Thư của một học
trò – Liên Thành- gởi Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường
Thưa Thầy,
Con là Liên Thành,
là một học trò cũ của Thầy tại lớp Đệ Nhị B2, trường Quốc Học niên khóa
1958-1959. Có lẽ bây giờ vì tuổi đời đã cao hơn nữa thân mang bệnh tật nên Thầy
không còn trí nhớ tốt, vì vậy con xin nhắc lại đây những kỷ niệm của bọn con
lớp Đệ Nhị B2 niên khóa 58-59 tại trường Quốc Học Huế đối với Thầy.
Thưa Thầy,
Lớp Đệ Nhị B2 tụi
con có khoảng 50 đứa. Tụi con học ban Toán nên môn Việt Văn thường không hấp
dẫn và cũng không làm chúng con quan tâm lắm. Chúng con thỉnh thoảng bỏ lớp
trốn học kéo nhau sang Lạc Sơn ngồi nhâm nhi ly café, cảm thấy thú vị hơn phải
ngồi nghe giảng dạy môn Vạn Vật, Anh Văn v.v… Thế nhưng đối với môn Việt Văn
của Thầy dạy thì lũ chúng con không thiếu một đứa nào trong lớp. Cả lớp im lặng
ngồi há miệng say mê nghe Thầy giảng bài, nghe Thầy nói văn chương chữ nghĩa,
nghe Thầy giải thích điển tích. Có thể nói trí nhớ của Thầy siêu đẳng.
Thầy có tài ăn nói
lôi cuốn người nghe, và đặc biệt Thầy có một vóc dáng thư sinh, khuôn mặt hiền
từ, mái tóc bồng bềnh của một thi sĩ, một người lãng mạn nhẹ nhàng.
Thầy vào lớp,
không sách, không vở, không tài liệu cầm tay. Thầy nói thao thao bất tuyệt về
văn chương, chữ nghĩa thơ phú, điển tích xa xưa, đến những bài thơ cổ, cả lớp
vẫn ngồi im lặng say mê nghe Thầy nói. Và ngoài ra Thầy còn giảng dạy cho chúng
con những điều phải trái, tư cách làm người, đạo đức. Thầy quả là có một tấm
lòng nhân hậu thương yêu mọi người…
Rồi thời gian qua
nhanh, đất nước không còn có được những ngày tháng thanh bình. Người Cộng Sản
miền Bắc phát động cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam. Lũ chúng con, những
thằng học trò cũ của Thầy, cùng với các thanh niên cùng trang lứa tại khắp bốn
vùng chiến thuật Miền Nam, xếp bút nghiên xông vào chiến trận cùng nhau gánh
vác khổ nạn của quê hương. Chúng con chiến đấu không mang mặc cảm làm tay sai
cho ai, không bao giờ nghĩ mình là lính Ngụy. Chúng con chiến đấu không vì hận
thù. Chúng con chiến đấu chỉ vì lý tưởng, vì quê hương, vì xứ Huế dấu yêu. Lớp
Đệ Nhị B2 của Thầy có năm mươi thằng học trò. Thầy biết không, tàn cuộc chiến
chúng con chỉ còn lại dăm ba thằng. Hầu như tất cả đã ngã gục ngoài chiến
trường, ngã gục trước lằn tên mũi đạn của những đồng chí Cộng sản với thầy, để
bảo vệ đồng bào làng xóm thân yêu, trong đó có cha, có mạ, có chị, có em, có
hàng xóm gần, láng giềng xa, có xứ Huế, có sông Hương núi Ngự, có cầu Tràng
Tiền sáu vài 12 nhịp.
Thầy còn nhớ Văn
Đình Tùng không? Tùng có biệt danh Tây Lai bạn cùng lớp với con, Mễ, Huấn, v.v.
Năm học Đệ Nhất B5 hắn đi khóa 18 Võ Bị cùng với Lê Văn Mễ, Lê Huấn, còn con ở
lại học tiếp cho xong Tú Tài II sau đó quyết định vào Thủ Đức. Ra trường Võ Bị
hắn làm sĩ quan Điều Không của Sư đoàn 18, sau đó đi Mỹ học khóa đại đội
trưởng. Từ Mỹ về, Trung Úy Văn Đình Tùng ra làm Đại Đội Trưởng Đại đội Trinh
Sát Sư Đoàn 2. Trong một cuộc hành quân đại đội hắn nhảy xuống vùng mà tin tức
tình báo sai lạc, Đại Đội hắn bị hai tiểu đoàn quân thù vây kín, hắn bỏ súng
nhỏ ôm súng lớn, súng đại liên bắn chận quân thù cho lính thoát thân. Lính chạy
thoát được còn hắn bị quân thù đâm trên 100 nhát dao. Hắn chết đứng sừng sững
giữa trời, hiên ngang như Từ Hải chết trong truyện Kiều mà thầy đã dạy tụi con.
Còn nữa, một thằng
học trò nữa mà thầy không thể quên hắn, vì hắn là thằng phá phách nhất lớp Đệ
Nhị B2, năm sau lên Đệ Nhất B5 và đi Khóa 18 Võ Bị. Hắn là Lê Huấn. Hành quân
Hạ Lào hắn là Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng, và hắn cũng trở thành Cố Đại Tá Lê
Huấn Vị Quốc Vong Thân.
Thưa Thầy, năm
mươi đứa học trò của thầy ở lớp Đệ Nhị B2 đa số đều như Văn Đình Tùng, Lê Huấn.
Trước tháng
6/1966, con ở lính tại Chi Khu Nam Hòa. Tình cờ trong một lần hành quân để di
tản đồng bào từ làng Lương Miêu, Dương Hòa, mật khu của Việt Cộng, đưa đồng bào
về vùng an ninh của VNCH, cuộc hành quân phối hợp với một trung đoàn của Sư
Đoàn I Bộ binh, con gặp một vài thằng bạn trong lớp Đệ Nhị B2 như Trung Úy
Nguyễn Tần, Đại Đội Trưởng, Thiếu Úy Trần Vĩnh, Tiền Sát Viên Pháo Binh, và một
vài thằng nữa. Trên bước đường xuôi ngược của người trai thời loạn, gặp nhau
quả thật xúc động. Chúng con ngồi kể chuyện xưa, chuyện học trò, chuyện trường
Quốc Học. Chúng con nhắc đến tên Thầy với niềm kính trọng và trìu mến như chạm
vào một kỷ niệm đẹp của tuổi học trò.
Thế nhưng, định
mệnh thật trớ trêu. Bẵng đi vài năm, vào tháng 6 năm 1966 khi cuộc phản loạn
của Trí Quang, Đôn Hậu tại Huế đang ở giai đoạn cao điểm, con từ Chi Khu
Nam Hòa về giữ chức vụ Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Ty CSQG Thừa
Thiên-Huế, một đơn vị nhỏ trong đại đơn vị của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan dẹp loạn
Miền Trung. Con quá ngỡ ngàng Thầy lại ở trong hàng ngũ phản loạn tiếp tay cho
Cộng sản tàn ác chống lại chính quyền Quốc Gia.
Đời sống thật quả
thật có những tình cờ oái ăm làm cho con người gặp nghịch cảnh phải cứng họng,
cứng lưỡi chẳng thốt lên được một lời nói nào. Đó là trường hợp của con lúc bấy
giờ. Vì hai người nguy hiểm nằm trong hàng ngũ địch phá rối trị an tại Huế lúc
bấy giờ, một người là Thầy của con, Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường, và người kia là
bạn học từ những năm học tiểu học tại trường tiểu học Nam Giao là Nguyễn Đắc
Xuân.
Con sẽ phải đối
phó với họ bằng những hành động thẳng tay nhất. Những kẻ theo giặc, nếu bắt
sống được họ, thì phải bỏ tù họ và đày đi Côn Đảo với đề nghị bản án nặng nhất,
còn nếu phải chạm súng, con sẽ phải dùng hỏa lực mạnh nhất để triệt hạ ngay.
Trong hồ sơ cá
nhân của Thầy và Nguyễn Đắc Xuân mà lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt do con chỉ huy
đã sưu tầm cập nhật, thì Thầy là cán bộ trí vận hoạt động trong giới học sinh,
sinh viên tại Đại Học Huế, và trong lực lượng phản loạn của Trí Quang và Đôn
Hậu.Thầy là người của Khu Ủy Khu 5 Việt Cộng, và cán bộ Cộng Sản chỉ đạo
của thầy là Hà Kỳ Ngộ bí danh Thành, có phải vậy không Thầy?
Về Nguyễn Đắc
Xuân thì hắn cũng hoạt động trong tổ trí vận của cơ quan Thành Ủy Huế. Hắn phụ
trách về học sinh, sinh viên Đại Học Huế. Cán bộ Cộng sản chỉ đạo hắn là Hoàng
Kim Loan, Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế.
Tóm lại Thầy và
Nguyễn Đắc Xuân là hai tay nằm vùng thứ thiệt của Cộng sản từ năm 1963 và
cũng là hai tay rường cột của Trí Quang và Đôn Hậu trong mọi cuộc dấy
loạn từ 1963 đến 1966, và Mậu Thân 1968 tại Huế.
Thưa Thầy,
Đã có
điều gì làm cho Thầy bất mãn trong đời sống hằng ngày của một sinh viên Đại Học
Sư Phạm thuộc trường Đại Học Sàigòn? Chính phủ VNCH thời đó đã cấp học bổng cho
Thầy ăn học với số tiền là một ngàn năm trăm đồng (1500$) mỗi tháng, như Thầy
đã viết trong hồi ký::
“Năm 1957, tôi vào ở Sàigòn, trọ tại cư xá sinh viên Miền Trung ở đường
Bùi Quang Chiêu (nay là đường Đặng Thị Thu). Sáng nào cũng ăn phở Bắc Hà ở tiệm
Trường Ca đường Yersin ngay đầu phố. Học bổng sinh viên Đại học Sư Phạm khóa I
được 1500$ một tháng, mà trong khi đó tô phở chỉ có một đồng (1$), nên xem ra
tôi sung sướng hơn sinh viên bây giờ. Sáng nào cũng ăn phở, mỗi tháng chỉ mất
30$.”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển tập 1. Trang 28)
(Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển tập 1. Trang 28)
Đã có
điều gì làm cho Thầy bất mãn trong đời sống hằng ngày sau khi tốt nghiệp trở
thành một thầy giáo trung học đệ nhị cấp? Chính phủ VNCH bổ nhiệm Thầy dạy các
trường lớn như trường Quốc Học, Đồng Khánh, và với đồng lương của một giáo sư
có bằng Đại Học Sư Phạm bốn năm Thầy có thể ăn bao nhiêu ngàn tô phở buổi sáng?
Thầy cũng đã sống,
đã hưởng những ngày tháng sung túc về vật chất, và thanh bình tốt đẹp của Miền
Nam Việt Nam, bên cạnh người tình xinh đẹp dịu dàng Tôn Nữ Bảng Lãng. Vậy thì
tại sao và cái gì đã biến đổi Thầy từ một vị thầy giáo được học trò kính mến,
một nhà trí thức đúng nghĩa, một nhà giáo đạo đức hiền lành trở thành kẻ tàn
bạo vong ơn bội nghĩa, trở thành người Cộng sản sắt máu man rợ, tại sao vậy
Thầy? Tại sao? và Tại sao?…
Chúng con, những
thằng học trò cũ của Thầy, nghĩ mãi không ra, không có lý lẽ nào nghe được. Chỉ
có thể kết luận có lẽ Thầy bị bệnh hoang tưởng, bệnh ảo tưởng nghĩ rằng Cộng
Sản Miền Bắc là thiên đàng hạ giới, là chế độ biết chiêu hiền đãi sĩ, là nơi để
cho Thầy phát huy tài năng hiếm có của mình chăng? Chủ thuyết Cộng sản lôi cuốn
mê hoặc Thầy đến thế hay sao? Và một điều ngạc nhiên lạ lùng là cái gì đã biến
đổi Thầy từ bản chất của một người hiền lành, nhân hậu, thành một tên dối trá
không ngượng miệng, một ác quỷ giết người không gớm tay. Thầy say máu người còn
hơn ác quỷ Dracula.
Chẳng lẽ thầy bị
bệnh điên loạn, bệnh “thần kinh thương nhớ”? Hay Thầy cũng giống như tên PolPot
lãnh tụ Khmer Đỏ, một trí thức cũng như Thầy, đã ra tay giết gần 2 triệu đồng
bào Khmer của hắn ta để thực hiện Chủ Nghĩa Cộng Sản sắt máu mới thỏa lòng hả
dạ. Thật tình chúng con không hiểu nổi tại sao Thầy lại biến đổi nhanh như vậy.
Thưa Thầy chắc hẳn
Thầy không bao giờ quên sau năm 1975 tại Huế, trong một buổi trà dư tửu hậu tại
một nhà người bạn với rất đông bạn bè của Thầy tham dự. Một trong những người
bạn thân nhất của Thầy, người đã từng hoạt động với Thầy trong tổ trí thức vận,
kẻ đã từng chuyển tờ báo “Việt Nam Việt Nam” của Thầy vào Quy Nhơn, vào Sàigòn
là Giáo sư Bửu Ý, cũng là thầy dạy Pháp Văn của tụi con ở lớp Đệ Nhất B5 tại
trường Quốc Học, ông ta đã chỉ vào mặt Thầy và nói rất nặng lời. Con xin lỗi
thầy phải nói lại nguyên văn lời Thầy Bửu Ý nói với Thầy như sau:
“Tường, mi là một thằng trí thức sắt máu hèn hạ, giờ nầy mi chưa sáng
mắt, còn chạy theo liếm đít Đảng nữa hay sao?”
Có lẽ Thầy Bửu Ý
vẫn chưa hiểu hết con người Thầy Tường, vì Thầy Tường hoạt động cho Cộng sản từ
trước năm 1963. Đến năm 2003 mặc dầu đã cố gắng phục vụ Bác và Đảng, tạo được
biết bao nhiêu thành tích, bao nhiêu công trạng hiển hách, giết được vô số Mỹ
Ngụy, trong đó phải kể đến công trạng to lớn nhất của Thầy Tường đối với Bác và
Đảng là tàn sát dân Huế trong Mậu Thân 1968, lập Tòa Án Nhân Dân chôn sống cả
trên 200 tên phản động, vậy mà vẫn chưa được Bác Đảng cho Thầy trở thành đảng
viên đảng Cộng sản Việt Nam. Công chưa thành danh chưa toại, nên Thầy Tường
phải tiếp tục sự nghiệp dang dở, tiếp tục hạ mình luồn cúi đến cùng để đạt
được cái thẻ Đảng. Chỉ vậy thôi thưa thầy Bửu Ý! Xin cho con trả lời câu hỏi
trên của Thầy về Thầy Tường.
Mấy năm gần đây
khi Thầy lâm trọng bệnh phải ngồi xe lăn, nghe nói Thầy đã được bọn chúng cho
Thầy vào Đảng. Thầy đã có thẻ đảng trở thành đảng viên Cộng sản, con cũng mừng
cho Thầy là dù sao cuối đời cũng đạt được ý nguyện. Chúc mừng Thầy!…. Chúc mừng
Thầy!…
Có lẽ mộng ước của
một kẻ trí thức như Thầy muốn lưu lại một cái gì đẹp đẽ cho đời sau về mình, về
dòng họ mình. Nhưng thưa Thầy, Thầy đã khôn một thời và dại một đời. Thầy và
thằng em ruột của thầy là Hoàng Phủ Ngọc Phan đã lưu lại cho hậu thế và lịch sử
những nguyền rủa, phỉ nhổ, kinh tởm vào cá nhân hai anh em Thầy và làm xấu hổ
cho dòng họ của Thầy. Những nấm mồ tập thể của dân Huế còn đó thì tội lỗi của
cả hai anh em Thầy nhúng tay vào máu dân lành vô tội Huế Mậu Thân 1968 vẫn còn
đó. Cái mà Thầy đã làm cho dòng họ mình đó là dòng họ Thầy phải gánh chịu tội
ác không bao giờ tẩy rửa được này.
Thưa Thầy, dân
chúng làng Bích Khê, quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, nơi nguyên quán của Thầy,
họ đã từng hãnh diện là tại làng Bích Khê có được một dòng họ Hoàng Phủ.
Lịch sử đã ghi vào
năm 1882, Henri Rivière hạ thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng Đốc Hoàng Diệu thắt
cổ tử tiết vì không giữ được thành. Vị phụ tá Tổng Đốc Hoàng Diệu là quan Tuần
Vũ Hoàng Hữu Xứng đã tuyệt thực để tạ tội với Vua, tạ lỗi với đồng bào vì đã
không làm tròn nhiệm vụ Vua giao, và ông chỉ ngưng tuyệt thực khi Khâm Sai Đại
Thần Trần Đình Túc mang Chiếu Chỉ của Vua Tự Đức ra Hà Nội lệnh cho Tuần Vũ
Hoàng Hữu Xứng ngưng tuyệt thực.
Thưa Thầy, Thầy có
biết quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng là ai không? Quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng chính
là Nội Tổ của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan.
Nội Tổ
của Thầy danh giá như vậy đó, trung liệt như vậy đó, thì tại sao hai anh em của
Thầy nỡ lòng nào bôi xấu dòng họ mình, làm nhục tổ tiên mình, làm hoen ố tên
tuổi quan Tuần Vũ Hoàng Hữu Xứng, để đến nỗi sau Mậu Thân 1968, các vị bô lão
của làng Bích Khê vì quá hổ thẹn với hành động sát hại đồng bào Huế do hai anh
em Thầy gây ra, họ đã phải buộc miệng nói rằng: “Thói đời, hổ phụ sinh hổ tử,
tại sao lại có chuyện nghịch đời hổ phụ sinh cẩu tử”.
Thưa Thầy,
Thầy có biết
không, đã bốn mươi hai năm trôi qua, hằng năm mỗi lần Tết đến, khi nhắc đến
cuộc tàn sát kinh hoàng do Thầy và em ruột của Thầy là Hoàng Phủ Ngọc Phan gây
ra thì mọi người dân Huế không một ai là không kinh tởm, không nguyền rủa Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Nói đến tang tóc đau thương của 5327 sinh
mạng dân lành vô tội và hơn 1200 người mất tích ở Huế là nói đến các tên Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Thầy có biết không?
Như vậy kể từ
tháng 6/66, thầy trò chúng ta ơn đoạn, nghĩa tận. Chúng ta không còn gì để giữ
tình thầy trò. Biên giới đã được phân định. Thầy và Nguyễn Đắc Xuân thuộc về bờ
Bắc, và tôi thuộc về bờ Nam của dòng sông Bến Hải chia đôi đất nước tại vĩ
tuyến 17.
Trong chức vụ phó
Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt của Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên-Huế, trách nhiệm của
tôi là phải vô hiệu hóa mọi công tác của đám cán bộ, cơ sở nội thành Việt Cộng,
phải bắt giữ tất cả. Và một trong những mục tiêu quan trọng mà lực lượng Cảnh
Sát Đặc Biệt của tôi phải vô hiệu hóa càng sớm càng tốt đó là Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Nguyễn Đắc Xuân.
Tôi đã bố trí lực
lượng Cảnh Sát Đặc Biệt để bắt giữ Thầy. Còn nhớ trước khi Thầy và Hoàng Phủ Ngọc
Phan thoát lên mật khu, chiều hôm đó Thầy từ nhà tên Chính, cơ sở nội thành ở
đầu cầu Phủ Cam trên đường Phan Chu Trinh thuộc Quận III Thị xã Huế, di chuyển
sang nhà của Trịnh Công Sơn. Ăn cơm tối với Trịnh Công Sơn xong, thì hai cán bộ
nội thành thuộc tổ trí vận của Thành Ủy Huế đến đưa Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan
rời khỏi nhà Trịnh Công Sơn bằng chiếc xe hơi màu trắng của bà Đào Thị Xuân Yến
tức bà Tuần Chi chạy lên Chùa Linh Mụ. Rồi từ đó Thầy và Hoàng Phủ Ngọc Phan đi
đường bộ qua ngã Long Hồ Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Hương lên vùng mật khu núi
Chuối, tức núi Kim Phụng. Hai cán bộ nội thành đón hai anh em Thầy không ai
khác hơn là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm đóng vai cận vệ, và tài xế là Lê Cảnh
Đạm, Tổng Thư Ký trường Đại học Y Khoa Huế.
Tôi là một sĩ quan
tác chiến mới vào nghề an ninh tình báo nên chưa đủ bản lãnh và kinh nghiệm của
nghề nghiệp, cũng như chưa đủ bản chất lạnh lùng của một sĩ quan tình báo khi
thi hành công tác. Vì vậy tôi đã vấp phải một lỗi lầm rất lớn để phải ân hận
suốt đời, là giao công tác hệ trọng nầy cho viên phụ tá của tôi, anh Xuân,
trưởng ban Hoạt Vụ chỉ huy, còn tôi đứng khá xa, vì tôi không nỡ làm hành động
trò trực tiếp bắt thầy. Nếu tôi đích thân chỉ huy lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt
vây bắt Thầy tối hôm đó, chắc chắn thầy không tài nào có thể chạy thoát được.
Tại sao? Lý lẽ duy
nhất để biện minh cho hành động tắc trách của tôi lúc đó là đạo nghĩa, là giáo
dục của phụ thân tôi, là giáo dục của học đường Miền Nam, của thầy Hoàng Phủ
Ngọc Tường, của xã hội Miền Nam Việt Nam: Một chữ nên thầy một ngày nên nghĩa,
nên tôi đã không thể vượt qua hàng rào đạo đức lễ giáo. Lúc đó tôi cũng chưa
được huấn luyện và dày dạn phong sương để có thể có được hành động và trái tim
lạnh lùng của một sĩ quan tình báo. Hành động trò đi bắt thầy là một hành động
khó có thể chấp nhận được. Cũng vì lễ giáo đó mà nay tôi phải ân hận suốt đời,
đã để xổng một con ác quỷ! Tôi đã không hiểu thấu một lý lẽ quan trọng: Nếu cần
phải vô hiệu hóa một người để cứu một trăm người, thì đó là chuyện phải làm.
Không còn gì để
nói về tình thầy trò giữa tôi và Thầy. —
Liên Thành.
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment