Cũng Đành
Tôi trốn đơn vị chạy về nằm ở Cố Thổ vào cuối mùa
thu cùng với những cơn sốt rét cách nhật. Bà cô tôi thương sót mỗi ngày vào
rừng nhặt những lá, rễ cây về nấu cho tôi uống nhưng vô hiệu nên nghĩ đến
chuyện trở về Hà Nội. Ngày tôi rời Cố Thổ về Sơn Tây cô tôi gói cho một gói cơm
trộn tám phần sắn khô như củi, nhạt nhẽo. Cô tôi dặn về tìm một người quen ở đó
giúp đỡ. Về tới nơi họ cũng không giúp đỡ được gì ngoài những bữa cơm sắn ăn
với rau tàu bay luộc chấm muối. Những cơn sốt lại hành hạ. Người ta không thể
xin được giấy cho tôi. Nghe lời mách của người hàng xóm muốn cho khỏi rét nên
nuốt những con run đất. Họ bảo có thể trị sốt rét được. Không còn cách gì hơn,
tôi kiếm một con dao cùn và chiếc gáo dừa vỡ đi đào run, những con run dài xanh
đỏ ưa nằm chỗ ẩm, tôi cứ việc lật những viên gạch vỡ ở bên vại nước, và đào ở
các bờ rãnh hàng bát run mang rửa và nuốt. Những con run còn sống nguyên, bò
ngoi đầu lúc nhúc tôi cầm từng vốc bỏ vào miệng cho nó trườn vào cổ họng. Những
ngày đầu ghê tởm, nôn mửa qua đi. Những ngày tiếp theo tôi nuốt thản nhiên.
Những con run sống ấy vào trong bụng tôi đã nhiều nhưng những côn sốt cách nhật
vẫn hành hạ và dữ dội thêm là khác, sức tôi yếu dần thêm nữa.
Tôi chỉ còn tìm cách nào vào thành may ra kiếm được
ký ninh uống.
Không ai dám bảo đảm xin giấy thông hành cho tôi.
Tôi vẫn liều ngày ngày ra bến xe trèo lên để vào, nhưng dù ngồi yên chỗ rồi khi
hỏi đến giấy không có, chuyến xe lại bỏ tôi lại. Rất nhiều lần như thế, đến khi
có xe cho đi thì tôi lại không có một đồng. Hà Nội – Sơn Tây 43 cây số, với
những cơn sốt tôi không còn đủ sức để lê về. Mãi sau vì nài nỉ quá có chiếc xe
chở củ nâu, với người phu xe thương hại cho tôi đi bằng cách ấn tôi vào giữa
những bao củ nâu. Hắn bảo tôi trước là nếu vô phúc bị khám mà lộ ra thì chịu
khó mà ở tù đừng oán thán gì. Tôi hơi mỉm cười bảo:
- Thì sao mà cưỡng được...
Khi xếp những bao tải củ nâu lên xe hắn chừa lại
một chỗ trống ở giữa cho tôi ngồi vào đấy rồi hắn lấy thêm những bao khác lấp
lên trên. Tôi ngồi co rúm không thể cựa quậy, nhúc nhích. Mùi củ nâu, mùi bao
tải hôi sì, mùi xăng nhớt như muốn chết ngạt. Giữa trưa xe từ giã tỉnh Sơn vào
con đường trở về. Xe chạy nhanh sóc trên những quãng đường gồ ghề, những bao củ
nâu bị lắc mạnh cứ dẹp mãi xuống, chung quanh tôi kín bưng chả thấy gì, tôi
nghĩ như mình bị bỏ vào quan tài đã đậy ván thiên lại chỉ có điều là tôi còn
thở. Cơn sốt lại đến với tôi giữa những quãng đường ấy, chân tay run rẩy, hai
hàm răng đánh vào nhau và tôi lả người đi vì mệt mỏi.
Khi tỉnh dậy thì xe đang dừng. Tôi lắng tai nghe
tiếng giày đinh lộp cộp, những bao củ nâu bị lay động và có tiếng chọc của một
chiếc gậy sắt. Tôi biết là xe đang bị khám, nên hai lần bị gậy sắt thọc vào
lưng tôi không dám nhúc nhích và thở mạnh, tôi nghiếng răng, nhắm mắt lại...
Những chặng gác thoát dần sự khám xét khiến cho xe về đến bến thì trời đã tối
mịt. Bến xe Kim Mã hoang vắng người phụ xe dở bao tải cho tôi chui ra, tôi nghe
tiếng chuông xe điện đổ dồn, tôi bước xuống mặt đường chân tay run lẩy bẩy vì
đói vì lạnh. Tiếng đầu tiên tôi được nghe là của người phụ xe:
- Tới rồi đấy, có thể đi về nhà được không? Không
có giấy thì coi chừng tụi Ba-tui nó nhặt bỏ nhà Tiền đấy.
Tôi cứng cả lưỡi không nói được. Tôi không biết về
đâu cho qua đêm để sáng mai có thể đi tìm kiếm, dù tôi chưa biết là sẽ tìm kiếm
cái gì. Về nhà. Người phụ xe nhìn tôi ái ngại. Hắn có khuôn mặt đen khắc khổ,
đôi gò má cao làm cho hai mắt đen sâu bóng tối. Tôi nói với hắn tình cảnh của
tôi, tôi muốn hắn cho tôi nằm ở trên xe cho đến sáng hôm sau. Nhưng hắn từ
chối. Hắn nói với tôi một ít điều phân trần không sao có thể giúp tôi được. Tôi
cám ơn hắn. Hắn xếp lại mấy bao củ nâu, đóng thùng xe rồi hắn quay lại nhìn
tôi. Nghĩ thế nào hắn móc túi dúi cho tôi mấy đồng bạc. Không nói thêm nửa lời
hắn trèo lên phía trước xe. Chuyến xe chạy vào con đường có đèn thắp sáng.
Tôi không thể đứng lâu hơn được nên ngã quỵ xuống.
Quá mệt tôi phải cố sức bò dần vào một túp lều bỏ không rồi lăn mình xuống đấy.
Tôi nằm im một lúc cho hồi tỉnh rồi cố dậy sờ soạng trong bóng tối xem có cái
gì có thể ôm vào người được cho đỡ cô đơn, nhưng sờ soạng mãi tôi mới nhận ra
có một cái bàn nhỏ và có một cái ghế dài nhỏ. Ðó là đồ dùng của một quán nước,
hoặc quà bánh gì đó. Tôi không có gì để ôm vào người. Tôi sờ mặt đất nhớp nháp,
vơ những rác rưới ẩm nước hôi hám, những bã mía, lá bánh, giấy vụn. Tôi cố vơ
thành một đống rồi rúc mình vào cho đỡ lạnh và êm hơn mặt đất. Muỗi kêu vo ve,
những con chuột kêu thành tiếng chui vào đống rác kiếm ăn. Chúng cắn chân mà
tôi không muốn cựa, chúng cắn chán lại rúc, lại kêu. Tôi vớ những nắm lá chuối
ướt nhép bỏ vào mồm nhai cho đỡ buồn miệng. Tôi nghĩ chắc thịt tôi đã hết máu
nên lũ chuột chả thèm ăn, và chắc chúng nó nhiều máu hơn tôi là khác, nghĩ thế
tôi há lớn miệng tự nhủ: để chú nào vô phúc rúc vào mình sẽ ngậm miệng lại mà
nhai một miếng cho khoái bao tử. Bởi vì nếu có con nào đến gần tôi cũng khó
chộp được, chúng khoẻ và nhanh lạ. Lũ chuột rúc mãi chắc cũng chả kiếm được gì
nên bỏ đi dần cho tôi nằm một mình nghe tiếng muỗi kêu vo ve.
Mãi tôi cảm thấy như có một con vật nào đó rất kỳ
dị, to lớn tiến đến ôm choàng lấy tôi, tôi bị nghẹt thở không kêu được, thân
thể cứng đờ rồi thiếp dần đi...
Tôi thức dậy khi trời đã sáng rõ, bụng đói cồn cào,
chân tay rời rã, nhưng đầu óc tỉnh táo kỳ lạ. Tôi nằm im cho mãi đến khi có một
người đàn bà bước vào lều. Khi bà ta đưa mắt nhìn đến đống rác thì kêu thét
lên. Tôi ngọ ngoạy rồi chui đầu ra. Chắc hẳn người đàn bà tưởng tôi là một con
vật, như con chó ốm ghẻ lở nào đấy. Khi thấy cả thân hình tôi ngồi dậy được thì
trên khuôn mặt bà ta hiện ra nhiều nét ngạc nhiên đầy kinh dị:
- Trời ơi tao tưởng mày là xác chết rồi chứ... thế
mà đêm lính nó không nhặt đi...
Tôi trở ra ngoài vươn vai, thở mạnh, phủi những rác
rưởi bám trên quần áo, mắt tôi kèm nhèm. Tôi nhổ một chút nước bọt ra bàn tay
rồi chét vào mắt mà dụi cho tỉnh táo. Những chuyến xe không, bắt đầu vào bến
nằm. Mặt đường nhựa rét cứng. Mùa đông vào thành phố, vẻ buồn thảm càng nhiều.
Người đàn bà dọn quán. Bà ta bán bún riêu, bánh đúc. Sau khi bầy bát đĩa, tôi
ngồi vào tấm ghế dài, kẹp tay vào giữa hai bắp đùi rồi nói với bà ta:
- Cho một bát bánh đúc.
Người đàn bà mãi mới nhìn lên dò xét, tôi biết bà
ta đang nghĩ gì:
- Này người ta chưa bán mở hàng đâu đấy. Có tiền
không mà ăn?
Tôi moi mấy đồng bạc của người phụ xe cho mà để lên
bàn, tôi lên giọng chững chạc:
- Cho hai đồng thôi...
Hai bát bánh đúc chan canh riêu nóng hổi vừa ăn vừa
thổi làm tôi tỉnh táo. Tôi ngốn rau chuối như lợn cốt đầy dạ dày. Tôi ăn thật
nhiều ớt cho tê cả miệng và ràn rụa nước mắt.
Nghĩ đến chuyện bị hỏi giấy, tôi đi vào phố xá lén
lút như một kẻ ăn cắp, như chú cừu đang lạc vào bầy sói tôi đang lẩn thân bên
những xác ma chập chờn lẩn quất. Trông người nào tôi cũng thấy họ hung ác ngay
cả những đứa trẻ con cũng vậy và lúc nào tôi cũng tưởng họ sắp thộp lấy gáy
mình hỏi lăng nhăng rồi bỏ vào nhà tù cho đông đảo thêm.
Việc đầu tiên tôi nghĩ đến là trở về nơi bãi Phúc
Xá xem nhà cũ thế nào. Thành phố xa lạ một cách không ngờ. Những dấu vết chiến
tranh đang được cố gắng lấp đầy để quên lãng. Tôi đứng ở đầu nhà máy đèn, nhìn
xuống bãi Phúc Xá vắng tanh chơ vơ vài bức tường đứng cô đơn. Cầu Long Biên xám
đứng đằng xa. Tôi không dám lần xuống bãi. Tôi cố nghĩ xem, quen ai, tìm ai, ở
đâu, ăn gì, uống gì. Tôi ngồi ở vỉa hè nhìn nền trời xám.
Tôi đi men theo nhà Ideo lên phiá Yên Phụ. Những
rặng cây trút lá chạy dài. Những tên lính Tây la thét cười cợt hát hổng ở phía
trong bức tường cao. Tôi thấy chúng vứt những ống bơ ra theo lối cửa sổ. Tôi
đến những đống rác ấy bới móc nhặt những chút vỏ bánh mì đen thui ấn vào mồm mà
nhai mà nuốt. Tôi bới hết đống này đến đống khác. Tôi vét vào mồm từng chút cặn
thịt hộp đã thiu thối, từng chút đầu hay đuôi cá tanh lợm còn sót lại trong
những chiếc ống bơ. Tôi nhặt cả từng miếng bánh mặn nhỏ ấn vào hai túi áo. Ði
bới hết những đống rác tôi ngồi nhai những mẩu bánh, khi cổ khô vì khát tôi tìm
một cái máy nước áp mặt vào nốc.
Tôi đi lang thang lẩn lút từ phố này sang phố khác.
Chen vào đám đông nhìn vào từng khuôn mặt xem có ai quen không. Nhưng suốt buổi
tôi không tìm kiếm được gì.
Ðến buổi trưa tôi theo đường tàu điện ra tận Giám,
ngồi trong Văn Miếu bên những bia đá, nhà đổ, gạch ngói và cỏ hoang buồn buồn
tôi lộn hai túi áo ra nhặt nốt những vụn bánh còn sót lại bỏ vào mồm. Ngồi chán
leo lên bức tường đổ ra chợ Con Bò. Ðang thơ thẩn bỗng nghe tiếng cười hỏi
giật:
- Kìa cậu Kha, cậu mới hồi cư à? Ông bà ở đâu?...
Cháu vẫn để ý tìm mà không gặp – may quá...
nhà cháu ấy... Tôi ngạc nhiên phủi áo rồi nhìn vào
mặt người đàn ông một lúc. Tôi không nhận ra ai. Thấy tôi im lặng, người đàn
ông lại nói tiếp:
- Cháu đây mà – cả Mạnh hồi xưa trông cửa hàng cho
ông bà nhà...
Bây giờ thì tôi đã có người quen rồi cho dù tôi
không nhận ra ai.
- Tôi nhớ, chết thật lâu ngày... tôi cũng đang đi
kiếm...
- Thế ông bà nhà?
- Có mình tôi thôi... thầy đẻ tôi... Tôi đang đi
tìm một chỗ ở.
- Thế ra có một mình cậu.
- Vâng...
- Thật rõ...
- Tôi muốn có một chỗ ở tạm – nhà bác?
Người đàn ông lưỡng lự. Bác ta vào độ 40 tuổi, mặt
già nua đen sạm, những vết nhăn chằng chịt trên trán. Một con mắt bị tật để lộ
ra một mí đỏ lòm và ít râu thưa mọc lởm chởm trên mép.
- Cho tôi ở tạm thôi...
- Nhà cháu cũng không có chỗ tử tế. Sợ cậu ở không
được.
- Vẽ ra, đến có ổ chuột mà rúc vào cũng hay rồi
đấy, loạn mà bác?
Sau cùng – bác Mạnh – bây giờ tôi có thể nhớ được
tên bác – đưa tôi về ngõ Thông Phong ở tận mãi chỗ Ô Chợ Dừa nơi con đường Hàng
Bột. Vừa vào đầu ngõ đã phải đi qua một xưởng thuộc da hôi thối và những ruộng
muống tanh lợm mùi bùn. Bác Mạnh làm nghề thổi thông phong cho một xưởng nhỏ ở
luôn tại đó làm người gác nữa. Bác có một chỗ ở bằng ba chiếc chiếu ngánh bằng
mấy tấm tôn vào cái lò nấu thủy tinh. Trong nhà chỉ có một cái gường tre độc
nhất là chỗ ăn, chỗ ngồi chơi hút thuốc lào và chỗ ngủ cho hai vợ chồng và một
đứa con gái hai tuổi gầy teo. Tiếng nó khóc như tiếng mèo kêu nhưng cũng nhờ
tiếng khóc đó tôi biết nó còn sống.
Tôi nói tình cảnh tôi cho bác Mạnh nghe. Bác tỏ vẻ
ái ngại về chuyện vật đổi sao dời làm tôi khó chịu. Tôi nhờ bác xin cho một việc
làm ngay ở xưởng. Ở đây người ta mua những mảnh vụn chai, kính vỡ về nấu rồi
thổi thông phong, những ve chai nhỏ để đóng thuốc cho mấy tiệm thuốc bắc. Tôi
không biết thổi nên nhận một chân đốt lò, khuân thủy tinh, quét dọn. Buổi tối
tôi giải chiếu ngay nơi cửa lò – chỗ làm việc của bọn thợ ban ngày mà ngủ cho
ấm.
Bây giờ thì tôi đỡ lo là chưa chết ngay. Mùa đông
kéo dài những ngày rét mướt. Tôi vay tiền mua hai cái bao tải tối đến chui vào
đó. Với những ngày làm việc mệt nhọc những cơn sốt vẫn trở lại với tôi. Tôi
lãnh tiền công chỉ trả tiền cơm cho bác Mạnh và mua thuốc ký-ninh vàng về uống
hoài. Uống mãi những cơn sốt lui dần thì tôi hoá ra nghễnh ngãng, ù tai nghe
không rõ. Người ta sai bảo tôi chẳng nghe được, người chủ đuổi tôi không cho
làm vì không thể mượn một người điếc. Tôi buồn sao không điếc hẳn mà lại còn đủ
sức để nghe tiếng quát tháo. Theo lời khuyên của bác Mạnh. Tôi đeo lên vai một
cái giỏ rách, với một cái móc sắt đi theo những người móc rác đi nhặt mảnh
chai, kính vỡ, vụn sắt về bán.
Tôi tìm ra bãi đổ rác, bới những đống hôi thối,
nhặt chai, kính... từng chút sắt vụn, vỏ cam, rẻ rách. Khi chiều về lọc ra từng
thứ bán cho bà Cả Ới. Bà ta chuyên mua lại của những người đi nhặt rồi bán cân
cho xưởng thổi phong long, cho lò đúc, rẻ rách bán cho dân Bưởi làm giấy cho
xưởng ô-tô làm rẻ lau. Vỏ cam vỏ quýt cho tiệm bào chế và cả lông vịt lông
gà...
Tôi kiếm đủ ăn, tối về ngủ ở chỗ bác Mạnh như một
con chó vô chủ.
Tôi bới chán ở đống rác lại đi tìm bới ở những căn
nhà đổ nát chưa có chủ về. Tôi nghĩ đến nhà tôi, và những thứ còn lại ở đấy
chắc chưa ai nhặt nên muốn mò về. Một bữa tôi lên đê Yên Phụ nhìn sang bãi Phúc
Xá với ý nghĩ ấy nhưng rồi không dám qua. Tôi đi dọc bờ sông lên chỗ xưởng dép
cao-su Con Hổ chen vào một đám đông đảo tụ lại ở chân đê.
Tôi thấy người ta đang đào một cái hố lớn, họ đào
sâu và vứt lên vô kể những mảnh chai sắt vụn mà không ai nhặt thì mừng quá. Tôi
nhặt lại từng đống rồi thuê xe ba gác chở về. Tôi vớ được một món bất ngờ. Tôi
không hiểu họ đào gì mà chốc có người lại cúi xuống nhặt lên một mẩu xương, khi
to khi nhỏ rồi xem xét, truyền tay nhau. Khi thì xương bò, khi thì xương lợn,
khi xương gà, xương chó... Khi biết thế họ lại vứt đi và đào nữa – Sau tôi mới
biết họ tìm xương người. Toán người ở đó được một nhà giàu ở đây thuê đào tìm
xương của ông bố chết hồi chạy loạn mà người đó nghi là chết ở tăng-xê nơi chỗ
này. Bởi thế nên mỗi khi gặp một chút xương họ phải xem có phải là xương người
không, nhưng mỗi lần họ đều thất vọng, đào mãi cũng không thấy gì. Ngày thứ hai
họ có ý thôi, tôi nghĩ đến sắt vụn mảnh chai nên bảo:
- Tăng-xê này sâu lắm, ở dưới nữa kia. Ðào chưa tới
đâu. Thấy nói vậy họ tưởng tôi biết nên xúm lại hỏi, yên trí tôi biết. Tôi bảo
chính hồi Nhật thả bom tôi đã chui vào đây và có lẽ mẹ tôi cũng bị chôn ở đây
nữa. Họ tiếp tục đào và cho tôi kiếm ăn. Nhưng lẽ dĩ nhiên họ không tìm ra một
chút xương người nào. Khi họ yên trí bảo chắc ông cụ không chết ở đây. Tôi vỗ
tay vào trán như mới nhớ ra: - À, nhưng chỗ này có những hai cái tăng-xê cơ –
hay ông cụ chui ở cái đằng này...
Tôi chỉ cho họ chỗ cách đó độ năm thước, tôi quả
quyết còn một cái nữa – và họ tiếp tục đào cho tôi nhặt mảnh chai, sắt vụn. Tôi
nghĩ giá hồi xưa biết vậy tôi chết quách chỗ này cho bây giờ họ nhặt lấy xương
mà làm ma, làm chay và cho là bố họ có hơn không. Rồi đào mãi họ cũng bỏ. Tôi
nghiêm nét mặt rồi nói lớn:
- Sao không đào cái đống thịt thối này của tao mà
lấy đầu lâu và xương cốt...
Lũ người bảo tôi là thằng điên họ tức bực muốn dần
cho chết. Có một đứa bông lơn cho cả lũ cười.
- Ðến vứt cái xác mày cho chó nó cũng chả gặm nữa
là xương cốt...
Tôi cất tiếng cười lớn theo đám đông xúm quanh làm
họ thôi cười.
Số tiền kiếm được làm tôi phè phỡn. Một bữa tối tôi
qua phố Hàng Buồm mua hai con gà luộc sẵn về cho vợ chồng bác Mạnh một con, còn một con
tôi ngồi xé ra ngoạm.
Tôi đang ăn thì có đứa con gái đứng ở cửa nhìn vào.
Tự nhiên tôi nói lớn:
- Có ăn thì vào cho miếng chứ nhìn gì?
Nó vào ngồi ở bên cạnh rất thản nhiên. Tôi nghĩ
chắc nó cũng sống như tôi – thật tội nghiệp. Tôi nhìn vào mặt nó. Nó cũng chỉ
độ tuổi tôi. Tóc uốn quăn môi son và mặt chát phấn. Nó mặc quần áo trắng. Nó ăn
hết rồi ngồi mút mười đầu ngón tay còn vẻ thèm nhạt. Tôi hỏi:
- Ở đâu?
- Trong ngõ
- Có nhà à?
- Có
- Hạnh phúc, hạnh phúc.
- Còn anh?
Nó nói tiếng anh ngọt sớt. Tôi vứt bỏ mẩu xương
cuối cùng rồi co vạt áo lên chùi mồm.
- Không có gì cả... không có gì cả mà...
- Về ở với em...
Nó lại xưng em. Tối hôm đó tôi theo về nhà nó – một
gian nhà lá mãi trong cuối ngõ. Nó chỉ cho tôi nằm ở một cái chõng con và vứt
cho tôi một cái chăn đơn. Nó ngủ ở một cái gường có màn buông và hai cái gối.
Lần đầu tiên tôi được một chút êm ấm. Ðêm nó thắp đèn kể chuyện tâm sự cho tôi
nghe. Nó chả có cha mẹ gì và nó làm nghề kiếm khách. Tôi về ở đó ngày ngày đi
móc rác, đêm về ngủ. Nó thì ban ngày ngủ, đêm đến mặc quần áo, đánh phấn chải
đầu rồi đi kiếm mối đem về nhà. Chúng nó cởi truồng ra đùa rỡn với nhau chán
rồi ôm nhau lên giường ngủ như không có tôi. Những ngày mùa đông rét mướt kéo
dài mãi nền trời xám và mưa đêm. Những ngày không có khách nó co tôi sang ngủ
chung cho ấm. Có đêm cơn sốt rét lên nó thấy tôi run như sắp chết thì hoảng sợ.
- Ê chết sao mà rãy dữ vậy?
- Không.
- Ðừng rỡn, chết làm sao ta chôn.
- Thì cứ vứt ra đường là xong
- Vứt sao được...
- Ðùa chứ chết gì, ôm cho chặt vào thì không chết
đâu, khỉ.
Nó cởi hết quần áo tôi ra mà đùa rỡn coi tôi như
một khúc gỗ. Ðêm nào nó cũng cần ôm lấy một thân thể mới ngủ được. Tôi là một
cái thân thể để cho nó đắp vào những đêm không có khách. Có đêm tôi lên cơn
rét, thân thể hoàn toàn bất lực, nó cố vác bỏ tôi sang chõng rồi ngồi chờ thằng
tầm quất đi qua. Thằng tầm quất tới nó gọi vào rồi đóng cửa lại, nó bảo đấm bóp
chán rồi ôm lấy. Thằng tầm quất không cưỡng lại được, sáng hôm sau như lả đi.
Nó bảo tôi giúp sức kéo bỏ ra ngoài đường. Ðến một hôm có một gã đàn ông khoẻ
mạnh đến rồi ở luôn lại. Tôi nằm một mình buồn tủi. Rồi đứa con gái bảo tôi:
- Em sắp lấy chồng.
- Gã đó?
- Chứ sao.
Tôi buồn rầu bảo:
- Lấy anh đi... tương lai mà...
Nó bĩu môi rồi tát vào mặt tôi một cái mà bảo:
- Ứ ừ... để rồi tao đi móc rác với mày à – Rồi con
cái – rồi tuổi già?...
- Ðồ khỉ – Lại còn con cái? Lại còn tuổi già? Rồi
sống được đến già à?
Tôi ôm lấy nó như chưa ôm bao giờ.
- Ðừng lấy gã đó. Ở với anh...
Mấy ngày sau chúng nó tống tôi đi với mấy chục bạc.
Tôi ngày ngày đi móc rác, chiều đến mò vào Văn Miếu nằm. Ðêm đêm sờ soạng những
bia đá, những gạch ngói nằm im mà thấy tủi thân. Ôm vào lòng cũng chỉ thấy cứng
ngắc. Buổi sáng thức dậy soi mặt xuống làn nước hồ nghe tiếng quạ kêu trên
những ngọn cây khô già cỗi.
Ðến một khuya kia tôi thức dậy vì ánh sáng đèn bin
soi vào mặt. Tôi mở mắt nhìn tụi lính chĩa súng vào người. Chúng hỏi giấy tờ
tôi không có gì nên bị điệu về bót. Chúng giam tôi đến sáng hôm sau mới dẫn lên
hỏi:
- Tên gì?
- Con tên Kha.
- Thẻ căn cước?
- Con mới vào nên chưa có.
- Ở đâu?
- Con ở ngõ Thông Phong
- Số nhà?
- Con quên.
- Với ai?
- Với vợ con.
Chúng bắt tôi dẫn về ngõ Thông Phong, tôi đưa vào
nhà đứa con gái. Tôi chỉ vào nó mà bảo với tụi lính:
- Vợ con đây.
Tụi lính cất tiếng hỏi:
- Có phải bà là vợ nó không?
- Không, tôi có chồng.
- Bà biết nó không?
- Không – tôi không biết nó là ai cả.
- Nó là vợ tôi mà...
- Này thằng kia – mày trông rõ xem tao ngủ với mày
bao giờ...
Tôi thấy yêu đứa con gái vô cùng. Tụi lính đánh tôi
túi bụi.
- Khai láo, khai láo... quân lưu manh... đánh cho
chết đi...
Ðêm chúng đem tôi về nhận vào bể nước rồi đánh nữa.
Khi tôi ngất đi chúng lại phun nước cho tỉnh dậy và tiếp tục đánh như nhồi một
trái banh – rồi chúng lại bắt tôi cung khai. Tôi không còn biết mình nói gì:
- Mày mới ở ngoài vào phải không?
- Vâng... dạ
- Ðịnh phá hoại phải không?
- Dạ vâng...
- Với ai, tổ chức nào?
- Vâng...
- Ai?
- Dạ...
- Ai?
- Nguyễn-mạnh-Kha...
- Ở đâu?
- Số bảy, tám, chín Hàng Khay.
- Ðúng không?
- Nó cho ở...
Tụi lính lại dẫn tôi đi, tới nơi tôi vừa tỉnh để
bảo:
- Không, tôi nhầm. Tôi là Nguyễn-mạnh-Kha.
Tôi khai lung tung, bạ gì nói nấy. Chúng đánh chán
tay rồi giam tôi vào buồng tối như một con chó cho muỗi nó đốt. Chúng tra khảo
tôi mãi cũng chán nên giam tôi lại cùng với những người khác, mỗi ngày ném cho
một nắm cơm. Có một ngày lũ người bị giam được tập trung vào một khoảng sân ngó
thấy nền trời. Tay bị xích lại. Hôm đó có một viên cố đạo bảo là đến làm phép
lành cho lũ tù. Hắn nói những điều tôi chưa hề nghe bao giờ như: yêu mến chúa,
thiên đường, địa ngục, cứu rỗi, tội lỗi, xám hối, quỷ quái, thánh thần, yêu
thương, huynh đệ... Lũ lính vác súng bắt lũ tù ngồi yên nghe.
Viên cố đạo làm dấu nhìn chúng bị đánh đập. Nhưng
tôi còn đủ sức chửi bới và văng tục. Tụi lính lại tra khảo tôi mà không chịu
buông tha:
- Mày tên gì?
- Con khỉ
- Ở đâu?
- Con khỉ... cởi truồng...
- Cha mẹ mày tên gì?
- Ai?...
- Cha mẹ mày?
Khi nghe rõ đến hai tiếng cha mẹ thì tôi khóc rống
lên chúng tiếp tục đánh đập tôi nữa:
- Mày tên gì?
- ... thịt thối...
- Ở đâu?
- Viên cố đạo
- Cha mẹ mày tên gì?
- A ha!... A ha!...
Ðến một đêm tối lũ lính dồn tôi lên một chiếc xe
bọc kín mang tới một cánh đồng cùng mấy đứa nữa. Chúng bắt đào hố. Tôi biết là
sắp được tự chôn mình. Tôi nghe tiếng lên đạn lách cách, xong chúng bắt quay mặt vào hố. Tôi nhớ đến câu
hỏi, và tự nhắc.
- Cha mẹ mày tên gì?
Dương Nghiễm Mậu
1958