửa xe, thò đầu
ra hỏi:
– Ăn gì chưa?
– Chưa gì hết trọi, có tiền đâu mà
ăn.
– Lên đây, tôi đưa ông đi ăn sáng.
Leo lên xe, anh hỏi thẳng:
– Đêm qua được hay thua?
– Được.
– Nhà không còn một xu, tui để tiền
trong túi cũng hết luôn.
Tôi cười và hiểu cái sự “hết tiền
trong túi” của anh dù mới lãnh lương. Móc trong cốp xe, tôi chia cho anh một
nửa số tiền được bạc đêm hôm qua và dặn dò rất kỹ:
– Mang về toà soạn cất vào ngăn kéo
để tiêu dần đấy.
– Ừ, tốt. Ông ăn sáng chưa, cho tôi
đi với. Lâu rồi không được ăn đồ Tây.
Tôi cười:
– Ra Givral hay Brodard, ông thích
chỗ nào.
– Đâu cũng được.
Chúng tôi ra Givral, sáng sớm tinh mơ
chỉ có hai bàn khách. Tôi gọi mì jambon là món “đặc sản” ở đây còn Lê Xuyên gọi
omelette jambon ngồi nhai bỏm bẻm lấy làm thú vị lắm. Ăn xong tôi bảo ông có
tiền rồi, lấy xe taxi về toà soạn, tôi phải về nhà thay quần áo rồi còn phải
vào sở chào cờ vì hôm nay là thứ Hai. Lê Xuyên cười hì hì:
– Cả đời tao chưa biết chào cờ là cái
gì. Tao chỉ chào ông chủ báo khi lần đầu tiên đến làm. Ngô Quân cũng thế và Hồ
Anh cũng thế..
Thỉnh thoảng tôi đưa bài đến báo Thời
Thế, đôi khi vào buổi trưa, tôi lại rủ Lê Xuyên đi ăn trưa, hôm có tiền thì
chui vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu Bát Đạt. Có lần tôi rủ:
– Chúng tớ có cái phòng thuê ở trên
lầu ba để thỉnh thoảng chơi phé, lấy tiền xâu gửi lại tay quản lý nên bất cứ
lúc nào cần phòng là có ngay. Ông có muốn nằm lại đây một buổi không?
Bản tính anh hiền lành nên hỏi lại:
– Nằm làm gì, tôi phải về làm việc
chứ.
– Ông ngây thơ thật hay ngây thơ cụ,
ông cứ lên với tôi là biết ngay “nằm làm gì”. Ông muốn Tàu cũng có mà ta cũng
có.
Dĩ nhiên đến nước này thì ông bạn tôi
phải hiểu, nhưng ông lắc đầu quầy quậy như thằng con nít bị mẹ bắt lấy vợ sớm.
Tôi đưa ông trở lại toà soạn và xác nhận với anh em rằng “Lê Xuyên nó đứng đắn
thật các ông ạ”. Một ông bạn tôi cãi: “Nó nhát chứ đứng đắn cái gì”. Thôi thì
nhát cũng được,đứng đắn cũng được nhưng nó không giống tụi mình. Và một điều ai
cũng nhận thấy là chưa bao giờ thấy mặt Lê Xuyên ở bất cứ cái phòng trà tiệm
nhảy nào, ngay cả chỗ đông người anh cũng tránh. Tôi cứ lẩm cẩm ngồi nhắc lại
từng chuyện khiến anh thú lắm, đó là lúc anh được sống thêm.
MỘT BÍ MẬT
BÂY GIỜ MỚI TIẾT LỘ
Cũng vào khoảng thời gian đó, tờ báo
Thời Thế có một loạt bài điều tra phóng sự về một vụ tham nhũng của một ông
“tướng vùng”. Ông tướng nhờ một đại tá và một trung tá liên lạc với tôi để nhờ
tôi can thiệp. Tôi chẳng biết trắng đen ra sao, nhưng đã có lời nhờ và giải
thích thì tôi làm. Tôi gọi cho Lê Xuyên giải thích những gì tôi được nghe và đề
nghị “thông cảm” với phóng viên cho ngưng loạt bài đó kẻo làm mất uy tín của
một người chỉ huy vùng chiến thuật. Lê Xuyên nói ngay:
– Ông nói thì tôi nghe, nhưng để tôi
thu xếp với anh em cho có đầu có đuôi.
Sau đó tôi điện thoại cho ông chủ báo
Hồ Anh, lúc đó tôi mới biết rằng đã có một hai ông nghị sĩ dân biểu can thiệp,
nhưng Lê Xuyên vẫn cứ tiếp tục cho đăng loạt bài này. Ông Hồ Anh bảo tôi cứ nói
chuyện với Lê Xuyên, nếu anh ấy chịu thì không có gì trở ngại. Chỉ có thế thôi.
Rất bất ngờ, hôm sau tôi đọc được hàng chữ trên trang nhất: “Vì có người bạn
chúng tôi can thiệp nên chúng tôi thấy cần phải chấm dứt loạt phóng sự này”.
Quả thật đó là điều khiến tôi hết sức
cảm động và ngay lúc đó tôi trở nên áy náy vì biết đâu đó là một sự thật mà
công sức của anh phóng viên trẻ đã bỏ ra bị tôi “kỳ đà cản mũi”. Tôi gọi lại
cho Lê Xuyên, anh chỉ cười:
– Thông cảm với phóng viên rồi nó bảo
ngưng cũng được, viết thế đủ rồi.
Tôi rủ anh đi ăn trưa, anh nói:
– Tôi vừa ngưng phóng sự mà đi ăn với
ông thì khác gì đi ăn hối lộ. Thôi hôm nào ông được bạc mình lại đi ăn đồ Tây.
Hôm nay tôi bận quá ông ạ.
Lê Xuyên cúp máy và tôi thì cứ ân
hận, chẳng hiểu vì sao. Chuyện này còn có nhiều nhân chứng còn sống ở đâu đó,
may ra họ còn nhớ. Tôi thì chẳng bao giờ quên.
BỎ ĐI TÁM!
Hơn mười năm sau, khi tôi ở trại cải
tạo ra, Thanh Thương Hoàng dẫn tôi đến thăm Lê Xuyên. Anh ngồi bán thuốc lá lẻ
ở một góc phố. Chiếc quầy thuốc bé tẹo nhưng cũng đủ che hết tấm thân gầy gò
của anh. Chúng tôi nhìn nhau và cùng cảm thông rất sâu sắc cái thân phận mình
lúc này. Anh chớp mau mắt nói như để an ủi hơn mười hai năm tù của tôi:
– Trông ông vẫn cứ phong độ như ngày
nào.
Tôi thẳng thừng thương bạn:
– Còn ông, trông chán bỏ mẹ… Chỉ muốn
khóc!
Hai bàn tay bạn tôi run lên, lật bật
đút chiếc chìa khoá vào ngăn tủ kính để mấy gói Ba Số Năm bán lẻ (hồi đó Ba Số
Năm quý lắm):
– Hút thuốc lá không?
– Không, tớ hút thuốc lào quen rồi,
về đây hút thứ nặng hơn mới đủ đô.
Thanh Thương Hoàng rủ sang bên con
hẻm phía trước ăn sáng. Đó là con hẻm lối đi vào một ngôi chùa hay ngôi đình gì
đó. Không có hủ tíu, Lê Xuyên phải chạy đi gọi ở một nơi nào quen bán chịu cho
anh ở gần đó.
Lê Xuyên trở lại với con người thật
của anh. Vẫn hiền lành, cười tủm và chân quê. Phải nhìn thấy cái cười tủm của
anh mới biết tại sao anh viết về những cuộc tình của những đôi trai gái đồng
ruộng miền Nam hay đến như thế, láu cá đến như thế. Tôi nhủ thầm: “Thằng cha
này tâm ngẩm tầm ngầm mà ghê lắm đấy. Nó không nói mà chỉ viết nên nó viết được
nhiều hơn mình. Chỉ có nó mới viết được những “dòng chảy ngầm” của trai gái
thôn quê miền Nam thật đến thế và hấp dẫn đến thế”. Lê Xuyên khác với một số những cây bút hoàn toàn Nam Bộ như ông Bình
Nguyên Lộc và Sơn Nam ở chính cái “thật” của anh, không màu mè, không lý luận,
không làm một cái gì như nghiên cứu sưu tầm về phong tục tập quán dưới hình
thức này hoặc dáng vẻ khác. Từng động tác, từng thái độ, từng lối ứng xử trong
nhân vật của anh cứ như con người thật lồ lộ đang ở trước mặt chúng ta vậy.
Trước mặt tôi, ông già Lê Xuyên vẫn
còn cái hóm hỉnh riêng, nhưng bây giờ thì như anh nói: “Đếch viết nữa”. Tôi hỏi
không viết được hay không thích? Câu trả lời của anh gọn lỏn: “Bỏ đi tám”. Tôi
không thể hiểu nỗi ba chữ “bỏ đi Tám” mà anh dùng.
Có một nỗi chua chát nào đó trong cái
tâm sự thật của anh? Đến cái chứng minh nhân dân anh cũng không muốn làm nên
không có hộ khẩu, cứ như ở lậu, công dân lậu. Thái độ đó có đồng nghĩa với sự
“bỏ đi Tám” của anh không? Chỉ có anh mới hiểu và bây giờ anh mang theo.
Cách đây vài năm, tôi có viết về Lê
Xuyên và may mắn nhận được sự giúp đỡ thiết thực của khá nhiều bạn bè. Trong đó
có một vài tờ báo muốn đăng lại những truyện dài của anh, tôi hỏi, anh chỉ lắc
đầu: “Chẳng còn cuốn nào” và cả chị ấy cũng không kiếm được cuốn nào cả.
Ba năm sau cùng, anh không còn sức để
bán thuốc lá lẻ nữa. Thỉnh thoảng tôi và Nguyễn Thụy Long kéo đến thăm, cố dìu
anh ra quán cà phê cuối ngõ ngồi lai rai tâm sự vặt. Tôi vẫn cho rằng chỉ có
lúc đó Lê Xuyên mới được sống thật. Hai năm sau này dù có cố lôi anh đi cũng
không nổi nữa rồi. Anh như cái bóng trong góc tối của gian phòng chật chội vây
quanh bởi hàng trăm thứ lỉnh kỉnh nào bàn ghế, chai lọ, giường tủ. Chỉ có cô
gái út săn sóc cho anh, vợ và các con lớn của anh vất vả với công việc hàng
ngày rất ít thì giờ trông nom cho bố. Cái chết đến từ từ theo từng ngày giờ
buồn tênh, dường như anh chán cả cái sống cái chết, không thèm chú ý đến nó
nữa.
Khi tôi đến với anh lần cuối là lúc
các con anh đang tắm rửa, thay quần áo cho anh trước khi nhập quan. Cái thân
hình gầy gò trần trụi của anh phơi ra, tất cả chỉ còn có thế. Tôi chuyển ngay
cho chị số tiền mà tôi mới gửi e-mail tối hôm qua thông báo về sự ra đi của
anh, nhanh chóng được đápứng. Các bạn ở Virginia, San Jose, Santa Ana yêu cầu
tôi chuyển ngay khoảng 1.000 Mỹ Kim đến lo tang lễ cho anh. Một người bạn đưa
ngay đến 2 triệu và mang đến vòng hoa đầu tiên của bạn bè Sài Gòn. Hôm sau chị
khoe với bà con đến phúng:
– Có bạn bè làm chỗ dựa nên tôi mạnh
tay làm đủ thứ việc cho anh ấy. Mạnh vì gạo bạo vì tiền, có phải không các bác?
Không có bạn bè, tôi chẳng còn biết xoay sở ra sao.
Tôi nói với chị:
– Chắc sẽ còn nữa, có một số anh em
chưa gửi kịp, xin chị an tâm đi tiếp con đường ai cũng phải đi.
Buổi chiều ngày 5-3, đúng hai giờ lễ
động quan bắt đầu, giữa trời nắng chang chang, chúng tôi đưa anh đến Bình Hưng
Hoà. Có rất nhiều người bên hè phố lặng lẽ tiễn đưa anh, không ồn ào như những
đám tang của những nhà nghệ sĩ mà ở đây người ta cho rằng đó là những “nhà nghệ
sĩ lớn”, nhưng những con người thầm lặng ấy dõi theo anh với tất cả tấm lòng
mình.
Họ không nói gì, không có kèn saxo
như trong đám tang Trịnh Công Sơn, không có giọt nước mắt dài ngắn thở than của
những danh ca nghệ sĩ, không có cả những bài “điếu văn tưởng niệm” lâm ly bi
đát, nhưng đầy ắp những tình yêu thương từ xa xưa đọng lại, từ bốn phương lãng
đãng bay về phủ kín khung trời Sài Gòn. Thế là đủ, nó vượt lên trên tất cả.
Văn Quang
304Đen – llttm - tvvn