KÝ ỨC THÁNG 4
Có một người bạn từ bên kia đại dương
đã hỏi tôi: “Bạn đã ở đâu những ngày tháng 4 năm 1975? “. Qúa khứ chợt trở
về choáng ngợp.
Quy Nhơn, những ngày cuối tháng 3-1975.
Trường Nữ Trung Học – Ngô Chi Lan, lớp 612Bis, ngịch như quỷ sứ. Biển
Quy Nhơn những ngày sau tết se lạnh. Con bé nào cũng chanh chua, đáo để. Áo dài
trắng lần đầu tiên mặc trong đời cứ xăn trên đầu gối để ra biển nhảy sóng, trò
chơi của trẻ con vùng biển. Ngôi trường nằm đối diện bờ biển, cạnh thư viện
thành phố. Hàng chè, kem, ổi, cóc, xoài hai bên bờ biển món khoái khẩu của tụi
con gái. Nhỏ nào cũng có biệt danh: Trâm “điệu”, Mai”mít ướt”, Huệ “chà và”,
Lan “nhí”, Đào”búp bê”, Thúy “công chúa”… Tôi còn nhớ mùa xuân năm đó, sóng
biển thật to, ùn lên những bờ cát dốc thẳng, tụi tôi thích trượt trên những bờ
cát và chạy dọc bờ biển đuổi bắt những con còng gió bé tí teo.
Huệ “chà và” nghịch như con trai – ba nó là người Ấn có sạp vải ở đường
Gia Long, khu người Hoa sinh sống – tôi sợ nhất trò chơi lén cột áo dài hai đứa
với nhau của nó. Có một lần tôi khóc như mưa vì nó làm rách áo tôi, bứt tung cả
cúc áo. Sợ tôi giận, hôm sau nó làm lành bằng cách mua một mớ me non còn xẹp
lép đem mắm ruốc lên chấm, cả lớp được một bữa nhâm nhi.
Cả tuần nay, lớp tôi bỗng trầm hẳn. Giờ Kim văn, tổ 1 chúng tôi thuyết
trình tác phẩm “Nhà mẹ Lê” của Thạch Lam không đứa nào thèm phát biểu. Nhỏ Trâm
“điệu” không còn lén ghi bậy trên giấy rồi dán trên áo bạn phía trước để tụi nó
chí choé cãi nhau rồi đổ lỗi lung tung. Sáng nay, nó bồn chồn, mắt nó sưng mọng
đỏ hoe. Tụi tôi biết ba nó – sĩ quan sư đoàn 22 – mất tích mấy hôm nay. Lan
“nhí” – ba thiếu tá phi công – nghỉ học từ hôm qua. Lớp càng ngày càng vắng
teo, lác đác chỉ còn vài đứa. Chiến sự căng thẳng đang len lỏi trong từng mái
nhà…
Sáng 28-03-1975.
Ba tuyên bố: Các con chuẩn bị nghỉ học đi “dã ngoại” vào Sài Gòn.
Chị em chúng tôi háo hức cho một chuyến đi xa.
Mẹ gói gém đồ đạc cho các con, mỗi đứa một túi vải đeo vai gồm vài bộ
quần áo, một ít thức ăn sẵn và một quyển sổ nhỏ ghi địa chỉ, lý lịch gia đình.
Ba tôi là người phòng xa và làm việc rất khoa học, mọi việc trong nhà ba lên kế
hoạch rồi quyết định.
Chị Vân hỏi: Sao giống đi chạy giặc vào Nha Trang năm 72 vậy ba?
Tôi thích thú, nhớ lại “mùa hè đỏ lửa” năm 72, ba chở cả nhà chạy vào
Nha Trang, ở tại trường Võ Tánh. Buổi tối các anh chị hướng đạo sinh tập chúng
tôi ca hát. Và tôi rất thích những buổi trưa nắng nóng, lũ trẻ chúng tôi lang
thang hái đầy hoa tigôn mọc phía sau trường. Con bé vô tư, tung tăng trên những
đụn cát mọc đầy hoa dại.
Sáng 29-03-1975, cả nhà thức dậy rất sớm, mẹ nấu sẵn cơm nắm, luộc trứng
gà, giã đậu phộng đem theo. Ba ở lại gói gém đồ đạc để gởi, đồ của bác Phó biện
lý toà án tầng trên, đồ của chú Luật sư Sinh tầng dưới, và ngổn ngang đồ đạc
của gia đình tôi.
Tôi níu tay ba, sao không đi luôn ba, ba chỉ im lặng dẫn cả nhà đến nhà
con Tuyết “hí” – xe khách Tiến Thành – trên đường Võ Tánh, họ đã đợi sẵn. Trời
còn tối mù, khoảng 3 – 4h sáng gì đó, nhưng sao đường phố nhộn nhịp khác
thường, nhà hai bên đường đèn bật sáng, họ cũng đang sửa soạn khăn gói ra đi.
Cả thành phố phải bỏ chạy? Tại sao? Con bé vừa tròn 11 tuổi cảm nhận có một
điều gì đó hệ trọng. Tiếng súng ì ầm từ xa vọng về thành phố ngày một rõ hơn,
dồn dập hơn.
Mẹ với tay ba: “Em vào Nha Trang đợi anh ở nhà sư cô Minh Liễu – gần
Tháp Bà, chiều anh đi liền nghen, kẻo không kịp”. Ba chỉ ậm ừ, dặn dò chúng tôi
phải ngoan nghe lời mẹ.
Chiếc xe lăn bánh, nhìn mẹ lo âu, lòng tôi thấp thỏm. Ba đứng trên đường
nhìn chiếc xe xa khuất.
Nha Trang, tối 01-4-1975.
Mẹ khóc, sao giờ ba chưa vô, Quy Nhơn đã thất thủ rồi.
Ngoài sân nhà sư cô Minh Liễu, ngổn ngang người di tản. Đèn ở đây sao mờ
dữ vậy, tôi không thấy cái gì rõ cả.
Đã ba ngày rồi gia đình tôi ở lại chờ đợi ba, lẽ ra giờ này chúng tôi
đang ở Sài Gòn với anh hai tôi, ba sẽ đưa chị em tôi đến Thảo Cầm Viên như đã
hứa.
Nửa đêm, ba ùa vào như cơn lốc, nồng mùi biển cả, ba không đi đường bộ.
Ba nói với mẹ: “Bắn nhau tử thủ – căn cứ sư đoàn bộ binh 22 đóng ở Quy
Nhơn – dân di tản chạy đường bộ chết như rạ, anh theo ghe đi đường biển.
Không thể ở đây được nữa, có lẽ vĩ tuyến 17 sẽ được chia ở đường biên Cam Ranh,
phải chạy thoát ra khỏi Nha Trang ngay – họ đang tiến công như vũ bão. Không
còn kịp nữa”.
Ba lo lắng, chị Vinh – đang học Đại học Sư phạm Huế có kịp bay vào Sài
Gòn như ba đã dặn, anh hai ở Sài Gòn có kịp ra đón chị, ” Tụi nó có chờ cả nhà
vào, hay lại nghe tụi bạn đi trước, thất lạc hết”. Mẹ nói “ Có lẽ cậu tám sẽ
giữ tụi nó ”. Tôi nhớ ông tám – Giáo sư dạy Lý-Hoá trường Lasan Taberd, người
cao to nghiêm nghị.
Tôi không biết bằng cách nào ba lo cho cả nhà theo một chiếc xe Balua
vào Sài Gòn, đến Cam Ranh bắn nhau dữ quá, chúng tôi mắc kẹt giữa hai lằn đạn.
Ba kiếm đâu ra một căn nhà bỏ hoang trên đường gần kho gạo, cả nhà vào tá túc.
Gạo sấy đem theo đã hết. Chúng tôi sắp đói. Cả một đại gia đình. Lớn nhất chị
Vân 16 tuổi, út Thơ 4 tuổi. Ba nói tôi và chị Vân theo ba. Đường phố vắng ngắt.
Chúng tôi đến một cửa hàng nhưng không có ai cả. Tôi lấy thịt hộp của Mỹ, chị
Vân khiêng thùng bánh quy của Đại Hàn. Ba đi đâu đó trở về với bịch gạo. Chúng
tôi ở đó vài ngày, rồi súng nổ dữ dội, ba nói trong thị xã không an toàn phải
chạy ra ngoại ô thôi. Buổi chiều hôm đó, tôi thấy các anh lính Cộng Hoà gương
mặt thất thần, mặt bê bết máu, cởi bỏ quân phục vứt đầy đường, tôi thấy họ cũng
còn rất trẻ như anh hai tôi. Tôi biết họ đang đau khổ, họ muốn về với gia đình.
Tôi chợt lo lắng anh ba Nghiêm con cô năm cũng đi lính, anh năm Khoa con bác
bảy cũng đi lính, bây giờ các anh đang trôi dạt nơi nào – chắc là cô tôi, bác
tôi cũng đang mỏi mắt chờ mong.
Chị em chúng tôi chết sững khi một người lính gõ cửa xin quần áo, tôi
luýnh quýnh lôi đồ của ba đưa cho anh ta.
Chị Vân tấm tức khóc “Lính Cộng Hoà đào ngũ hết rồi, mình sẽ ra sao?”.
Tôi nhìn chị linh cảm có điều chẳng lành.
Cam Ranh, quốc lộ 1 cây số 13.
Cả nhà dắt díu nhau chạy bộ ra ngoại ô, buổi sáng xanh ngắt, súng nổ đầy
trời. Nắng Miền Trung chói loà. Tôi khát nước, cháy nắng. Dân di tản chạy đầy
hai bên đường. Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang đều mắc kẹt ở chiến
tuyến Cam Ranh.
Ba cõng bé Thơ, dúi tôi ngã nháo nhào dưới cống vệ đường – bom nổ, bom
đang rơi. Phi cơ của mình sao lại ném bom vậy ba, chết mình sao ba. Tôi thấy
bom bi rải đầy trời, hai ba phi cơ đang lượn trước mặt. Ba nói quân Miền Nam
chặt cầu cho quân Miền Bắc không tiến sang. Tiếng súng bắn máy bay xối xả từ
trong những vườn xoài bắn trả. Chúng tôi lạc vào chiến tuyến. Tôi chạy trên
những xác người. Tôi chạy trong những gào thét. Những người lính Miền Bắc đang
hành quân chạy song song cùng tôi. Tôi thấy họ cũng còn rất trẻ, cũng giống anh
mình. Họ cũng vừa chạy vừa hét những người dân di tản nằm xuống tránh đạn.
Ba đếm từng đứa con, ba là ông tướng xung trận che chở, điều khiển từng
bước chân các con. Tiếng ba thét, Tiến nằm xuống, chạy qua bên kia bờ, Vân lùi
lại kéo em. Hai bên đường dân di tản bồng xách chạy hỗn loạn. Tôi chạy và chạy,
đầu óc tôi trống rỗng. Tiếng rít đinh tai của đường đạn, tiếng nổ buốt óc của
bom rơi. Khói lửa cháy ngập trời. Một sự hoảng loạn man rợ quanh tôi. Trời ơi!
Tôi rợn cả người – những bước chân non tơ của chị em chúng tôi ngập đầy máu.
Máu của dân tộc tôi, máu của đất nước tôi, máu của người dân nước Việt chảy dài
từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau dọc theo đường quốc lộ – một sáng tháng tư.
Thật kỳ lạ, ơn trời – cả nhà tôi may mắn thoát qua vòng chiến
tuyến mà không hề hấn gì, mẹ nói chắc ông bà ngoại phù hộ.
Đêm đến, chúng tôi vào trú một chòi canh ven đường.
Và ở đó bao lâu tôi không nhớ. Chị em tôi ngã bệnh, những cơn sốt nắng
và những chấn thương. May thay, mẹ tôi là y tá, bà đã quá quen việc chăm sóc
người bệnh. Ba lại lặn lội vào thị xã Cam Ranh, trở về với một bao gạo nhỏ trên
chiếc xe đạp lọc cọc của ai. Gương mặt ba hốc hác, ba thoát chết, khi những núi
gạo đỗ ập xuống người dân di tản. Ba chỉ bị thương nhẹ. Sáng, mẹ nấu một nồi
cháo trắng, không muối, không đường, không có gì cả. Một rổ củ mì nhổ ở bên
chòi. Chúng tôi đi nhổ củ lang, củ dền. Mẹ nói chị Vân ra con suối sau chòi xem
có đu đủ hái về cho mẹ. Chị em tôi chạy theo chị. Con suối trong veo, hai bên
um tùm hoa dại tím ngát. Có cả sim sim, dủ dẻ, có cả chuối già hương nữa, nhưng
còn non quá. Chị la không cho hái. Bươm bướm, nhiều ơi là nhiều. Chúng tôi cười
vang chạy theo những con bướm vàng, bướm xanh dọc bờ suối, nô đùa vô tư. Tôi
nói giống đi picnic quá chị Vân há, chị cười gượng nhìn tôi rớm nước mắt.
Đu đủ xanh mẹ xắt tưa nhỏ, ngâm nước vo gạo làm trộn cho chúng tôi ăn.
Hạt đu đủ non trắng lóng lánh dưới nắng trưa như ngọc trai. Cơm trắng không
muối, không nước mắm. Bé Thơ khóc, cu Tiến khóc – đòi uống sữa.
Vàng, nữ trang mẹ đem theo không mua được sữa, tiền đã hết theo mấy
chuyến xe. Mặt mẹ bơ phờ, mắt ba đăm chiêu.
Sáng hôm sau, ba cặm cụi đi đâu từ sớm, lúc trở về với chiếc xe đạp cà
tàng chạy kêu long tong, ốc vít rơ hết, lủng lẳng hai túi đu đủ vàng ươm. Ba
nói, Thúy lên ba chở. Lần đầu tiên trong chuyến “dã ngoại” ba âu yếm gọi tôi.
Chiếc xe nhảy cà tưng cà tưng trên đường, tôi hỏi đi đâu ba. Ba nói đi
chợ làng quê cho biết. Tôi thắc mắc nhưng không dám hỏi.
Trên mép cỏ con đường quốc lộ lúp xúp vài ba quán tranh, người ta ngồi
bệt trên cỏ bày hàng dưới đất, nói là chợ cho oai chứ khoảng dăm người bán. Ba
dựng xe bên lề, lúng túng trãi tờ báo Tia Sáng xuống vạt cỏ, bày đu đủ ra. Rồi
ba nói, ngồi đây bán nghen con. Bây giờ tôi mới hiểu.
Nắng tháng tư oi nồng, chiếu rát cả mặt, ba lấy tờ báo che đầu tôi. Bóng
ba đứng trùm lên bóng tôi. Ngồi lâu ơi là lâu, mặt tôi bắt đầu bỏng rát. Nắng
Cam Ranh chói chang, đổ lửa. Mồ hôi tôi túa đầm đìa. Ba cúi xuống lau mồ hôi
trên mặt tôi đỏ ửng, ba luôn miệng vỗ về – nắng quá hả con. Tôi thấy thương ba
quá, tôi muốn khóc.
Một người đàn bà nhà quê, gương mặt phúc hậu hỏi tôi – dân tản cư hả, ở
đâu vậy con. Tôi nói con ở Quy Nhơn. Đu đủ này giá bao nhiêu con. Tôi ngơ ngác,
dạ con không biết. Ba tôi đỡ lời, chúng tôi muốn đổi lấy một ít nước mắm, muối
và sữa. Người đàn bà cỡ trạc ba tôi, dẫn tôi đến một góc quán nhỏ, nói đứng đó
chờ. Bà đem ra lon sữa ông Thọ và một chai nước mắm. Tôi mừng rỡ, vòng tay cảm
ơn bà rồi chạy đến bên ba. Chiếc xe nhảy cà tưng cà tưng trên đường về, ngoái
lại tôi còn nhìn thấy người đàn bà nhà quê nhìn theo đầy ái ngại. Trời ơi, ba
kiêu hãnh của tôi, phó Thanh tra Ty XX … bước một bước có xe đưa đón, đi công
tác có trực thăng bốc đi.
Những ngày cuối tháng 4.
Không có xe vào Sài Gòn, Quy Nhơn thì thất thủ, biết làm sao bây giờ.
Giữa đồng không, nhà trống. Đi bộ vào Sài Gòn đi ba, chị em tôi nói – anh hai
và chị Vinh đang trông ngóng.
Cả nhà thất thểu đi trên đường quốc lộ, lương khô mẹ đã chuẩn bị, cơm
nắm, nước uống trong bi đông cho mấy ngày đường.
Một chiếc xe ben chở gỗ đi ngang, ba chặn lối. Cả nhà vắt vẻo quá giang
được một đoạn đường.
Phan Rang.
Buổi chiều trên xứ lạ buồn thê lương. Tiếng gào của ai đó như xé
nát hồn tôi. Chị em tôi thu mình ngồi nhìn mặt trời lặn trên cánh đồng xơ xác,
bóng tối đang bắt đầu ập đến. Những bóng người di tản nhập nhoà đang đi trên
đường. Trời chạng vạng, một người đàn bà tiều tuỵ, bơ phờ lê bước kiếm ai trên
đường vắng, bà không nhìn thấy ai, bà luôn miệng gọi Cu tí, cu tí núp mô rứa
con, ra đi. Me đây. Cu tí, cu tí núp mô rứa con, ra đi. Me đây. Giọng Huế của
bà khản đặc, vô hồn, nói như là không nói, đi như là không đi. Tôi ngồi nhìn
theo người đàn bà điên nước mắt trào dâng.
Đêm, giữa cánh đồng tối đen đầy bất trắc, thỉnh thoảng từ xa vẳng lại
những tiếng nổ ì ầm, khuấy động không gian yên tĩnh, như nhắc nhở chúng tôi về
cuộc chiến vẫn đang rình rập xung quanh. Ánh sáng duy nhất mà tôi nhìn thấy là
lũ đom đóm bay lập loè trong đêm. Chúng đang múa những vũ điệu nghê thường. Và
lũ muỗi khoái trá bỗng bất ngờ chộp được miếng mồi ngon – chị em tôi.
Ước gì, giờ này gia đình tôi đang quây quần bên mâm cơm trong ngôi nhà
thân yêu, ngát nồng mùi hương biển. Ước gì, giờ này chị em tôi đang ngồi trong
căn phòng ngập tràn ánh sáng, học bài cho ngày mai đến lớp. Ước gì! Ước gì!
Tại sao đêm nay chị em tôi phải ngồi bên vệ đường ướt đẫm sương đêm, đói
khát như kẻ hành khất? Thức ăn của chúng tôi những ngày qua chỉ là những củ
khoai mỡ, khoai mì đào vội trên cánh đồng, ven những nương rẫy của người nông
dân.
Tại sao gia đình tôi và những người dân Miền Trung hớt hơ hớt hải, bỏ
nhà bỏ cửa, bỏ cả sự nghiệp cuống cuồng chạy xuôi về Nam lánh nạn. Tại sao và
tại sao?
Trời ơi! Phan Rí, Phan Thiết, Bình Thuận nắng – khô – nóng – khát.
Tôi khát nước, tôi thèm có nước. Chúng tôi sẽ chết vì không có nước. Tôi
không biết mình đang ở đâu, nhưng tôi biết gần Sài Gòn lắm rồi, lũ trẻ
chúng tôi đã quá mệt mỏi, chỉ chờ nghỉ ngơi. Mẹ chắt từng hạt nước trong một
đầm lầy nhỏ mà tôi thấy có đầy phân bò, tôi háo hức hớp và nôn. Tôi khóc, con
muốn uống nước. Mẹ tôi cố nén dỗ dành con.
Đêm chúng tôi nằm trên thảm cỏ, bầu trời nhiều sao quá. Gió mát lạnh,
những lá cọ ve vuốt chúng tôi, mẹ nói: “Vùng này dân đói khổ lắm, nghề của họ
là đan chiếu, chằm nón, ở đây quanh năm thiếu nước. Đồng ruộng khô cằn, đói kém
liên miên. Dân Chàm ở đây rất nhiều. Da họ đen cháy”. Giọng mẹ trầm ấm ru chị
em tôi vào giấc ngủ.
Đêm, hàng đêm ngủ trên cánh đồng ven đường quốc lộ, tôi luôn giật mình,
run rẩy vì tiếng xe tăng hành quân chạy rần rần rung chuyển mặt đất. Những sợi
dây xích sắt nghiến trên đường nhựa nghe ghê người. Những lá cờ xa lạ được gắn
trên xe tôi thấy lần đầu – nửa đỏ, nửa xanh chính giữa là ngôi sao vàng năm
cánh. Những người lính Miền Bắc lá nguỵ trang đầy mình bước đi rầm rập trên
đường.
Có những đêm họ nghỉ gần chúng tôi. Tôi nghe tiếng người nói lao xao,
tiếng kèn Ácmônica trong đêm khuya vẳng lại.
Giữa đêm vắng, ba mẹ bồn chồn, thao thức, đứng ngồi không yên.
Vô tình, nhịp tiến của gia đình tôi lại trùng với nhịp tiến công vào Sài
Gòn của họ. Ba chạy đôn chạy đáo trên đường tìm xe, mong cho bước chân mình
nhanh hơn, nhanh hơn.
Ba rất giỏi, cuối cùng ba cũng thương lượng được một chiếc xe Balua trên
đường đi giá nào cũng trả, mẹ đỗ hết vòng vàng, nữ trang. Chỉ một ước muốn duy
nhất – cả nhà nhanh chóng, an toàn đến Sài Gòn.
Sài Gòn 30-4-1975.
Sài Gòn! Sài Gòn! Lũ trẻ chúng tôi náo nức vì biết rằng mình sắp nghỉ
ngơi sau một chuyến hành trình kinh hoàng và khổ ải.
Sài Gòn! Sài Gòn! Niềm mong ngóng của ba mẹ, nơi nương náu an toàn cùng
bạn bè trong thủ phủ Miền Nam.
Gia đình tôi sắp chạm đến bến bờ hy vọng. …
Xe Ba lua mở banh cửa sau, gió lồng mát rợi, chỉ có một sợi dây xích sắt
khổng lồ vắt ngang, ba và mẹ ngồi ở hai đầu canh chúng tôi ngả nghiêng ngủ.
Tôi choàng dậy, khi tiếng người nói, tiếng loa phóng thanh, tiếng xe cộ
dày đặc, kẹt xe trên cầu Sài Gòn. Quân Miền Bắc đã vào sáng nay, chiếc xe cũng
vừa vào đúng lúc. Hai bên đường người dân đông nghẹt, họ đón ai vậy, điều gì đã
xảy ra?
Thật trớ trêu, khi bước chân rong ruổi của gia đình tôi vừa chạm đến bến
bờ hy vọng cũng là lúc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Niềm tin tưởng được
chở che trong thủ phủ Miền Nam đã vỡ nát.
Ba chết lặng trên xe, ngồi im không nói một lời.
Mẹ sợ hãi, bật khóc nức nở ngày Miền Nam sụp đỗ.
Chị em chúng tôi ngơ ngác nhìn bầu trời Sài Gòn ngày 30/4.
Một thời đại khác đã đến.
Việt Nam, tháng tư 2008.
Đến bây giờ, tôi vẫn không tin chuyến hành trình từ Quy Nhơn đến Sài Gòn
gần 700 kms – chúng tôi phải mất 1 tháng 2 ngày – phải vượt qua bao chiến
tuyến, phải vượt qua bao hiểm nguy mà vẫn nguyên vẹn.
Trong cuộc chiến đẫm máu này, có bao gia đình Việt Nam may mắn như chúng
tôi? Có bao gia đình Việt Nam phải mãi mãi nằm xuống? Có bao gia đình Việt Nam
phải mãi mãi phân ly?
Đất nước tôi! Đất nước tôi! Đất nước tôi!
Ba mươi ba năm đã trôi qua, chuyến hành trình ngày xưa của ba giờ đã kết
thúc, nhưng chuyến hành trình của tôi vẫn còn phía trước.
Ban Mai
304Đen
– llttm - OVV
No comments:
Post a Comment