Mưa Muộn Chiều
Friday, February 28, 2025
Người Đã Xa Tôi - Nguyễn Cang & Hồi Tưởng - Diệp Văn
Thơ Nguyễn Cang và bài họa của Diệp Văn
NGƯỜI
ĐÃ XA TÔI / Nguyễn Cang
Bóng ai thấp thoáng lạnh sương đêm
Một mảnh
sao rơi rớt xuống thềm
Kỷ niệm
ngày xưa tìm chẳng thấy
Khung trời
bến cũ nhớ thương thêm
Bâng
khuâng tóc rối thơm hương bưởi
Bỡ ngỡ
thân gầy ướt mắt mềm
Mười mấy
năm rồi đời viễn xứ
Chợt nghe
gió lạnh buốt vai êm
Nguyễn
Cang ( Feb. 24, 2025)
Bài họa:
HỒI TƯỞNG
/ Diệp Văn
Nhớ thủa thu tàn trong bóng đêm
Dìu em trở gót tận bên thềm
Xưa bờ cát lạnh liềm trăng phủ
Nay suối tâm trào gợn sóng thêm
Ý lỡ tay khờ vương tóc rối
Hồn say mắt dại quyện* môi mềm
Trăng tròn tuổi ấy dường hoa nở
Chết lặng trong từng hơi thở êm!!!
Feb 24, 2025
Diệp Văn
Xuân Sang - Vườn Thơ Mới Xướng Họa
THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 165_VƯỜN THƠ MỚI
Xướng:
Xuân sang
Đông tàn hoa nở xuân sang,
Cội đào đỏ thắm mai vàng cành lan.
Hoàng oanh qui tổ hót ran,
Nắng hồng ấm áp đón đàn bướm bay.
Trời cao đôi én tung mây,
Hồi sinh cây cảnh đơm đầy mầm xanh.
Giọt sương trên lá long lanh,
Bên hồ dương liễu buông mành phất phơ.
Đường hoa thi sĩ làm thơ,
Sông xanh cỏ dại đôi bờ đơm bông.
Mỹ Ngọc
Feb. 13, 2025.
Họa1:
Du xuân
Tuyết tan nắng ấm mùa sang
Phố xuân rực rỡ cúc vàng mai lan
Quán cà phê nhạc râm ran
Trời cao lồng lộng rợp đàn én bay
Xa kia lờ lững trắng mây
Trước tầm tay cỏ biếc đầy thông xanh
Một vòng hết chậm lại lanh
Mười chùa hai tháp cổ mành lơ phơ
Thi nhân dào dạt hồn thơ
Bước du xuân mộng liền bờ diêu bông
Tâm Quã
Feb 15, 2025
Họa2:
Dỏm
Ngô nghê trưởng giả làm sang
Học đòi sắm sửa mâm vàng chơi lan
Lại thêm to tiếng rầm ran
Bô bô giai điệu cung đàn cao bay
Vượt xa lên chín từng mây
Ngỡ còn công lực tràn đầy xuân xanh
Nhìn đời đôi mắt khôn lanh
Nào hay bản chất là mành lơ phơ
Tài hèn sức mọn họa thơ
Cả gan lớn mật qua bờ ngắt bông
THT
Họa 3:
Xuân Mới
Mỗi độ đông tàn xuân mới sang
Đào hồng tươi thắm cúc vàng hoa lan
Đầu làng tiếng pháo nổ ran
Chim ruồi hút mật từng đàn én bay
Trời cao xanh biếc màu mây
Tuổi đời như đã đong đầy ngày xanh
Se sua áo vải sợi lanh
Lưa thưa giọt nắng xuyên mành phỡn phơ
Ngày xuân viết mấy vần thơ
Hương hoa thoang thoảng quanh bờ đầy bông
Hương Lệ Oanh VA
Feb, 15.2025
Vải lanh là chất liệu được sản xuất
từ các phần vỏ, phần xơ hoặc là sợi của cây lanh.
Họa 4:
Xuân xóm cây lanh
Trung du xuân ấm vừa sang
Trong vườn tỏa sáng hoa vàng tràn lan
Người Mông lễ hội pháo ran
Giọng ca hòa điệu tiếng đàn xa bay
Bầu trời không chút gợn mây
Hào quang rực rỡ tràn đầy màu xanh
Nắng chiều bao phủ cây lanh
Bên trong khung cửi dưới mành trắng phơ
Vừa làm vừa lại ngâm thơ
Hàng cây nổi trội hai bờ lắm bông
PTL
Cây lanh có tên khoa học là Linum usitatissimum,
thuộc chi Linum, họ Linaceae. Nó là cây công nghiệp ôn đới, thân thảo. Đây là
đặc sản của người Mông ở miền Trung du, họ trồng để lấy sợi ở thân cây.
Xuân sang
Xuân về chuyển tiết mùa sang,
Ngàn hoa đua thắm, đỏ vàng sắc lan.
Bình minh chim hót râm ran,
Bầu trời nắng nhẹ ngắm đàn chim bay.
Mặt hồ pha chút màu mây
Giữa ngàn hoa thắm cỏ đầy sắc xanh.
Sương mai đọng lá long lanh
Mây giăng đỉnh núi xây mành bạc phơ.
Thi nhân bàng bạc hồn thơ
Cưỡi thuyền lướt sóng sang bờ ngắm bông.
Minh Tâm
Họa 6:
Một thoáng hương xưa
Đông tàn hoa nở mùa sang
Dã quỳ trải thảm bông vàng tràn lan
Trong nhà bếp lửa nóng ran
Ngoài hiên chao liệng từng đàn én bay
Một con lẻ bạn chân mây
Bao la ruộng bắp lấp đầy đồng xanh
Trăng khuya đọng hạt sương lanh
Bóng người mỹ nữ sau mành phất phơ
Xa rồi kỷ niệm tuổi thơ
Đường xưa mất dấu bến bờ lông bông
Nguyễn Cang
Feb. 14, 2025
Nhắn Nó Vào Lớp Đê Tao Cho Điểm - Vũ Thế Thành
NHẮN NÓ VÀO LỚP ĐỂ TAO CHO ĐIỂM
Tôi dốt tiếng Pháp. Có lý do để đổ thừa cho sự tệ hại này.
Khi học lớp 10, sinh ngữ 2 của tôi là tiếng Đức. Lớp ít người, nên năm sau dẹp
lớp. Ai muốn tiếp tục phải chuyển sang Pétrus Ký học. Trường này xa nhà, nên
tôi chọn tiếng Pháp thay thế để khỏi đi xa. Dốt tiếng Pháp vì học lỡ cỡ là
nguyên nhân gần. Lười biếng là nguyên nhân xa.
Vũ Thế Thành
Vì là sinh ngữ 2, nên môn tiếng Pháp chỉ chiếm hệ số 1, thua
xa các môn khác có hệ số cao hơn nhiều, nhất là Toán –Lý- Hóa, chỉ cần làm một
câu trong đề thi là dư sức bù điểm môn tiếng Pháp, miễn là tiếng Pháp đừng bị
điểm liệt.
Sách giáo khoa tiếng Pháp là bộ Cours de Langue et de
Civilisation Francaises của G. Mauger. Trong 3 năm đệ II cấp, học sinh phải
“nuốt” xong quyển I, còn các bạn chọn tiếng Pháp là sinh ngữ 1 thì tôi không biết
phải học đến quyển mấy.
Trốn học năm thi? Có chứ,nhưng tùy môn. Giờ Sử Địa ,Triết và
Công Dân tất ít cúp vì nghe giảng, đỡ phải về nhà học bài. Môn Toán-Lý-Hóa hơi
“chăm chỉ “ cúp. Còn tích cực “chăm chỉ” lặn là giờ sinh ngữ, cả 1 lẫn 2.
Môn Toán-Lý-Hóa thì cúp cua cho ra vẻ vậy thôi, chứ tối về nhà nằm cày mệt
nghỉ với sách bài tập đủ loại. Dĩ nhiên thỉnh thoảng cũng phải vào lớp các
mmo6n “chăm chỉ” để có điểm trong năm học.
Năm lớp 12, tôi học với ông thầy Pháp văn, chỉ ngoài 30, mới
đổi từ trường tỉnh về Sài Gòn, hình như đâu đó ở miền Trung vì ông trọ trẹ giọng
Huế. Kiểm tra cho điểm bằng cách yêu cầu học sinh đứng lên đọc bài text trong
sách, và dịch sang tiếng Việt. Phát âm tiếng Pháp của tôi quá khủng, nói đâu
sai đó. Ban đầu ổng còn sửa, và bắt lập lại. Khi không còn kiên nhẫn được nữa,
ông nổi cáu, mày nói tiếng Pháp nhấn âm như bọn Ăng Lê, để tao coi điểm tiếng
Anh mày mà không cao thì chết với tao. Thế là ông le te đi nhanh từ cửa lớp đến
bàn viết. Ổng cao cỡ mét rưỡi, đi như chạy thì chân đi trước, đầu theo sau. Hai
vai đong đưa trước sau như quả lắc đồng hồ, chỉ có điều trọng lực nằm ngang.
Tra sổ điểm xong, ổng lừ mắt nhìn tôi, dịch tiếp đi. Từ đó ổng không sửa
phát âm tiếng Pháp cho tôi nữa. Vốn ngữ vựng tiếng Pháp của tôi rất yếu, nhưng
nhiều từ tiếng Pháp na ná tiếng Anh, nên tôi có thể đoán mò, khi dịch không câu
nệ bám chữ khiến văn dịch ngô nghê. Bởi thế, tôi dịch Pháp –Việt rất
phong lưu tiêu sái, thoát chữ và có khi… phóng luôn. Dịch chưa quá nửa
bài, tôi đã bị bắt tẩy. Ông thầy ngắt lời, mày nói chữ này nghĩa là gì. Tôi gãi
đầu…
Chia động từ bất quy tắc tiếng Pháp mới là cái điều tệ hại nhất
của tôi, chỉ sau thuộc lòng danh từ, tính từ giống đực, giống cái. Lần sau, ông
thầy gọi tôi lên bảng chia động từ. Tôi chia tới đâu, trật tới đó. Bực
quá, ổng bước tới bảng đen, nhảy lên cú đầu tôi. Tôi đứng trên bục, ổng dưới bục.
Tôi cao 1,73, còn ổng trên dưới 1,5. Ổng cú vào khoảng không – “Mày cúi đầu xuống”.
Tôi tuân lệnh, ổng nhảy lên nhưng vẫn không tới – “Cúi thấp nữa tao mới cú được”.
Tôi tự hỏi, sao ổng không leo lên bục, hay nói tôi xuống bục để ổng dễ hành động,
mà lại chọn kiểu thao tác tiện nghi cho ổng như thế. Sau này tôi nghe nói, ổng
là dân hướng đạo thuộc hàng soái ca chứ không phải vừa, có thể tháo vác mưu
sinh thoát hiểm trong nhiều tình huống. Ổng thao tác như thế để tạo
không khí hài hước trong lớp học.
Quả thiệt tôi cũng ái ngại cho kiểu thao tác “hình phạt”, khá
vất vả cho ổng, nên sẵn trớn tôi “lặn” luôn giờ Pháp Văn.
Vài tuần thấy vắng tôi vắng mặt, ổng nói với lớp, đứa nào gặp
thằng Thành, nhắn nó vào lớp để tao cho điểm. Không có điểm cuối năm là không đủ
điều kiện dự thi Tú tài.
Tôi vác mặt vào lớp. Cũng bị gọi lên bục chia động từ. Lần
này ổng nhỏ nhẹ hơn. Tôi coi sổ điểm hết các môn học của em rồi, dư sức đậu. Về
Pháp Văn, phần analyse và dịch Pháp Việt chắc đủ để em gỡ điểm. Đề thi hay ra động
từ bất quy tắc. Nhớ được bao nhiêu thêm điểm bấy nhiêu. Đậu cao có nhiều cơ hội
hơn.
Nhắc lại chút kỷ niệm thời đi học để thấy, mối quan hệ thầy
trò ở thế hệ tôi có lẽ gần gũi hơn so hơn với thế hệ trước, nhất là khi chiến
tranh ở mức cao điểm, khi cả thầy và trò (dĩ nhiên là phái nam) đều đối diện với
lệnh tổng động viên. Thầy, vào lính, nếu may mắn thì được biệt phái về đi dạy
tiếp. Trò, nếu may mắn đủ tuổi thì tiếp tục học, nhưng rớt Tú tài thì đi lính.
Lên đại học cũng vậy, rớt năm nào thì ngay sau đó có giấy mời nhập ngũ. Đi lính
thì coi như “…anh sẽ ra đi, chẳng mong ngày về”.
Ở những lớp đi thi, thầy dễ dãi hơn với trò (nam). Có những bạn
học hành đàng hoàng, vào lớp ngồi bàn trên, sách vở sạch sẽ, chăm chỉ học bài để
có điểm hàng tháng cao. Cũng có những thằng hoang đàng (như tôi), thích thì vào
lớp, không thích thì chuồn. Các thầy biết thừa, năm thi là năm sanh tử, tụi nó
phải tự lo, phải đi học luyện thi thêm, hay về nhà “cày” bài chết bỏ. Thi đậu
là mục tiêu chứ không phải chăm chỉ hay điểm cao trong lớp. Bởi thế, các thầy
thường thông cảm, thân thiện gần gũi với trò hơn là nghiêm khắc kỷ luật, giáo
huấn. Ông thầy Pháp văn của tôi nằm trong tình huống những người thầy “thông cảm”
này.
Sự thông cảm có khi kín đáo, bao quát hơn, như giáo sư Nguyễn
Văn Lục (dạy Triết) kể lại trong hồi ức đi chấm thi Tú tài của ông: “… Điểm của
tôi là điểm của thời chiến, điểm của thời kỳ bom đạn. Thay vì những viên đạn,
tôi cho điểm rộng, với hy vọng có một người khỏi chết vì bom đạn…”.
Những chuyện buồn vui thời đi học mà tôi vừa kể chỉ là những
gì tôi chứng kiến, chứ không có tính phổ biến ở thời đó. Tùy nơi, tùy trường,
tùy lớp. Có điều lớp không đi thi, chắc chắn bị siết kỷ luật nháng lửa, nhất là
ở các trường công lập. Các bạn đồng môn sau tôi vài lớp ắt phải nếm mùi “nháng
lửa” với thầy N.hiệu trưởng) và nhất là thầy Tổng (giám thị) bốt-đờ- sô”
Dù quan hệ thầy trò thân thiện, gần gũi, nhưng bọn tôi chưa
bao giờ vượt quá giới hạn, tỏ vẻ bất kính với thầy cô. Sau này, tôi nghe nói học
sinh báo cáo thầy, phê bình, kiểm điểm thầy trong các buổi họp Đoàn gì đó, hay
phụ huynh vào trường mắng chửi thầy cô. Tôi chỉ biết lắc đầu. Có lẽ thế hệ tôi
lạc hậu, không theo kịp thời thế, mà cũng chẳng muốn bắt kịp.
Năm đó thi Tú tài, điểm Pháp văn tôi được 10/20, vượt xa chỉ
tiêu không bị điểm liệt. Không biết thành tích này có phần đóng góp của “chia động
từ” không. Sau này đi làm, tôi phải tự học hết Cours de Langue quyển I, đủ
để đọc tài liệu, vì đa phần sách khảo cứu khoa học hồi đó là tiếng Pháp, chỉ một
số ít là tiếng Anh. Có điều trình độ phát âm và chia động từ tiếng Pháp của tôi
vẫn “khủng” như xưa.
Cách đây chừng 5 năm, các bạn đồng môn học sau tôi vài lớp, mời
tôi đến tham dự họp mặt, có cả các thầy cô cũ. Chẳng còn là bao, có thầy cô nhận
ra tôi, có người không. Chợt nhớ ông thầy Pháp văn “Nhắn nó vào lớp”, tôi hỏi
thăm. Một bạn trả lời, Thầy Q. mất rồi!.
Vũ Thế Thành
Màu Tím Đợi Chờ & Vấn Vương - Nguyễn Thị Châu
MÀU TÍM ĐỢI CHỜ
Tôi nâng niu từng cánh Lan màu tím
Như đợi chờ con bướm lạ bay sang
Nhìn cánh hoa tim tím chen nhuỵ vàng
Hương thơm ngát đang bay cùng cơn gió
Nắng màu hồng xoa dịu đời cô lẻ
Sợi nắng vàng ôm ấp nỗi cô đơn
Ta xa nhau không một chút dỗi hờn
Tình chỉ đẹp khi tình còn dang dở
Áo ai bay trong một chiều lộng gió?
Đôi tay nầy âu yếm nắm tay ai?
Đã cùng nhau trò chuyện suốt đêm dài
Ngày hôm đó trong tim tôi còn mãi
Dù ta không bước trên đường xưa cũ
Màu hoa còn đó, ngọt ngào vấn vương
Chợt nhìn hoa tím, nhớ người tôi thương
Nhớ người đi mãi quên câu hẹn hò…!!!
26-2-2025
Nguyễn thị Châu
VẤN VƯƠNG
Tôi nghe gió nhẹ vào lòng
Để thương để nhớ cánh Hồng ngày xưa
Hương thơm bay khắp nơi xa
Cho tôi nhớ lại tình ta hôm nào..
Tay nâng từng cánh ngọt ngào
Trao nhau hơi ấm đi vào đường yêu
Biết rằng chẳng được bao nhiêu
Sao tôi lại thấy liêu xiêu thế nầy
Đường xưa in dấu chia tay
Anh đi vì bởi đêm ngày pháo rơi
Anh vào cuộc chiến muôn nơi
Hoa Hồng năm cũ đã phai mất rồi
Chờ anh hoa héo tàn thôi
Đêm đêm nhìn thấy Châu rơi trên trời
Bao nhiêu điểm sáng trôi trôi
Là bao giọt lệ bi ai tràn về
Anh đi mấy dậm sơn khê
Dừng chân đất mẹ tìm về quê hương
Anh về gieo nỗi vấn vương
Con thuyền chuyển bến, tìm đường ra đi
26-2-2025
Nguyễn thị Châu
Tạp Chi Văn Từ Lòng Đất - Ba n Mai
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, tháng
4/1975 như vết nước mắt loang dài của miền Trung ngắn dần đi khi dân chúng di tản
vào Nam kiệt sức đến không còn nước mắt khóc cho những xác người ven đường.
Khóc cho nhà cửa vườn tược bỏ lại bị thiêu cháy, cho ruộng nương hoang tàn, cho
trâu bò lạc lõng bơ vơ như thân phận của chính mình giữa dòng người chạy loạn.
Gia đình tôi như số đông dân Quy Nhơn
chạy vào đến Tuy Hòa, rồi ráng qua được đèo Cả vào đến Nha Trang, lê lết thêm một
quãng nữa đến Cam Ranh là hết sức. Chân phồng lên vì dộp. Mi mắt phồng lên vì mất
ngủ, chúng tôi như những bóng ma của chiến tranh mang trong óc trí não phồng
lên vì lo lắng. Chiến tranh có quy luật của loạn lạc. Chiến tranh Việt Nam có
quy luật riêng: Dân không chạy ngược lên phía Bắc mà luôn chạy vào Nam. Xuôi
Nam, là tìm đường sống, là tìm tự do, dù trên danh nghĩa được giải phóng.
Gia đình tôi cũng vậy. Chạy tất tả bờ
bụi, ngay sau khi vỡ mặt trận. Mỗi ngày các chuyến xe đò và quân xa dồn dập đổ
dồn về bến xe chính thị xã thải những con người lầm than, màn trời chiếu đất.
Dân đất Quảng liều chết vượt đèo Hải Vân vô cho được Quy Nhơn. Hải Vân như rặng
núi thiên nhiên chống đỡ, biết có ngăn được nguy biến cho chúng tôi? Ba tôi ở
Phòng Thông tin về thất thần, tin Đà Nẵng mất như quả bom nổ giữa nhà. Thế là hết,
Đà Nẵng, thành phố lớn nhất miền Trung sụp đổ, là vỡ mặt trận. Tuổi mười hai
tôi hiểu: Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Đức Phổ liên tiếp vỡ mặt trận. Đức Phổ là đã sát
Tam Quan, Hoài Nhơn, Bồng Sơn. Là đã vào đến Bình Định. Dân Quy Nhơn chỉ còn biết
chạy. Gồng gánh, bồng bế nhau chạy theo đoàn người lam lũ mà mới hôm qua chúng
tôi hãy còn sót thương, gói ghém thức ăn giúp đỡ khi họ lây lất nằm ngồi trên vỉa
hè thị xã. Giờ chúng tôi thành họ, bỏ nhà cửa nhập vào cái đuôi rồng rắn dài
ngoằn thậm thược bò trườn về phía Nam.
Phía Nam… thật xa như biển Thái Bình
vỗ sóng. Phía Nam… ở cuối chân trời còn trong xanh như giấc mơ tuổi thơ. Phía
Nam mang hình ảnh nhu mì thanh bình của những đồng ruộng miền Tây, của lộng lẫy
Sàigòn làm tuổi thơ tôi nô nức. Vâng, tôi hãy còn nhỏ, còn là cô bé đệ thất
hóng chuyện người lớn, lo âu theo nỗi lo cha mẹ, sợ hãi theo nỗi sợ hãi của các
anh chị, học lóm các danh từ quân sự từ miệng chú bác. Tuổi thơ chiến tranh
trong Nam không hực lửa dữ dội như tuổi thơ miền Bắc mà êm đềm dịu lành như miền
Nam, tuy chiến tranh xảy ra ở đây, nhưng những người lính Cộng hòa bảo vệ chúng
tôi được yên bình. Đến tháng 4/1975, tôi sống trong sự an lành bấp bênh này.
Qua khỏi Nha Trang, gia đình tôi vào
tạm trú trong cư xá Cam Ranh. Dừng lại vì đuối sức. Để thở. Để hô hấp. Để kịp
nhìn quanh xác định vị trí thân phận gia đình mình giữa dòng loạn lạc, là điều
cha mẹ đánh liều, vì các con hết sức, vì không biết làm gì khác. Cả nhà đã đuối.
Tôi kiệt sức. Tôi muốn lả. Tôi uống ca nước mưa trong cư xá tìm vị nước mưa của
quê hương mát lịm ngọt ngào.
Buổi chiều hôm ấy thật căng thẳng.
Tôi còn nhớ tin quân giải phóng bị chận ở đèo M’Drak không cho xuống Khánh
Dương tràn xuống miền duyên hải làm cả khu cư xá hân hoan, lên tinh thần. Rồi vụt
đến tin lính mình tan hàng. Tôi chưa biết tan hàng là gì, nhưng nhìn gương mặt
người lớn âu lo chùng xuống, tôi biết tin không lành. Ba mẹ tôi bằng mọi cách
muốn con mình phải sống.
Sống, nên mấy chị em tôi đóng cửa ở
trong nhà như ba mẹ dặn. Cả hai đi đâu chúng tôi không được quyền biết, chuyện
người lớn, chiến tranh là của người lớn, nhưng chính chúng tôi đang cùng sống
chiến tranh với họ. Thỉnh thoảng tôi len lén nhìn qua khe cửa. Cư xá vẫn náo động,
nhưng tôi muốn nhìn ra bên ngoài, qua vách tường thấp trông ra mặt hè phố. Chị
tôi la, mở cửa sổ cho chị, chị ngộp thở quá. Nhà gì mà kín mít. Được phép, tôi
mở toang cửa sổ. Cảnh tượng ập đến như phim chiến tranh. Tôi gọi chị ra xem. Tôi
la: Chị ơi, lính của mình vứt binh phục đầy đường rồi, họ quăng giày bốt trên vỉa
hè… Chị lao tới, chị cũng sửng sờ, những người lính oai hùng hôm qua, những người
lính điển trai sạm nắng, đàn ông tính và hiên ngang làm những thiếu nữ như chị
mơ ước…
Tôi giật thót, khi nghe tiếng gõ cửa.
Ba tôi trong khung cửa, ba trở về với một người lính trẻ thất thần, hối hả tháo
binh phục, gần như muốn lột da anh để không ai biết da anh từng rằn ri lúc trước.
Anh tháo hối hả áo trận, áo thun xanh lục bên trong, vứt thẻ bài tiếp tục lấp
lánh trong góc tối rồi anh vội vã xin chúng tôi bộ quần áo. Anh còn trẻ lắm, chắc
vừa xong tú tài. Tôi ngắm anh xương xương, tóc ngắn, da ngăm nhưng còn tươi nét
thị thành, anh không phải là nông dân, mà phải xuất thân thành phố. Tôi luýnh
quýnh lấy đồ dân sự đưa cho anh.
Người lính vứt xuống ba lô đầy bụi đất.
Bộ sách English for today của Lê Bá Kông rơi ra đất. Trọn bộ 6 quyển và thêm 5
cuốn tập san Văn. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy tập san Văn. Thật ra tôi vẫn trông
thấy chúng trong hiệu sách chú Thiện gần nhà, nhưng tôi hãy còn quá nhỏ để vươn
tới văn chương của người lớn, tôi hài lòng với nguyệt san Ngàn Thông của Duyên
Anh, nguyệt san Thiếu Nhi của Nhật Tiến, nguyệt san Thằng Bờm và mục Mai Bê Bi
trên báo Chính Luận. Tháng 4/1975 làm tôi vụt lớn, giống như trông thấy xác chết
làm đứa trẻ lớn lên vì hiểu cuộc đời là khổ đau và chết chóc. Tôi cảm giác cô
bé Quy Nhơn hôm qua, đã là thiếu nữ lúc này, ánh mắt tôi nhìn đăm đăm tạp chí
Văn và người lính nhìn thấy. Anh nhìn ra ánh mắt tôi trên tập san Văn, như để
trả ơn tôi đem quần áo của ba cho anh, anh buồn buồn nói: mấy quyển tạp chí này
anh cho em. Hết rồi, không còn gì nữa, anh không cần nữa. Anh không cần chúng nữa.
Em hãy giữ lấy.
Tần ngần một lúc, anh đưa cho tôi.
Tôi nhìn được vẻ ngậm ngùi trên gương mặt anh, hãy còn bơ phờ và cháy nắng. Bụi
đất, thuốc súng, vết đạn bạn anh trúng thương như hãy còn nguyên trên trán anh.
Trán của một người lính mang 5 quyển tạp chí Văn trong ba lô mà tôi không hiểu
quan trọng đến mức nào khiến anh không vứt suốt đoạn đường lui binh, khiến anh
chấp nhận mang ít đạn dược, lương khô để dành chỗ cho bộ English for today của
Lê Bá Kông và 5 tập nguyệt san Văn.
Tôi hỏi: Đi lính mà mang theo
sách văn chương chi vậy anh?
Anh nói: Đọc cho đỡ buồn để
nhấc mình ra khỏi chiến tranh.
Rồi anh kể, anh mơ ước sẽ đi học tiếp.
Anh học năm thứ nhất Văn khoa Sàigòn trước khi bị động viên. Anh muốn trở về
trường cũ, hy vọng phía chiến thắng xem phía thua trận là anh em, cho phép anh
sống bình thường, ước mơ bình thường, tốt nghiệp Văn khoa đi dạy một trường
trung học tỉnh lỵ nào đó, đạm bạc mà yên ổn với cuộc đời. Anh không thích chiến
tranh, anh không muốn đánh nhau hoài, thua trận nhưng cũng là dịp tốt chấm dứt
nội chiến. Anh đưa tay vuốt tóc tôi, bàn tay có những đốt chai của người lính
mà tôi cảm được khi lướt qua trán mình, lớp da tay sần có thể vì khuân đạn, vì
phải đào công sự, chạm vào da làm tôi hơi giật mình. Da của một người đàn ông lạ,
tôi nghĩ. Da của một bàn tay ham đọc sách văn chương, tôi cũng nghĩ. Chúng tôi
tiễn anh ra cửa, bóng anh vụng về trong đồ dân sự cố đi bình thản nhưng bước
chân như chạy trốn người lính là chính anh vừa ban nãy, còn đồ trận, giờ anh đã
bỏ lại và muốn thoát bóng cũ.
Ngày ấy, tôi còn rất nhỏ. Tháng
4/1975 tôi chưa là thiếu nữ, tôi chỉ cảm thấy vô cùng thương tâm, lòng như lửa
đốt vì lo lắng khi nghĩ đến người thân. Các anh con bác tôi cũng đi lính, những
ngày này, các anh tôi lầm than đang trôi dạt nơi nào.
Rồi thời gian qua như bão sa mạc. Gió
tốc tan hoang chỉ còn lại đất, tất cả biến mất khi chúng tôi trở về. Trong cơn
bão, tủ sách của gia đình tôi bị đốt sạch, ba nói người ta sẽ vào nhà lục soát
và kết án tàn dư chế độ cũ, ai giữ sách là phạm pháp. Ba sợ. Mẹ sợ. Cô chú,
thím, bác, dì, dượng sợ. Không ai dám giữ, dám giấu hay cất hộ. Tôi và các chị
lén ba, giấu những tập sách mà mình yêu thích nhất trong một hòm gỗ dưới chân cầu
thang tầng 2, những quyển sách mà người lính đã tặng tôi cũng để lại không nỡ đốt
đi. Ánh mắt anh như còn trên bìa sách. Ánh mắt lấp lánh hy vọng anh có thể theo
học Văn khoa tiếp tục phảng phất trên trang giấy ố vàng. Thời gian làm những Tạp
chí Văn ấy đã trở thành “di sản” của văn chương Miền Nam. Chính tôi cũng không
ngờ tới, và có lẽ anh cũng không ngờ đến. Tôi đã giữ, đã đọc, đã “nhấc mình
lên” khỏi cuộc chiến như anh dặn. Bằng văn chương.
Cách đây mấy năm, khi đọc trên online
Tạp chí Văn ở Hoa Kỳ của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, thấy trên danh mục thiếu những
tập năm 1969, tôi nhớ ngày xưa người lính đã cho tôi mấy cuốn nên lôi ra, sách
đã ố màu và mối ăn lỗ chỗ. Tôi khẽ khàng lật từng trang sách vì giấy đã mục
nát. Tôi cảm giác kỳ lạ là chính anh cũng đang cùng tôi lật khẽ khàng từng
trang sách cũ. Lật từng chữ cũ, với sự hoài niệm của một thời đã mất.
Tôi lật từng trang.
Văn số 140, ra ngày 15 tháng 10 năm
1969, gồm 128 trang. Số đặc biệt về Yasunari Kawabata là một nhà văn nổi tiếng
của Nhật Bản được giải Nobel văn chương năm 1968. Hình bìa là bức ảnh nhà văn mặc
áo kimono đen với gương mặc thiền tông, do Văn Thanh trình bày. Bài nhận định
Yasunari Kawabata cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Thư Thanh viết từ Tokyo, tháng 7
năm 1969. Yasunari Kawabata dưới nhãn quang Tây phương của Chu sỹ Hạnh viết từ
Melbourne, tháng 3 năm 69. Tiếp theo giới thiệu 5 tiểu thuyết tiêu biểu của Kawabata:
Cô đào miền Izu, Tiếng núi rền, Ngàn cánh hạc do Vũ Thư Thanh dịch từ nguyên
tác, riêng truyện Thủy Nguyệt do Chu Sỹ Hạnh dịch từ bản tiếng Anh, Nốt ruồi do
Mai-Dzam dịch. Văn khi ấy, như thế đã cập nhật văn học thế giới rất nhanh vào
miền Nam. Miền Nam, cảnh cửa văn chương mở ra thế giới của toàn Việt Nam. Tháng
4/1975 đã đóng lại phũ phàng.
Bên cạnh đó, Văn số 140 năm 1969 đăng
tiếp truyện dài nhiều kỳ Khu rừng hực lửa của Nguyễn Xuân Hoàng. Mục Tin văn…
do Thư Trung và các bạn đảm trách: đưa tin Mường Mán cây bút trẻ của Văn vừa ra
chiến trường; Lê Bá Lãng thì được biệt phái trở về nghề gõ đầu trẻ; giới thiệu
tập sách mới nhất của Nguyễn Mạnh Côn “Hòa bình…nghĩ gì?làm gì?”, tựa mà về sau
Phan Nhật Nam lấy lại trong một chương của bi ký Tù binh và Hòa bình; rồi Hội
Bút Việt cử phái đoàn tham dự hội nghị Văn Bút Quốc tế, ở Pháp. Tin ngoài nước:
giới thiệu giải thưởng văn hóa ở Đại Hàn, Genève vừa tổ chức cuộc gặp gỡ quốc tế
lần thứ XXII giữa các nhà văn hóa, để thảo luận về đề tài “Tự do và trật tự xã
hội”.
Tiếp theo mục Thư tòa soạn loan báo
trước chủ đề của những số báo sắp tới, cuối cùng Hộp thư bạn đọc Tòa soạn Văn
giới thiệu những tác phẩm mới do các tác giả và nhà xuất bản gửi tặng.
Bờ sông lá mục của Phan Lạc Tiếp, là một tập
bút ký chiến tranh, trình bày cuộc chiến Nam Bắc hiện tại qua cái nhìn của một
người đi biển.
Nhật ký quân trường của Trần Châu Hồ, viết trong những
ngày ở lại quân trường không đi nghỉ phép của nhà giáo Trần Châu Hồ khi thực tập
quân sự tại TTHL Quang Trung.
Vực xoáy của Bàng Bá Lân, tập truyện dị thường
gồm 10 đoản thiên, dịch từ nhiều tác giả Âu Mỹ nổi danh.
Những giọt đắng của Võ Hồng gồm 7 đoàn thiên,
Bìa của Đinh Cường.
Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria Remarque, Phạm
Trọng Khôi dịch từ bản tiếng Pháp Rien de nouveau à l’Ouest, viết về tâm trạng
phản chiến của binh sĩ Đức trong Thế chiến Thứ Nhất, đã được chuyển thành phim
và dịch sang nhiều thứ tiếng. Bìa do Đinh Cường vẽ.
Văn chương tranh đấu miền Nam của Nguyễn Văn Sâm, khảo sát 24 tác
giả quan trọng của văn chương nam bộ thời kỳ 1945-1950, là một công trình
nghiêm túc và đáng tán thưởng.
Thơ Lữ Quỳnh, thi phẩm đầu tay gồm khoảng 30 bài.
In Thạch bản, trình bày trang nhã, phổ biến hạn chế trong vòng thân hữu.
Viết cho những người còn lại của Lê Trúc Khanh, Hà Huy Khanh
và Lệ Thy. Thi phẩm đầu tay của ba tác giả tại Cần Thơ.
Quyển Tạp chí Văn hơn 30 năm trời đã
lưu giữ tâm hồn bao con người, như một thước phim quay chậm, từng con chữ, từng
con chữ hiện lên những cuộc đời. Số phận những nhà văn Miền Nam này đã ra sao
sau biến cố tháng 4/1975, họ còn sống hay đã chết…, với tôi tạp chí Văn như một
nấm mồ bí ẩn.
Nhưng chính những trang sách ẩn chứa
bao điều bí ẩn đã giúp tôi thoát khỏi nỗi buồn trong những năm dài cay nghiệt của
cuộc đời. Văn chương tự do giúp tôi “nhấc mình” lên khỏi thực tế u buồn của xã
hội thực tại. Tôi nhấc tôi lên bằng văn chương quá vãng của miền Nam, nhấc tôi
lên khỏi cuộc đời thăng trầm trăm nỗi lo toan. Mà vây quanh là khẩu hiệu. Khẩu
hiểu trên tranh cổ động không giúp nhấc mình mà nhấn mình xuống vì phải làm
theo chỉ thị, theo khẩu hiệu, mà mình không muốn, vẫn phải làm. Làm tối mặt. Tối
mắt. Để về nhà buồn bã là đã không sống thật với mình. Tạp chí Văn khi ấy tôi
lưu giữ trong nhà rất lạ, không giống những tập san văn nghệ bày bán trên sạp
báo bên ngoài, cũng không giống báo văn nghệ hội nhà văn, là một cái gì khác.
Văn chương tự do cho mình cuộc đời
khác, sống cùng nhân vật, đem mình bay đến những miền đất lạ và tuy trong khoảnh
khắc, nhưng cuộc đời bỗng hạnh phúc biết bao.
Bây giờ tôi đã hiểu vì sao ngày trước,
người lính miền Nam ra chiến trường vẫn mang theo trong hành trang Tạp chí Văn
cất trong ba lô của mình, như lời anh nói, giúp anh “nhấc mình ra khỏi chiến
tranh”. Ra khỏi sắt thép, lửa và tham vọng. Trong văn miền Nam không có thép,
nên anh tìm bình an trong Tạp chí Văn Sàigòn ngày ấy.
Tôi cũng vậy, tôi cũng muốn tìm bình
an trong văn chương.
Quy Nhơn, 20/01/2011
Ban Mai
Sunday, February 23, 2025
Giữ Trong Tim Được Không? - Huyền Chiêu
GIỮ TRONG TIM ĐƯỢC KHÔNG?
Nhạc sĩ Trúc Phương sống cùng
thời với tôi. Thuở ấy có lẽ ông là anh lính “ở miền xa”, còn tôi là cô nữ sinh
áo trắng hậu phương. Chúng tôi đã có một thời được sống trong quê hương rất đỗi
thanh bình:
Huyền Chiêu
“Hàng dừa
cao nghiêng nghiêng soi bóng sông
Mộng ngày mai say sưa những ước mong”
Nhạc Trúc
Phương đã từng rất hiền:
“Quê em nắng
vàng nhạt cô thôn
Dải mây trắng dật dờ về cuối trời” *
Rồi chiến tranh bỗng dưng rơi xuống đúng vào tuổi thanh xuân
tươi đẹp của chúng tôi. Và nhạc Trúc Phương không còn mang giọng điệu thanh
bình. Nhạc Trúc Phương bất thình lình trở nên ai oán như những tiếng nỉ non,
than khóc trong những “đêm lạc loài, giấc ngủ mồ côi”* của những
người lính bị quăng vào cuộc chiến phi lý và dai dẳng.
Thuở ấy nhạc Trúc Phương gần gũi với quần chúng miền Nam hơn
Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Ông nói được tiếng lòng người lính trẻ.
Người lính trẻ miền Nam là ai?
90% họ là những nông dân chân lấm tay bùn. Những chàng
trai mười tám, hai mươi ấy đáng lẽ phải được sống yên lành với ruộng đồng quê
hương, bên “mẹ quê nâu sồng và người em mơ mộng” * nhưng họ buộc phải
trở thành người lính, họ lóng cóng cầm súng thay cho cây cuốc, cán cày.
Họ còn là những anh học trò ốm yếu , chưa hề bước chân vào đời,
vừa cởi chiếc áo sơ-mi trắng đã phải khoác lên mình bộ quần áo nặng nề mang màu
rừng núi cùng ba-lô và súng đạn xa lạ. Nhạc Trúc Phương là tâm sự của người
thanh niên miễn cưỡng sống đời quân ngũ “đi lính xa đánh giặc từng giờ.” *
“Đánh giặc từng giờ” là mỗi giờ anh đều có thể là kẻ cầm súng giết người hoặc
có thể bị người giết chết trong khi anh vẫn thèm sống, thèm yêu. Anh ngồi tính
toán chi li cho một ngày phép hiếm hoi thật tha thiết:
“Bốn giờ đi dài thêm bốn giờ về, thời gian còn lại anh cho em
tất cả em ơi” *
Người lính miền Nam đi lính nhưng không nghe anh nói tới kẻ
thù, chỉ thấy anh xót xa cho người con gái đang chờ anh bên sân ga:
“Tàu cũ
năm xưa mang người tình biên khu về chưa
Trắng đêm tôi chờ nghe
Tiếng tàu đêm tìm về”*
Tôi tìm đến nhạc Trúc Phương thật muộn màng. Thời còn trẻ, nhạc
Trúc Phương vẫn vang lên hàng ngày bên tai tôi đấy thôi. Tôi biết nhạc của ông
có ma lực lôi cuốn, nhấn chìm người nghe vào một nỗi buồn đau có thực. Nhưng
không hiểu sao thuở ấy tôi quá vô tâm với ông. Có lẽ tôi không chịu được những
sự thật quá đơn giản:
“Người
yêu ta rồi cũng xa ta nên chung thân ta giận cuộc đời” *
Tôi thích
hơn những câu hát có ý tưởng lạ :
“Đôi khi
thấy trên lá khô một dòng suối” (TCS)
Hoặc mang
phong cách thanh lịch như thời tiền chiến:
“mặt nhìn
mặt cầm tay bâng khuâng không nói một câu” (Tô Vũ)
Tôi rất sợ
những tối hậu thư kiểu lính:
“Đến với
tôi, hãy đến với tôi
Đừng yêu lính bằng lời” *
Và tôi đã quên Trúc Phương cho đến một ngày. Một ngày quê
hương không còn tiếng súng. Một ngày tôi và mọi người tự hỏi bây giờ mình sống
bằng cách gì đây. Một ngày mà cái đói đã làm chúng tôi quên cả thưởng thức mùi
vị của thanh bình. Một ngày tôi ngồi trên chuyến tàu chợ đông nghẹt người, làm
“con buôn”.
Chuyến tàu hôm đó không “đưa tiễn người trai lính về ngàn”
* mà đưa người dân ngược xuôi tìm đường mưu sinh và trên toa xe có cả vài hành
khách là bộ đội. Cái không khí ồn ào của một chuyến tàu chợ bỗng trầm hẳn xuống
khi một người ăn mày mù cất tiếng hát bi thương trong tiếng đàn guitar phím
lõm:
“Tôi ở miền
xa
Trời quen đất lạ
Nhiều đông lắm hạ
Nối tiếp đi qua
Thiếu bóng đàn bà”*
……………………………
Ngoài kia súng nổ
Đốt lửa đêm đen
Tầm đạn thay tiếng em”*
Có lẽ vì phải sống trong bóng tối, chẳng biết gì về thế sự,
người ăn mày mới dám hát “nhạc vàng”. Chuyến tàu chợ cứ lắc lư và người ăn mày
được… mấy anh bộ đội nài nỉ xin nghe lại bài hát. Lúc này tôi mới thấy hết cái
diệu kỳ của nhạc Trúc Phương khi nó làm lay động tất cả mọi người không phân biệt
chiến tuyến và tôi nghe như có một giọt nước mắt xúc động lặng lẽ rơi xuống từ
trái tim tôi.
Tôi lân la hỏi
người ăn mày:
“Giải phóng rồi sao bác không hát nhạc cách mạng?”
Bác nói thật thà:
“Hát nhạc ấy người ta không cho tiền..”
Từ đó tôi tìm lại nhạc Trúc Phương.
Nghe nhạc Trúc Phương tôi thấy lòng quặn đau, thương anh lính
hiền lành nhũn nhặn và có lẽ giới hành khất thích nhạc Trúc Phương vì trong nhạc
của ông “xin” và “cho” được nhắc đến rất nhiều:
Ai cho
tôi tình yêu/ để làm duyên nụ cười” *
“Xin đừng e ấp
Làm tim nghẹn lời” *
Khi biên giới của sự sống và cái chết quá mong manh, thì tình
yêu, dù là một tình yêu không có đoạn kết vẫn là thứ người ta khao khát nhất.
Thật khác xa với người lính ở bên kia chiến tuyến:
“Anh đang
hành quân
Ra nơi tiền tuyến
Mang theo tình yêu giai cấp trong tim”
Họ được dạy “nhắm thẳng quân thù mà bắn”. Quân thù được xác định
rõ ràng là “giặc Mỹ cọp beo”, là người Việt bên kia vĩ tuyến 17. Còn người lính
của Trúc Phương:
“Tàu xa dần
rồi,
Thôi tiếc thương chi
Khi biết người ra đi vì đời” *
“Vì đời” là một cuộc sống tươi đẹp hơn khi hết chiến chinh hay “vì đời” có
nghĩa là lỡ sinh ra trong cuộc chiến này, đời bắt thế thì phải thế chứ chẳng biết
kêu ai, oán hận ai?
Số phận bi đát, tâm trạng cô đơn, hoang mang cùng cực của anh
lính học trò, được ghi lại trong hầu hết ca khúc của Trúc Phương.
“Đơn vị
thường xuyên
Nằm trên đất giặc
Thèm trong hãi hùng
Tiếng hát môi em
Tiếng hát ngọt mềm” *
Nhờ nhạc Trúc Phương hậu thế sẽ hiểu rằng trong cuộc nội chiến
thảm khốc người lính miền Nam còn được tự do khóc than, trong khi người lính miền
Bắc bị ném ra chiến trường với trái tim ngục tù câm nín.
Tôi rất ân hận khi đã từng nghĩ rằng lời nhạc Trúc Phương quá
đơn giản. Bây giờ tôi mới ngấm được những câu chữ xé lòng của ông.
“Đi thêm
một bước trót nhỡ thêm một bước” *
Theo tôi thì
“trót nhỡ” chứ không phải “trót nhớ”.
Và như vậy tình yêu, theo ông là thứ lênh đênh vô định nhất trên đời.
“Yêu thì
chưa hết
Nên gọi tên tình chưa đỗ bến *
Và còn nhiều lắm những tâm tình tha thiết, những khát khao được
sống, được yêu, được nhìn thấy đất nước thật sự thanh bình trong nhạc Trúc
Phương.
Cuộc chiến 20 năm vừa qua quá ngắn ngủi so với 200 năm Trịnh Nguyễn phân tranh,
nhưng oan hồn của hàng vạn anh lính trẻ thì có lẽ cho đến bây giờ vẫn chưa siêu
thoát. Nỗi đau oan khuất, nỗi cô đơn ngút ngàn như vẫn còn chất chứa, vang vọng
trong từng câu hát của Trúc Phương.
Có phải là định mệnh chăng, khi ông viết bài Nửa Đêm Ngoài Phố,
là đã báo trước cho mình một cái chết lạnh lẽo, cô độc sau những ngày cuối đời
lang thang trên đường phố Saigon.
Nhớ Trúc Phương, thương cho hàng triệu người lính trẻ đã chiến
đấu trong cô đơn, buồn bã, và đã chết oan trong cuộc chiến vô cùng phi lý trên
đất nước phải hứng chịu nhiều bi thảm nhất của thế giới.
Huyền Chiêu
304Đen – Llttm - sgtc