NHẬT
KÝ và TUYÊN TRUYỀN VIỆT CỘNG
Vào tháng 5, 2005 một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt
Nam, Frederic Whitehurst, đã làm một nghĩa cử thật ngoạn mục là
thông báo cho bà Doãn Ngọc Trâm (DNT) ở Hà Nội, mẹ của một cán binh cộng sản đã
tử trận trong cuộc chiến tranh Việt Nam, biết là anh ta hiện lưu giữ một quyển
Nhật Ký của con bà mà quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cọng Hòa đã thu được trong
một cuộc chạm súng tại Quảng Ngãi hồi năm 1970, có gởi kèm theo bản sao, đồng
thời mời bà DNT và gia đình sang thăm Hoa Kỳ và đến tại thư viện Lubbock, Texas
để xem cho rõ bản gốc của quyển Nhật Ký hiện được lưu giữ tại đây.
Sự việc được bà DNT trình lên
cho Đảng. Chính quyền Hà Nội mừng như được Mỹ bỏ cấm vận, liền chỉ thị cho Hội
Nhà Văn Việt Nam (HNVVN) biên soạn và chỉnh lý quyền Nhật Ký (bản sao) cho phù
hợp với đường lối và chủ trương của Đảng (ghi rõ ở lời mở đầu, trang 6) thành quyển “Nhật
Ký Đặng Thùy Trâm” (NKĐTT), rồi cho xuất bản ngay 20.000 bản vào ngày
2.7.2005 nhằm mục đích tuyên truyền. Bởi vì chỉ nhìn qua cách dàn dựng bố cục
của cuốn NKĐTT mà HNVVN cho ra đời người đọc sẽ thấy rất rõ chủ ý nầy. Thật
vậy, NKĐTT do HNNVVN xuất bản chia làm 2 phần. Phần 1 có tiêu đề “Những Ngày
Rực Lửa” in lại nhật ký quyển 1 viết năm 1968 (từ trang 31 đến 201) và quyển 2
viết năm 1970 (từ trang 203 đến 256) của ĐTT, và phần 2 gồm các bài viết tô lục
chuốc hồng của các cây bút trong HNNVN nhằm ca ngợi tác giả của nó như một mẫu
người yêu nước lý tưởng được tôi luyện ra từ lò rèn Đảng Cộng.
Tháng 9, 2005 đài BBC Luân Đôn
làm một màn đánh bóng rằng thì là: Quyển sách có số lượng bán cao nhất hiện nay
tại Việt Nam là “Nhật Ký Đặng Thùy Trâm”… Và trong nửa giờ phát thanh khác của
đài BBC Luân Đôn, nghe được ở Hoa Kỳ ngày 14.10.2005, phỏng vấn Đặng Kim Trâm,
em gái tác giả ĐTT và là người đánh máy layout tác phẩm, lúc nầy đang cùng bà
DNT có mặt ở Texas – Hoa Kỳ. Đặng Kim Trâm cho biết trong lúc đánh máy cô ta đã
làm sót mất nhật ký của 2 ngày 12 tháng Tư và 5 tháng Tư. Ngoài ra, đọc NKĐTT nơi quyển 2, viết ngày 15.01.1970
(trang 216) ghi :
“…Bao kỷ niệm lần lược
hiện ra trong óc mình… Giặc đã cướp của mình hai quyển nhật ký. Tuy đã mất
những trang sổ vô giá đó, nhưng còn một quyển sổ quý hơn cả đó là bộ óc của
mình, nó sẽ ghi lại toàn bộ những điều nó đã tiếp thu được trong cuộc sống”.
Người đọc sẽ tự hỏi có bao nhiêu quyển nhật ký mà ĐTT đã viết, hai quyển đã mất và một quyển đang viết những giòng chữa nầy, vậy thì phải có ba quyển chứ ? Điều nầy cho thấy HNVVN đã chỉnh lý không hợp lý, chỉ chú trọng đến phần tuyên truyền nhiều hơn mà xem nhẹ các công việc khác nhất là phần kiểm soát trước khi in ấn. Mặc dù vậy, chúng ta cứ cho rằng quyển NKĐTT là trung thực 100% trước khi đọc lại và phân tích vấn đề mà không bị thiên kiến làm lệch lạc.
Để nhìn rõ vấn đề, trước hết
xin được tóm lược câu chuyện: Có một cô gái tên là Đặng Thùy Trâm, sinh năm
1942 tại Hà Nội (có nghĩa là khi ông Hồ đọc Tuyên Ngôn Độc lập ở Ba Đình 1945
thì cô chỉ mới 3 tuổi), trong một gia đình được Đảng xếp vào giai cấp Tiểu Tư
Sản. Năm 1966 cô tốt nghiệp bác sĩ Chuyên Khoa Mắt – Thị Giác. Cô có người yêu
tên là M. đã gia nhập bộ đội và được gởi đi B (tức xâm nhập vào Miền Nam) trước
đó mấy năm. Do đó, có hai động cơ để sau khi tốt nghiệp cô cũng xung phong đi
B: Một là theo tiếng gọi của ái tình, của con tim nên phải ra đi tìm M. để được
sống gần M., hai là vì tiếng gọi của Đảng “phải đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào”, phải giải phóng đồng bào Miền Nam thoát khỏi cảnh đói khổ, lầm than,
khỏi cảnh người bóc lột người (!)…” Năm 1968 cô xâm nhập vào Miến Nam và nhận
nhiệm vụ tại một trạm Y-Tế thuộc quận Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây cô được
gặp lại M., nhưng M. đã phản bội cô vì M. đã có người yêu khác. Công việc hằng
ngày của cô thì được ghi lại qua những giòng nhật ký. Cô bắt đầu viết ngày
8.4.1968 cho đến ngày 20.06.1970. Hai ngày sau (22.06.1970) cô bị tử thương
trong một cuộc chạm súng với quân đội Hoa Kỳ. Cái chết của cô được các “đồng
chí” của cô diễn tả lại mỗi người một khác, những đồng đội thân thiết kề cận mà
cô có đề cập đến trong nhật ký thì không thấy ai phát biểu gì về cái chết nầy,
chỉ có ông Tâm, Bí Thư Huyện ủy Đức Phổ nghe và kể lại, trước khi tắt thở cô
còn hô vang khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm, Đả đảo đế quốc Mỹ” (trang 258).
Sau năm 1975 mẹ cô đi bốc mộ trên vùng núi Ba Tơ, Quảng Ngãi thì thấy giữa
xương trán của cô bị một vết đạn sâu hoắm (trang 258). Hiện xác cô được chôn
cất tại nghĩa trang Từ Liêm, Hà Nội.
Như vậy tính ra ĐTT có 804 ngày
sống tại Đức Phổ, Quảng Ngãi để phục vụ cho Đảng và chỉ viết có 202 lần viết
qua 223 trang sách in (do HNVVN in ấn).
Đọc phần nhật ký do ĐTT viết,
người đọc không thể phủ nhận những nhận xét của những người cùng đứng chung
chiến tuyến với ĐTT như nhà văn Bảo Ninh, nhà thơ Bùi Minh Quốc và có lẽ của
nhiều người khác nữa dù đứng chung hay không đứng chung chiến tuyến đã phát
biểu rằng: Họ rất xúc động khi đọc những giòng nhật ký nầy. Họ thấy lại hình ảnh
của một thời tuổi trẻ của mình đã xả thân cho “đất nước”, một sự xả thân đẹp đẽ
và đơn giản… Vì người chiến sĩ ở phía bên nào cũng căm thù địch
quân, nên lòng căm thù của ĐTT đối với quân đội Mỹ và “ngụy quân” cũng là điều
dể hiểu. Và người chiến sĩ ở phía bên nào cũng thương yêu đồng đội của mình như
anh em ruột thịt, bàn hoàn xúc động khi một đồng đội của mình ngã xuống hay bị
bắt bởi địch quân, thì đọc NKĐTT cũng thấy được những tình cảm tiêu biểu ấy.
Muốn biết công việc nhọc nhằn của các chiến sĩ ngoài mặt trận thì đọc NKĐTT
chúng ta cũng bắt gặp được những hình ảnh nầy. Và người chiến sĩ “túy ngọa sa
trường” ở phía bên nào cũng phải có lúc “buồn” và “nhớ”, thì đọc NKĐTTchúng ta
cũng thấy được những nỗi “buồn” và “nhớ” tiêu biểu ấy. Nghĩ về những mất mát
trong chiến tranh, ước mơ về một ngày chiến thắng, nhìn thấy đất nước mình
thanh bình thì người chiến sĩ ở phía bên nào có lẽ cũng vậy, đọc NKĐTT chúng ta
cũng thấy được nỗi niềm đó. Nhưng nếu
Nhật Ký được định nghĩa là những điều ghi chép thường ngày, sự thật việc thật,
một thể văn ghi theo thứ tự thời gian những sự kiện xảy ra và những cảm nghĩ
hằng ngày của người ghi, thì đọc NKĐTT chúng ta chỉ thấy nêu bậc lên những nét
đặc thù, giới hạn hay đóng khung nhật ký trong một chủ đề, mà cố tình bỏ sót
những sự kiện rất hiện thực có tính cách thời đại thường tình của nó, nên làm
người đọc có cảm tưởng như đây là một bản phúc trình để dâng lên cấp ủy Đảng
hơn là Nhật Ký bình thường.
Nét đặc thù không riêng gì ở
NKĐTT mà nói chung ở nhiều Nhật Ký khác như “Mãi Mãi Tuổi 20” của Nguyễn Văn
Thật chẳng hạn, những tác giả nầy chỉ cố làm nỗi bậc tính phấn đấu của mình, cố
xóa bỏ đi cái bản chất “tiểu tư sản” trong con người của mình. Dù không nói ra
nhưng đã gián tiếp cho người đọc thấy rõ “chúng tôi chỉ có một con đường đi đến
tương lai”. Giới trẻ Miền Bắc không có con đường lựa chọn nào khác
ngoài con đường phải phấn đấu để được kết nạp vào Đảng. Có nghĩa là chỉ có Đảng
viên mới có tương lai tốt đẹp. Muốn có địa vị, muốn có quyền lợi bạn phải là
một Đảng viên. Muốn được là một Đảng viên bạn phải phấn đấu. Nhưng sự phấn
đấu để được lựa chọn kết nạp vào Đảng lại không theo một tiêu chuẩn bình đẳng
mà tùy thuộc vào giai cấp, vì xã hội đã được Đảng phân chia làm nhiều giai cấp
và chỉ có giai cấp công nhân mới là giai cấp tiên tiến, mới là giai cấp lãnh
đạo, giai cấp quản lý hay nói rõ hơn là “giai cấp cai trị”. Những người ở giai
cấp “Tiểu Tư Sản” như ĐTT và những giai cấp khác được gọi chung là “giai cấp bị
trị” thì cần phải phấn đấu không ngừng, phấn đấu không mệt mỏi. Phân đấu không
những với chính bản thân để làm mờ đi cái giai cấp “Tiểu Tư Sản”, làm mất đi
cái bản chất “Tiểu Tư Sản” trong con người của mình; mà lại còn phấn đấu với
những người được gọi là “đồng chí” đồng đội ở ngay bên cạnh mình. Đây cũng là
niềm khắc khoải duy nhất, là nỗi bức xúc tột cùng của ĐTT, của những người trẻ
mới bước vào đời ở Miền Bắc. Xin hãy nghe ĐTT tâm sự qua những dòng nhật ký :
“ Chiều mưa, những giọt mưa rả rích
rơi từ trên mái lá, từ những lá cây tạo thành một âm thanh buồn đến lạ lùng.
Lâu rồi mình quên đi cái cảm giác của một cô học sinh Chu Văn An ngồi ngậm
chiếc đuôi bút quên nghe thầy giảng bài, lơ đãng nhìn ra mặt hồ Tây mờ mịt
trong mưa phùn mà nghĩ vẫn vơ. Cái cảm giác xa xưa vừa tiểu tư sản, vừa trẻ con
mới lớn ấy sao hôm nay lại sống dậy trong mình – một cán bộ đang lặn lội trong
cuộc kháng chiến sinh tử nầy. Một năm qua đã cho mình hiểu thêm về hai chữ thực
tế. Không, cuộc đời thực tế gồm hai mặt. Cuộc đời vẫn bao la niềm ưu ái, người
ta vẫn dể dàng tìm thấy niềm thương yêu, miễn là chân thành và có lòng vị tha.
Nhưng . . . dù anh có chân thực bao nhiêu đi chăng nữa rồi cũng có lúc anh đau
xót thấy rằng vẫn có những kẻ dùng mánh lới khôn khéo, lừa đảo anh để giành
cướp với anh từng chút uy tín, từng chút quyền lợi, có khi chỉ là những chuyện
vô cùng nhỏ nhặt như miếng ăn, đồ vật. Anh muốn sống vô tư hoàn toàn chỉ biết
có lẽ phải, có tình thân ái thôi ư ? Không được, sẽ có kẻ cho anh là ngốc là để
cho kẻ khác đè đầu cởi cổ dể dàng. Vậy thì phải đấu tranh, mà đấu tranh phải có
lý cộng với kinh nghiệm sống.” (trang 53)
“ Hầu như tất cả mọi người đều nói:
“Trâm rất xứng đáng là một người Cộng Sản” vậy mà vẫn không được đứng trong
hàng ngũ ấy. Nào phải mình không thiết tha nhưng càng thiết tha chỉ càng thấy
khổ đau mà thôi.
Mấy hôm nay rất buồn, ngày ngày những
lá thư, những lời nói, những hành động tỏ lòng thương mến thiết tha vẫn đến với
mình. Nhưng chính những tình thương ấy lại là những mồi châm lửa vào một đống
củi đã khô từ lâu. Tại sao mọi người thương mến cảm phục mà Đảng lại khắc khe
hẹp hòi đối với mình.” (trang 44, 45).
“ Anh em bạn bè ở đâu cũng nhớ cũng
thương mình vậy mà mình vẫn thấy cô đơn. Mình chưa được đứng trong một tập thể
tiên phong nhất. Trái tim mình thiếu ngọn lửa của Đảng và của tình yêu sưởi ấm.
Mình đã đến với Đảng bằng cả con tim chân thành tha thiết, nhưng hình như sự
đáp lại không hề như vậy.” (trang 59).
“ Viết đơn vào Đảng, niềm vui thì ít
mà bực dọc thì nhiều. Tại sao con đường đi của một đứa tiểu tư sản bao giờ cũng
nhiều chông gai đến vậy ? Đành rằng vì tính chất giai cấp, nhưng mình vẫn thấy
rất rõ một điều ngoài cái lẽ dĩ nhiên ấy. Có một cái gì đó bắt bẻ, gọi là bắt
bí của một vài cá nhân có trách nhiệm. Chẳng biết nói sao, đời nó là như vậy
đó. Dù thành tích anh có cố gắng bao nhiêu cũng không bằng một anh khác ở thành
phần cơ bản chỉ vừa mới giác ngộ bước đầu. Hường hồi còn sống thường động viên
mình rằng đó là chỗ hơn của một người tiểu tư sản !!! Hơn gì ? Hơn khó khăn hơn
cực nhọc hởi Hường ? Mình như một đứa con không gia đình lâu ngày tìm về mẹ
nhưng người mẹ ghẻ luôn bận nâng niu những đứa con riêng nên thờ ơ lạnh nhạt
với đứa con chồng. Muôn người đã tạo nên một người mẹ hiền vĩ đại là Đảng,
nhưng trong muôn người mẹ ấy có một người mẹ (và chắc không phải một người đâu)
y hệt một bà mẹ ghẻ trong câu chuyện cổ tích.” (trang 75).
“Đêm nay ba chị em ngồi tâm sự, lòng mình xao xuyến xót thương . . . . .
. . . . . .Đọc những dòng nhật ký của em chị hiểu rằng em thương chị hơn ai hết
mà sao lại có những điều giấu chị? Giận em quá đi, chị muốn làm một người chị
rộng lượng, dễ dãi trước thiếu sót của em mà không làm được, chị phải nói vậy,
đó cũng là một trong những thử thách với em, nếu em đặt tình chị em lên trên
hết thì thôi mà nếu không thì . . . tùy. Bao giờ chị cũng vẫn giữ được một chút
cái tự ái của một người con gái tiểu tư sản, cho nên không thể nào làm khác
được đâu.” (trang 226)
Nhưng kết quả của sự phấn đấu
là phải tạo thành tích trong công tác phục vụ và tạo thành quả trong chiến đấu.
Tất cả sẽ được báo cáo lên các cấp ủy Đảng. Nhưng thành tích không nhất thiết
phải trung thực, hợp lý mà chỉ cần ăn cánh với nhau và nhằm động viên được tinh
thần hy sinh của người khác.
Chúng ta hãy nghe ĐTT ghi lại
một cuộc báo cáo điển hình tại một Đại Hội huyện đoàn Thanh Niên mà chắc chắn
cô cũng biết rằng đó chỉ là một trò lừa bịp đáng buồn cười:
“ – Em Hoàng 14 tuổi trong sáu tháng
đầu năm giết được 6 lính Mỹ, đánh lật 2 xe tăng bằng vũ khí tự tạo, lấy được 7
súng giặc trong đó có 2 cối cá nhân và các loại khác.
- Em
An, Phổ Châu lấy 5 súng, có 2 cối cá nhân, một đài RC.
Các em đã anh hùng từ trứng nước. Tự
hào thay tuổi trẻ của chúng ta !” (trang 83).
Do vậy mà ĐTT phải chua chát
ghi lại cảm giác của cô khi được kết nạp vào Đảng:
“ 27.9.68
Kết nạp Đảng,
Cảm giác rõ nét nhất của ngày hôm nay
là: phải phấn đấu để sống xứng đáng với cái tên ‘một người cộng
sản’.
Còn niềm vui, sao nhỏ quá so với ý
nghĩa của ngày vui. Vì sao vậy hởi Thùy ? Phải chăng như hôm nào Thùy đã nói:
như một đứa con khát sữa mẹ, khóc đã mệt rồi, miếng sữa nuốt vào không còn nguyên
hương vị thơm ngon và cái thú vị của nó nữa.” (trang 84)
Đọc xong NKĐTT người ta tự hỏi:
- Một
Bác Sĩ chuyên khoa Mắt – Thị Giác như ĐTT trong suốt hơn 2 năm phục vụ trong
ngành y khoa dù ở tại một trạm xá nhỏ mà không hề thấy ghi lại một trường hợp
chữa trị nào về mắt, chỉ thấy ghi lại những trường hợp cô giải phẫu (mổ xẻ) cho
những bệnh nhân bị ung thư và trúng đạn, cô làm nhiệm vụ của một bác sĩ giải
phẫu, thì thật lạ lùng ? Kể ra cô cũng liều thật hay có thể nói cô xem sinh
mạng con người chẳng ra gì dù có cho rằng cô làm vì long từ tâm vĩ đại hay theo
lệnh của Đảng !
- Chắc
hẳn mọi người đều biết sau 1975 tình trạng thuốc men để chữa bệnh của Miền Bắc
Xã Hội Chủ Nghĩa như thế nào rồi. Thế nên khi cô đảm trách một trạm xá ở Quảng
Ngãi thuốc men chắc chắn là được cung cấp, tiếp tế từ dưới đồng bằng lên,
thuốc đó từ các nước của khối tư bản. Vậy mà chúng ta không hề thấy
cô ghi lại một nhận xét nào trong việc dùng thuốc, một so sánh nào về hiệu
nghiệm của thuốc men ở hai khối tư bản và cộng sản, thì tại làm sao ?
- Những
năm 1967 – 1970 quân đội Hoa Kỳ đã rãi thuốc khai quang ở Miền Nam để dể phát
hiện sự di chuyển và nơi đóng quân của bộ đội Miền Bắc. Hồi đó Hà Nội đã la
làng phản đối và đến nay việc chất độc màu da cam của thuốc khai quang còn được
Hà Nội khai thác để hầu kiếm chút tiền của Mỹ. Chắc chắn thuốc khai quang phải
gây ảnh hưởng tại hại đến “mắt” nhất là mắt của những giải phóng quân hứng chịu
trực tiếp, thế mà người đọc chẳng thấy Bác Sĩ Mắt ĐTT ghi lại những trường hợp
thiệt hại đó và cảm nghĩ của cô như thế nào ? (Nếu có ghi lại thì nay đã trở
nên một tài liệu quý giá cho Đảng trong việc minh chứng tại các tòa án ở Hoa Kỳ
để xin bồi thường)
- Nếu
ĐTT là một du kích với trình độ “bình dân giáo dục” thì chẳng nói làm gì, đàng
nầy cô là một Bác Sĩ, một trí thức Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa mà đọc suốt nhật
ký chúng ta không thấy cô ghi chép gì về nhận định, đánh giá hay cảm xúc… của
cô trước những tin tức thời sự có liên quan đến cuộc chiến của thời bấy giờ, hoặc
những bài hát đượm tình quê hương và tình yêu đôi lứa; những bài hát, những tin
tức quốc nội và quốc tế ấy ở cả hai phía phát ra hằng ngày từ các đài phát
thanh Hà Nội, Mặt Trận Giải Phóng, cũng như Sài Gòn thì có cần nêu lên một dấu
hỏi hay không ?
- Nếu
ĐTT đã vào Miền Nam nhưng chỉ giam mình dưới những hầm trú ẩn, hoặc những căn
láng nhỏ ở rừng sâu của Đức Phổ mà chưa thấy được những cánh đồng xanh bát
ngát, những giòng sông uốn khúc mơ màng, những vườn dừa rợp bóng, những vườn
cây lành có trái ngọt trĩu quả, những nơi có những con đường thơ mộng với hàng
phượng đỏ, me xanh ngày hai buổi có những tà áo trắng hồn nhiên đến trường học
tập . . . của Miền Nam mà cô cũng đã “thiết tha gắn bó vô cùng” rồi, thì tôi
nghĩ rằng cô cũng đã xử dụng những tiện nghi vật chất hiện đại, nếm được mùi
của những “miếng ngon” ở Miền Nam mà Miền Bắc thời đó chưa có (qua những đường
giây tiếp tế)… thì tại sao cô không viết lên được một cảm nghĩ, một sự đánh giá
về những sự việc nầy trong Nhật Ký của cô !?
Khi nêu lên những vấn đề nầy
thì hẳn có người cho rằng cô thiếu trung thực trong lối viết nhật ký. Nhưng khi
đọc được, nghe được những lời tô lục chuốc hồng gượng gạo lên con người “Cộng
Sản Lý Tưởng Đặng Thùy Trâm” của các cấp lãnh đạo Đảng như Phan Văn Khải, Lê
Khả Phiêu và giới báo chí trong nước rằng thì là:
“Đưa đất nước tiến kịp thơi
đại. . . Khát vọng đổi mới và phát triển đất nước . . . Biết ơn ngưỡng mộ những
người đi trước, bằng hành động và trái tim của tuổi trẻ . . . Làm cho dân tộc
ta bước lên lâu đài hạnh phúc . . . Đó là giá trị đích thực của lẽ sống tuổi
trẻ Việt Nam trong thời kỳ mới . . .”
Tuy những tiếng nói ấy kêu rất
to dội rất vang nhưng rồi lại bị tắc tị trước những tiếng nói bộc trực thẳng
thắn đấu tranh cho tự do dân chủ của..(tòa soạn tự ý bỏ...) và trước
những tiếng kêu than không sợ chết của những thường dân đang bị Đảng đàn áp và
bị Đảng cướp bóc tài sản, như Phạm Thị Nhu, ni sư Đàm Thoa. . . hoặc bị lừa gạt
tình cảm như Nông Thị Xuân (có con với Hồ Chí Minh), Phạm thị Dấn (có con với Trần
Đức Lương). . .Thì chúng ta nghe như vang vọng bên tai câu trả lời rất chơn
chất của những người trẻ sống trong xã hội chủ nghĩa, mới ngày nào còn chiến
đấu vì lý tưởng:
“Chúng tôi viết nhật ký không
phải để lại cho đời sau, chúng tôi không cần ai thương hại hay vinh danh. Những
gì chúng tôi viết và không viết cũng đủ trả lời cho mọi câu hỏi rồi. Thời đại
chúng tôi chỉ có một con đường đi đến tương lai. Chúng tôi viết và không viết
những gì chỉ vì nó có lợi hay không có lợi cho chúng tôi trong cuộc hành trình
đi lên trên con đường tương lai ấy mà thôi. . .”.(Mãi mãi
tuổi 20 của Nguyễn Văn Thạc)
Ôi ! Những người chiến đấu cho
lý tưởng cộng sản, đã chết cho lý tưởng cộng sản, các anh các chị muốn giải
phóng Miền Nam thoát khỏi gông cùm của “Mỹ Ngụy” để cho Miền Nam
thoát khỏi cảnh người bóc lột người, được cơm no áo ấm, có nhà để ở, có ruộng
để cày . . .? Tháng Tư 1975 ước vọng của các bạn đã đạt được rồi đó, nhưng ước
mơ của các bạn đã không thành hiện thực, các bạn đã bị phản bội, vì Đảng mà các
bạn tin tưởng đã hiện nguyên hình là một lũ đầu trộm đuôi cướp (từ ngữ của
những người CS trong nước). Chính cái Đảng nầy đã bày những trò “Đánh
Tư Sản” để cướp tài sản của nhân dân Miền Nam. Chính cái Đảng nầy đã bày ra
cái chủ trương “Kinh Tế Mới” để cướp nhà đất ruộng vườn của nhân dân Miền Nam.
Chính cái Đảng nầy đã bày ra “Hợp Tác Lao Động” để đưa dân Việt đi
làm lao nô khắp năm châu bốn biển. Chính cái Đảng nầy đã bày trò “Dịch
Vụ Hôn nhân” để bán con gái Việt nam đi làm đĩ khắp thế giới. Sau gần
nửa thế kỷ thống nhất đất nước, cảnh Đảng bóc lột nhân dân sao mà dã man tàn
nhẫn đến thế! Đến nỗi ngày nay nhân dân thì nghèo khổ còn Đảng viên và những kẻ
theo đốm ăn tàn cùng Đảng thì giàu sụ, nhà cao cửa rộng, xe cộ rềnh rang, chỉ
nhìn ở những canh bạc cá độ thể thao của cán bộ Đảng lên đến hàng triệu
Dollars, những màn giải trí tại những phòng trà nơi đĩ điếm một đêm có thể lên
đến hàng trăm ngàn dollars thì đủ rõ rồi. Lịch sử nhân loại chưa có một cuộc
“vượt biên, vượt biển” nào gây xúc động cho toàn thế giới, đánh động lương tâm
nhân loại cho bằng cuộc “vượt biên, vượt biển” của đồng bào Việt Nam (sau 1975)
vì họ đã bất chấp mạng sống và danh dự để trốn chạy sự cai trị khắc nghiệt, và
sự bóc lột nhân dân dân đến tận xương tủy của chính quyền Cộng Sản hiện nay.
Mới đây chính quyền Hà Nội đã tiết lộ rằng ở Phú Thọ, Bắc Bộ có một làng mà dân
chúng đều mắc bệnh “ung thư” mà họ gọi là “Làng Ung Thư” (Bản tin của
đài BBC tháng 11, 2005); hậu quả nầy là do việc thiết lập những nhà
máy hóa chất trong khu dân cư. Nó chứng tỏ một sự dốt nát về quản lý của các
cấp lãnh đạo Đảng. Cũng đã hơn 40 năm rồi từ khi đất nước ta tiếng súng không
còn nổ, thế mà không biết cái chính phủ và quốc hội của nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam làm những công việc gì mà đến nay người dân Việt Nam sống
không có bảo đảm về y tế, người công nhân không có bảo đảm về thất nghiệp (công
việc mà các nước trên thế giới đã làm cả trăm năm rồi), còn nông dân thì không
còn được làm chủ đất ruộng của mình lại còn bị nhà nước muốn truất quyền canh
tác lúc nào thì truất, lấy đất để làm sân golf hoặc bán cho các nhà tư bản nước
ngoài. Ôi ! hai giai cấp công nhân và nông dân là “giai cấp tiên phong và tiên
tiến” của chế độ, nhìn mức sống của họ hiện nay so với “giai cấp mánh mun hiện
tại” sao nghe nó mỉa mai quá chừng. Và còn nhiều cái chủ trương và đường lối
quái gỡ khác không kể xiết để nhằm “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi
con đỏ xuống dưới hầm tai họa” của Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện tại. Đến nỗi
chính những người Cộng Sản phải lên tiếng. Như nhà văn Dương Thu Hương phát
biểu trên đài truyền hình Úc:
“Tôi không thể tin tưởng một
chút gì về chính phủ Hà Nội vì họ toàn là những con người hèn hạ và thấp kém.
Họ không có một tí nhân cách để tôi tin tưởng. Tôi hiểu rất rõ về họ. Họ chỉ
toàn là những con người ti tiện. Những lớp người có chút lý tưởng đã chết, chết
hết rồi. Bây giờ chỉ còn lại những người đê tiện, những kẻ ăn cắp gian manh một
cách trắng trợn.”
Còn ông Hoàng Minh
Chính, từng là Viện Trưởng Viện Triết Học Mác-Lê thì tố cáo:
“Bộ máy Nhà Nước chuyên
chính vô sản của Đảng Cộng Sản bao gồm Quốc Hội và các Hội Đoàn Nhân Dân
các cấp, Ủy Ban các cấp từ Trung Ương xuống tận địa phương mà chức năng chủ yếu
là chĩa mũi giáo vào nhân dân. Rồi bộ máy tuyên truyền khổng lồ từ Ban Tư Tưởng
Văn Hóa xuống các cấp địa phương mà chức năng là để lừa dân và đầu độc dân
lành.
Chính quyền Việt Cộng dùng chuyên
chính vô sản đã gây ra nhiều vụ đàn áp khốc liệt như các vụ cải cách ruộng đất,
nhân văn giai phẩm, xét lại chống Đảng, cải tạo công thương nghiệp, học tập cải
tạo, các vụ đàn áp tù đày quản chế vô thời hạn các nhà đấu tranh cho tự do dân
chủ và chức sắc các tôn giáo, và nhiều vụ đàn áp đẫm máu khác.”
Vậy thì việc hy sinh xương máu
của lớp người trong cuộc chiến vừa qua chỉ là những “cay đắng bi thảm trong kiếp
người của chính mình”. Sự hy sinh dù có vẽ vời thêm nhiều ý nghĩa chân chính
nhưng chỉ là những hy sinh vô ích.
Hiện nay dân số Việt Nam lên
tới 80 triệu mà một quyển sách có số bán ra chỉ 20.000 bản lại được xem là có
số bán cao nhất thì thật sự là điều đáng buồn cho sinh hoạt văn hóa của nước
nhà!. Tuy cũng đáng mừng nhưng không có gì đáng để quãng bá rùm beng. Động lực
làm cho NKĐTT có số bán cao nhất mặc dù được Hội Nhà Văn đánh giá là nhờ những
yếu tố làm nên sức hấp dẫn của những trang nhật ký như là: Một tác phẩm viết về
con người đối diện với chiến tranh. Để chia xẻ. Để thú nhận. Để tâm sự. Để tìm
thêm niềm tin. . . của một người cộng sản lý tưởng. Nhưng theo ý kiến của số
đông độc giả trong nước thì người ta đọc NKĐTT chỉ vì nó liên hệ đến người Mỹ,
một người Mỹ đã giữ nó suốt 35 năm. Người ta giải thích: Bạn có biết không ông Clinton,
Tổng Thống Mỹ đến Việt Nam, chính quyền cộng sản không hề ra lệnh cho
đồng bào đi đưa đón thế mà đồng bào đã tự túa ra đường đón mừng rất đông đảo,
trong khi khi nhà cầm quyền kêu gọi đồng bào phải đi đón các nhân vật lãnh đạo
Nga Tàu đến viếng Việt Nam thì chẳng mấy ai buồn tham dự! Thì đủ biết người
trong nước thích Mỹ như thế nào.
Ngày nay nhân loại đã bước vào
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên “a còng = @” của điện toán , tin
học. Trình độ dân trí của Việt Nam cũng tiến rất cao, đã bỏ xa rồi cái thời
chạy theo chủ nghĩa nầy, ý thức hệ nọ. Người ta sống rất hiện thực, người ta
nhận thức và phân biệt rất rõ mọi sự việc mà tuyên truyền khó lòng đánh lừa
được. Frederic Whitehurst không hề làm công tác tuyên truyền nhưng việc làm âm
thầm đầy tính nhân bản của anh được đề cập một phần trong NKĐTT đã làm cho bao
độc giả phải cảm động. Lời phát biểu về một nước Mỹ, về người Mỹ, về những
người Việt tị nạn cộng sản sống trên đất Mỹ của bà Doãn Ngọc Trâm và cô Đặng
Kim Trâm khi đến Hoa Kỳ để xem bản gốc hai tập Nhật Ký của Đặng Thùy Trâm (do
Federic Whitehurst bảo trợ), một lần nữa minh chứng luận điệu tuyên truyền của
Đảng Cộng Sản trước đây để gây hận thù là hoàn toàn sai sự thật, chỉ nhằm lừa
dối nhân dân Việt Nam, lừa bịp dư luận thế giới mà thôi. Tất cả đã đánh bại
hoàn toàn việc tuyên truyền của Hội Nhà Văn Việt Nam qua công tác xuất bản
NKĐTT, nó cũng trả lời cho câu hỏi mà phe Cộng Sản thường đặt ra: - Cộng Sản,
Tư Bản, Ai thắng ai ? từ lãnh vực chính trị cho đến các lãnh vực nhân bản, văn
hóa, xã hội, kinh tế. . .và nhất là nhân tâm.
Nguyễn
Công Lượng
Nam Cali
Nam Cali
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment