Friday, March 15, 2019

Đổi Đời Hay Đời Đổi - Nguyễn Quang Lập


ĐỔI ĐỜI HAY ĐỜI ĐỔI ?

Tác giả, Nguyễn Quang Lập, bài này viết khá lâu có lẽ lúc đó ông ta đang tuổi trung niên. Sáng lập viên trang web ” Quê Choa ” bị tước đảng tịch, đuổi ra khỏi hội nhà văn Việt Nam vì ông ta đã có những bài viết trên Quê Choa như vỗ vào mặt bọn cô hồn các đảng Ba Đình.
 

 
 

Thực ra những bài viết như thế này đối với một người đã từng sống, đi học lớn lên trong bối cảnh xã hội VIỆT NAM CỘNG HOÀ trên 50 năm trở về trước sẽ chẳng lấy làm lạ lẫm hay ngạc nhiên gì về cách sống cũng như cung cách đối xử với nhau của người Sàigon. Anh ta ngạc nhiên cũng phải thôi vì sống trong xã hội cộng sản, con người ta đối xử với nhau theo bản năng cùng bản chất rừng rú của xã hội đó. Không phải là con người văn minh cư xử với nhau nữa mà giống như một sự sinh tồn để sống còn. Họ rình mò gầm gừ xét nét nhau, chỉ biết vơ vào cho mình. Thế nên cũng đừng trách móc hay than phiền là: bây giờ, mấy chục năm sau khi Bắc quân cai trị VNCH trẻ con thì lếu láo mất dạy quá sức. Viên chức chính quyền, công an hối lộ tham nhũng quá thể. Công An đàm áp bắt bớ đánh đập người ta ngoài đường phố công khai. Cuộc sống bừa bãi, vô tổ chức, ăn nói thô lỗ, cọc cằn. Câu trả lời rất ngắn gọn, đơn giản: xã hội công sản nó làm ra như vậy. Họ ( bọn cán bộ cộng sản ) sống theo bản năng sinh tồn của con những con vật hai chân, biết nói tiếng người.
Trong tổ chức của đảng cộng sản thì phàm đã là đảng viên thì phải là vi phạm điều lệ hay kỷ luật của đảng ghê gớm lắm hay tội phạm to lắm mới bị tước đảng tịch. Mà nếu muốn tước đảng tịch người ta thì phải có nguyên một chi bộ nhóm họp, thường là chi bộ đương sự đang sinh hoạt. Chúng mổ xẻ, kiểm điểm truy cứu trách nhiệm ( chính trị, quân sự hay hình sự…). Thường thì đã có chỉ thị sẵn ở đâu đó ở bên trên. Đôi khi đương sự bị thất sủng vì tư thù cá nhân với xếp lớn hơn cũng bị đem ra đấu tố khép tội. Cái đảng tịch đôi khi nó như vòng kim cô xiết vào đầu bọn lâu la. Quyền lợi đó mà hình phạt cũng đó. Bị cấy sinh tử phù nạn nhân khó lòng cục cựa.Thế nên đó là lý do tại sao ta thấy hầu như rất hiếm có sự chống đối hay phản kháng trong nội bộ các đảng viên hay chi bộ. Mới có thái độ ( bọn việt cộng nói là biểu hiện) hay ý kiến phản kháng, chúng ( chi bộ ) lôi ra đấu tố ( chúng gọi là đấu tranh ) đến độ mất ăn mất ngủ nhiều khi phát rồ.
Sau khi bị tước đảng tịch, chúng mới tra tay bắt lôi ra tòa kết án hay làm những trò ma trò quỷ gì thì chỉ có chúng, những kẻ chủ mưu mới biết được. Chính vì thế, phàm những ai tự ý quăng trả lại thẻ Đảng nghĩa là rút ra khỏi cái đảng cướp đó phải là quyết định ghê gớm lắm. Ảnh hưởng tới cả vận mệnh gia đình, con cái, dòng họ. Cho nên, ta thấy đa số có thể nói 95 % đảng việt rút chân ra khỏi bùn nhơ là các cụ đã về hưu hết thời bị đào thải.
Câu nói hay cách thức chúng đưa ra bảo vệ cái sổ hưu cũng nằm trong chiều hướng bảo vệ quyền lợi chính là bảo vệ cái đảng ăn hại đó muôn năm trường trị. Tiên vàn chúng tự sướng với nhau cho là đảng viên tuyệt đối đúng không hề sai lầm. Nên chi hễ có khuyết điểm, mà khuyết điểm trầm trọng như khai thác bán chác tài nguyên bừa bãi. Ký duyệt bừa bãi cẩu thả các công trình, chiếm đất của dân….nhiều vô thiên lủng. Thì chúng bao che tội lỗi cho nhau, thay đổi ngôi vị hay thậm chí còn thăng quan tiến chức nữa nếu tội phạm và lãnh đạo cùng phe đảng có lợi lộc cùng ăn chia với nhau. Chỉ có vài con nhạn là đà hay một hai con dê tế thần nào đó bị đem ra xử qua quýt hầu làm giảm áp lực quần chúng. Còn thì toàn giơ cao đánh sẽ. Bảo sao con người trong xã hội đó sống lương thiện cho được?
Giữa hai thế giới Nam – Bắc đã như hai thái cực, hai nền văn minh tân tiến và lạc hậu chênh lệch nhau khá xa. Chính bọn việt cộng, cán bộ trung cấp sống lâu năm ở Hà Nội còn nhận xét với nhau như thế này : Nếu được đi công tác phải chọn lựa giữa Praha ( Prague, thủ đô Tiệp Khắc ) và Saigon, chỉ được chọn một trong hai thì họ sẽ chọn Saigon vì hai nơi này có nền văn minh tiến bộ không thua kém nhau bao nhiêu, dân trí cũng cao như nhau mà Saigon được cái ở trong nước và không trở ngại ngôn ngữ.
Bài dưới đây là nhận xét của một chàng trai mới lớn đang học đại học ( chứ không phải học đại ) có cha mẹ bà con cũng có thế giá trong đảng cầm quyền nhưng anh ta sống thật, nghĩ và nói thật lòng mình.
Câu kết luận của tác giả tôi không ngạc nhiên lắm vì nữ thi sĩ Lý Thụy Ý trong vụ án Hồ Con Rùa mà họa sĩ Ớt tức Huỳnh bá Thành thuật lại trong cuốn truyện ” Những tên biệt kích cầm bút ” đã kể lại là khi bị tên công an chấp pháp thẩm vấn, bà đã hỏi ngược lại gã: ” Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh ?” Rất nhiều chuyện liên quan về cuộc đổi đời này lắm có thể viết thành những pho sách dày cộm kể lại những chuyện hoàn toàn có thật 100%. Nhưng bọn việt cộng chúng nó dấu hơn mèo dấu c… vì có khi nào chúng tự nhận mình thua kém ai đâu. ” Đỉnh cao CHÍ TỆ của loài người tiến bộ ” cơ mà. Nhưng đi cầu cạnh xin xỏ thì không bao giờ biết ngượng.


MƯA NGUỒN.

Sài Gòn đã thay đổi một người Hà Nội như thế nào?

Đã trải qua hàng chục năm kể từ ngày ấy, nhưng những kỷ niệm đó tôi không bao giờ quên. Sài Gòn đã thay đổi tôi, một người đến từ Hà Nội…..
….Mãi tới 30.4.1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là sinh nhật của tôi. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.
Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30.4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm cha tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Cha tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là “bút nguyên tử”. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Minh bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào.
Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ dành cho các du hành gia vũ trụ, người thường không bao giờ có.




Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa.
Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bĩu môi nói rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở cassette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn Ca số 7. Kết thúc Sơn Ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kỳ nghỉ hè năm sau, tháng 8.1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, tivi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi.Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời.
Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lý.

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nylon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nylon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nylon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum suê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê: cuốn Tư bản luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quan vui vẻ nói, dạ chú, sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.


Tác giả: Nguyễn Quang Lập

304Đen – Llttm - YD

No comments: