Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, tháng
4/1975 như vết nước mắt loang dài của miền Trung ngắn dần đi khi dân chúng di tản
vào Nam kiệt sức đến không còn nước mắt khóc cho những xác người ven đường.
Khóc cho nhà cửa vườn tược bỏ lại bị thiêu cháy, cho ruộng nương hoang tàn, cho
trâu bò lạc lõng bơ vơ như thân phận của chính mình giữa dòng người chạy loạn.
Gia đình tôi như số đông dân Quy Nhơn
chạy vào đến Tuy Hòa, rồi ráng qua được đèo Cả vào đến Nha Trang, lê lết thêm một
quãng nữa đến Cam Ranh là hết sức. Chân phồng lên vì dộp. Mi mắt phồng lên vì mất
ngủ, chúng tôi như những bóng ma của chiến tranh mang trong óc trí não phồng
lên vì lo lắng. Chiến tranh có quy luật của loạn lạc. Chiến tranh Việt Nam có
quy luật riêng: Dân không chạy ngược lên phía Bắc mà luôn chạy vào Nam. Xuôi
Nam, là tìm đường sống, là tìm tự do, dù trên danh nghĩa được giải phóng.
Gia đình tôi cũng vậy. Chạy tất tả bờ
bụi, ngay sau khi vỡ mặt trận. Mỗi ngày các chuyến xe đò và quân xa dồn dập đổ
dồn về bến xe chính thị xã thải những con người lầm than, màn trời chiếu đất.
Dân đất Quảng liều chết vượt đèo Hải Vân vô cho được Quy Nhơn. Hải Vân như rặng
núi thiên nhiên chống đỡ, biết có ngăn được nguy biến cho chúng tôi? Ba tôi ở
Phòng Thông tin về thất thần, tin Đà Nẵng mất như quả bom nổ giữa nhà. Thế là hết,
Đà Nẵng, thành phố lớn nhất miền Trung sụp đổ, là vỡ mặt trận. Tuổi mười hai
tôi hiểu: Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Đức Phổ liên tiếp vỡ mặt trận. Đức Phổ là đã sát
Tam Quan, Hoài Nhơn, Bồng Sơn. Là đã vào đến Bình Định. Dân Quy Nhơn chỉ còn biết
chạy. Gồng gánh, bồng bế nhau chạy theo đoàn người lam lũ mà mới hôm qua chúng
tôi hãy còn sót thương, gói ghém thức ăn giúp đỡ khi họ lây lất nằm ngồi trên vỉa
hè thị xã. Giờ chúng tôi thành họ, bỏ nhà cửa nhập vào cái đuôi rồng rắn dài
ngoằn thậm thược bò trườn về phía Nam.
Phía Nam… thật xa như biển Thái Bình
vỗ sóng. Phía Nam… ở cuối chân trời còn trong xanh như giấc mơ tuổi thơ. Phía
Nam mang hình ảnh nhu mì thanh bình của những đồng ruộng miền Tây, của lộng lẫy
Sàigòn làm tuổi thơ tôi nô nức. Vâng, tôi hãy còn nhỏ, còn là cô bé đệ thất
hóng chuyện người lớn, lo âu theo nỗi lo cha mẹ, sợ hãi theo nỗi sợ hãi của các
anh chị, học lóm các danh từ quân sự từ miệng chú bác. Tuổi thơ chiến tranh
trong Nam không hực lửa dữ dội như tuổi thơ miền Bắc mà êm đềm dịu lành như miền
Nam, tuy chiến tranh xảy ra ở đây, nhưng những người lính Cộng hòa bảo vệ chúng
tôi được yên bình. Đến tháng 4/1975, tôi sống trong sự an lành bấp bênh này.
Qua khỏi Nha Trang, gia đình tôi vào
tạm trú trong cư xá Cam Ranh. Dừng lại vì đuối sức. Để thở. Để hô hấp. Để kịp
nhìn quanh xác định vị trí thân phận gia đình mình giữa dòng loạn lạc, là điều
cha mẹ đánh liều, vì các con hết sức, vì không biết làm gì khác. Cả nhà đã đuối.
Tôi kiệt sức. Tôi muốn lả. Tôi uống ca nước mưa trong cư xá tìm vị nước mưa của
quê hương mát lịm ngọt ngào.
Buổi chiều hôm ấy thật căng thẳng.
Tôi còn nhớ tin quân giải phóng bị chận ở đèo M’Drak không cho xuống Khánh
Dương tràn xuống miền duyên hải làm cả khu cư xá hân hoan, lên tinh thần. Rồi vụt
đến tin lính mình tan hàng. Tôi chưa biết tan hàng là gì, nhưng nhìn gương mặt
người lớn âu lo chùng xuống, tôi biết tin không lành. Ba mẹ tôi bằng mọi cách
muốn con mình phải sống.
Sống, nên mấy chị em tôi đóng cửa ở
trong nhà như ba mẹ dặn. Cả hai đi đâu chúng tôi không được quyền biết, chuyện
người lớn, chiến tranh là của người lớn, nhưng chính chúng tôi đang cùng sống
chiến tranh với họ. Thỉnh thoảng tôi len lén nhìn qua khe cửa. Cư xá vẫn náo động,
nhưng tôi muốn nhìn ra bên ngoài, qua vách tường thấp trông ra mặt hè phố. Chị
tôi la, mở cửa sổ cho chị, chị ngộp thở quá. Nhà gì mà kín mít. Được phép, tôi
mở toang cửa sổ. Cảnh tượng ập đến như phim chiến tranh. Tôi gọi chị ra xem. Tôi
la: Chị ơi, lính của mình vứt binh phục đầy đường rồi, họ quăng giày bốt trên vỉa
hè… Chị lao tới, chị cũng sửng sờ, những người lính oai hùng hôm qua, những người
lính điển trai sạm nắng, đàn ông tính và hiên ngang làm những thiếu nữ như chị
mơ ước…
Tôi giật thót, khi nghe tiếng gõ cửa.
Ba tôi trong khung cửa, ba trở về với một người lính trẻ thất thần, hối hả tháo
binh phục, gần như muốn lột da anh để không ai biết da anh từng rằn ri lúc trước.
Anh tháo hối hả áo trận, áo thun xanh lục bên trong, vứt thẻ bài tiếp tục lấp
lánh trong góc tối rồi anh vội vã xin chúng tôi bộ quần áo. Anh còn trẻ lắm, chắc
vừa xong tú tài. Tôi ngắm anh xương xương, tóc ngắn, da ngăm nhưng còn tươi nét
thị thành, anh không phải là nông dân, mà phải xuất thân thành phố. Tôi luýnh
quýnh lấy đồ dân sự đưa cho anh.
Người lính vứt xuống ba lô đầy bụi đất.
Bộ sách English for today của Lê Bá Kông rơi ra đất. Trọn bộ 6 quyển và thêm 5
cuốn tập san Văn. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy tập san Văn. Thật ra tôi vẫn trông
thấy chúng trong hiệu sách chú Thiện gần nhà, nhưng tôi hãy còn quá nhỏ để vươn
tới văn chương của người lớn, tôi hài lòng với nguyệt san Ngàn Thông của Duyên
Anh, nguyệt san Thiếu Nhi của Nhật Tiến, nguyệt san Thằng Bờm và mục Mai Bê Bi
trên báo Chính Luận. Tháng 4/1975 làm tôi vụt lớn, giống như trông thấy xác chết
làm đứa trẻ lớn lên vì hiểu cuộc đời là khổ đau và chết chóc. Tôi cảm giác cô
bé Quy Nhơn hôm qua, đã là thiếu nữ lúc này, ánh mắt tôi nhìn đăm đăm tạp chí
Văn và người lính nhìn thấy. Anh nhìn ra ánh mắt tôi trên tập san Văn, như để
trả ơn tôi đem quần áo của ba cho anh, anh buồn buồn nói: mấy quyển tạp chí này
anh cho em. Hết rồi, không còn gì nữa, anh không cần nữa. Anh không cần chúng nữa.
Em hãy giữ lấy.
Tần ngần một lúc, anh đưa cho tôi.
Tôi nhìn được vẻ ngậm ngùi trên gương mặt anh, hãy còn bơ phờ và cháy nắng. Bụi
đất, thuốc súng, vết đạn bạn anh trúng thương như hãy còn nguyên trên trán anh.
Trán của một người lính mang 5 quyển tạp chí Văn trong ba lô mà tôi không hiểu
quan trọng đến mức nào khiến anh không vứt suốt đoạn đường lui binh, khiến anh
chấp nhận mang ít đạn dược, lương khô để dành chỗ cho bộ English for today của
Lê Bá Kông và 5 tập nguyệt san Văn.
Tôi hỏi: Đi lính mà mang theo
sách văn chương chi vậy anh?
Anh nói: Đọc cho đỡ buồn để
nhấc mình ra khỏi chiến tranh.
Rồi anh kể, anh mơ ước sẽ đi học tiếp.
Anh học năm thứ nhất Văn khoa Sàigòn trước khi bị động viên. Anh muốn trở về
trường cũ, hy vọng phía chiến thắng xem phía thua trận là anh em, cho phép anh
sống bình thường, ước mơ bình thường, tốt nghiệp Văn khoa đi dạy một trường
trung học tỉnh lỵ nào đó, đạm bạc mà yên ổn với cuộc đời. Anh không thích chiến
tranh, anh không muốn đánh nhau hoài, thua trận nhưng cũng là dịp tốt chấm dứt
nội chiến. Anh đưa tay vuốt tóc tôi, bàn tay có những đốt chai của người lính
mà tôi cảm được khi lướt qua trán mình, lớp da tay sần có thể vì khuân đạn, vì
phải đào công sự, chạm vào da làm tôi hơi giật mình. Da của một người đàn ông lạ,
tôi nghĩ. Da của một bàn tay ham đọc sách văn chương, tôi cũng nghĩ. Chúng tôi
tiễn anh ra cửa, bóng anh vụng về trong đồ dân sự cố đi bình thản nhưng bước
chân như chạy trốn người lính là chính anh vừa ban nãy, còn đồ trận, giờ anh đã
bỏ lại và muốn thoát bóng cũ.
Ngày ấy, tôi còn rất nhỏ. Tháng
4/1975 tôi chưa là thiếu nữ, tôi chỉ cảm thấy vô cùng thương tâm, lòng như lửa
đốt vì lo lắng khi nghĩ đến người thân. Các anh con bác tôi cũng đi lính, những
ngày này, các anh tôi lầm than đang trôi dạt nơi nào.
Rồi thời gian qua như bão sa mạc. Gió
tốc tan hoang chỉ còn lại đất, tất cả biến mất khi chúng tôi trở về. Trong cơn
bão, tủ sách của gia đình tôi bị đốt sạch, ba nói người ta sẽ vào nhà lục soát
và kết án tàn dư chế độ cũ, ai giữ sách là phạm pháp. Ba sợ. Mẹ sợ. Cô chú,
thím, bác, dì, dượng sợ. Không ai dám giữ, dám giấu hay cất hộ. Tôi và các chị
lén ba, giấu những tập sách mà mình yêu thích nhất trong một hòm gỗ dưới chân cầu
thang tầng 2, những quyển sách mà người lính đã tặng tôi cũng để lại không nỡ đốt
đi. Ánh mắt anh như còn trên bìa sách. Ánh mắt lấp lánh hy vọng anh có thể theo
học Văn khoa tiếp tục phảng phất trên trang giấy ố vàng. Thời gian làm những Tạp
chí Văn ấy đã trở thành “di sản” của văn chương Miền Nam. Chính tôi cũng không
ngờ tới, và có lẽ anh cũng không ngờ đến. Tôi đã giữ, đã đọc, đã “nhấc mình
lên” khỏi cuộc chiến như anh dặn. Bằng văn chương.
Cách đây mấy năm, khi đọc trên online
Tạp chí Văn ở Hoa Kỳ của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, thấy trên danh mục thiếu những
tập năm 1969, tôi nhớ ngày xưa người lính đã cho tôi mấy cuốn nên lôi ra, sách
đã ố màu và mối ăn lỗ chỗ. Tôi khẽ khàng lật từng trang sách vì giấy đã mục
nát. Tôi cảm giác kỳ lạ là chính anh cũng đang cùng tôi lật khẽ khàng từng
trang sách cũ. Lật từng chữ cũ, với sự hoài niệm của một thời đã mất.
Tôi lật từng trang.
Văn số 140, ra ngày 15 tháng 10 năm
1969, gồm 128 trang. Số đặc biệt về Yasunari Kawabata là một nhà văn nổi tiếng
của Nhật Bản được giải Nobel văn chương năm 1968. Hình bìa là bức ảnh nhà văn mặc
áo kimono đen với gương mặc thiền tông, do Văn Thanh trình bày. Bài nhận định
Yasunari Kawabata cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Thư Thanh viết từ Tokyo, tháng 7
năm 1969. Yasunari Kawabata dưới nhãn quang Tây phương của Chu sỹ Hạnh viết từ
Melbourne, tháng 3 năm 69. Tiếp theo giới thiệu 5 tiểu thuyết tiêu biểu của Kawabata:
Cô đào miền Izu, Tiếng núi rền, Ngàn cánh hạc do Vũ Thư Thanh dịch từ nguyên
tác, riêng truyện Thủy Nguyệt do Chu Sỹ Hạnh dịch từ bản tiếng Anh, Nốt ruồi do
Mai-Dzam dịch. Văn khi ấy, như thế đã cập nhật văn học thế giới rất nhanh vào
miền Nam. Miền Nam, cảnh cửa văn chương mở ra thế giới của toàn Việt Nam. Tháng
4/1975 đã đóng lại phũ phàng.
Bên cạnh đó, Văn số 140 năm 1969 đăng
tiếp truyện dài nhiều kỳ Khu rừng hực lửa của Nguyễn Xuân Hoàng. Mục Tin văn…
do Thư Trung và các bạn đảm trách: đưa tin Mường Mán cây bút trẻ của Văn vừa ra
chiến trường; Lê Bá Lãng thì được biệt phái trở về nghề gõ đầu trẻ; giới thiệu
tập sách mới nhất của Nguyễn Mạnh Côn “Hòa bình…nghĩ gì?làm gì?”, tựa mà về sau
Phan Nhật Nam lấy lại trong một chương của bi ký Tù binh và Hòa bình; rồi Hội
Bút Việt cử phái đoàn tham dự hội nghị Văn Bút Quốc tế, ở Pháp. Tin ngoài nước:
giới thiệu giải thưởng văn hóa ở Đại Hàn, Genève vừa tổ chức cuộc gặp gỡ quốc tế
lần thứ XXII giữa các nhà văn hóa, để thảo luận về đề tài “Tự do và trật tự xã
hội”.
Tiếp theo mục Thư tòa soạn loan báo
trước chủ đề của những số báo sắp tới, cuối cùng Hộp thư bạn đọc Tòa soạn Văn
giới thiệu những tác phẩm mới do các tác giả và nhà xuất bản gửi tặng.
Bờ sông lá mục của Phan Lạc Tiếp, là một tập
bút ký chiến tranh, trình bày cuộc chiến Nam Bắc hiện tại qua cái nhìn của một
người đi biển.
Nhật ký quân trường của Trần Châu Hồ, viết trong những
ngày ở lại quân trường không đi nghỉ phép của nhà giáo Trần Châu Hồ khi thực tập
quân sự tại TTHL Quang Trung.
Vực xoáy của Bàng Bá Lân, tập truyện dị thường
gồm 10 đoản thiên, dịch từ nhiều tác giả Âu Mỹ nổi danh.
Những giọt đắng của Võ Hồng gồm 7 đoàn thiên,
Bìa của Đinh Cường.
Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria Remarque, Phạm
Trọng Khôi dịch từ bản tiếng Pháp Rien de nouveau à l’Ouest, viết về tâm trạng
phản chiến của binh sĩ Đức trong Thế chiến Thứ Nhất, đã được chuyển thành phim
và dịch sang nhiều thứ tiếng. Bìa do Đinh Cường vẽ.
Văn chương tranh đấu miền Nam của Nguyễn Văn Sâm, khảo sát 24 tác
giả quan trọng của văn chương nam bộ thời kỳ 1945-1950, là một công trình
nghiêm túc và đáng tán thưởng.
Thơ Lữ Quỳnh, thi phẩm đầu tay gồm khoảng 30 bài.
In Thạch bản, trình bày trang nhã, phổ biến hạn chế trong vòng thân hữu.
Viết cho những người còn lại của Lê Trúc Khanh, Hà Huy Khanh
và Lệ Thy. Thi phẩm đầu tay của ba tác giả tại Cần Thơ.
Quyển Tạp chí Văn hơn 30 năm trời đã
lưu giữ tâm hồn bao con người, như một thước phim quay chậm, từng con chữ, từng
con chữ hiện lên những cuộc đời. Số phận những nhà văn Miền Nam này đã ra sao
sau biến cố tháng 4/1975, họ còn sống hay đã chết…, với tôi tạp chí Văn như một
nấm mồ bí ẩn.
Nhưng chính những trang sách ẩn chứa
bao điều bí ẩn đã giúp tôi thoát khỏi nỗi buồn trong những năm dài cay nghiệt của
cuộc đời. Văn chương tự do giúp tôi “nhấc mình” lên khỏi thực tế u buồn của xã
hội thực tại. Tôi nhấc tôi lên bằng văn chương quá vãng của miền Nam, nhấc tôi
lên khỏi cuộc đời thăng trầm trăm nỗi lo toan. Mà vây quanh là khẩu hiệu. Khẩu
hiểu trên tranh cổ động không giúp nhấc mình mà nhấn mình xuống vì phải làm
theo chỉ thị, theo khẩu hiệu, mà mình không muốn, vẫn phải làm. Làm tối mặt. Tối
mắt. Để về nhà buồn bã là đã không sống thật với mình. Tạp chí Văn khi ấy tôi
lưu giữ trong nhà rất lạ, không giống những tập san văn nghệ bày bán trên sạp
báo bên ngoài, cũng không giống báo văn nghệ hội nhà văn, là một cái gì khác.
Văn chương tự do cho mình cuộc đời
khác, sống cùng nhân vật, đem mình bay đến những miền đất lạ và tuy trong khoảnh
khắc, nhưng cuộc đời bỗng hạnh phúc biết bao.
Bây giờ tôi đã hiểu vì sao ngày trước,
người lính miền Nam ra chiến trường vẫn mang theo trong hành trang Tạp chí Văn
cất trong ba lô của mình, như lời anh nói, giúp anh “nhấc mình ra khỏi chiến
tranh”. Ra khỏi sắt thép, lửa và tham vọng. Trong văn miền Nam không có thép,
nên anh tìm bình an trong Tạp chí Văn Sàigòn ngày ấy.
Tôi cũng vậy, tôi cũng muốn tìm bình
an trong văn chương.
Quy Nhơn, 20/01/2011
Ban Mai
No comments:
Post a Comment