BỜ NƯỚC ĐỤC
Thử hình dung một con tàu đang rẽ sóng…Du khách tụ
họp trên boong ngắm biển ngắm trời, thay phiên chụp những pô hình solo hay tập
thể trên cái nền lô nhô đảo nhỏ đảo to dưới bầu trời đang bừng sáng vì vầng
dương vừa lấn được mấy lớp mây mù để phết nhanh lên mặt nước từng mảng rộng đủ
các cung bậc của màu lam. Trong khi đó nơi từng dưới trên cái ghế bành trưởng
giả có kẻ ngồi riêng một góc nhấm nháp đến chai bia thứ ba thứ bốn từ khi tàu
rời cảng mà vẫn chưa kích thích được chút nào thần khí lữ khách. Chiếc bách gắn
động cơ ấy là tàu Bạch Đằng của công ty du lịch Hải Phòng đang bập bềnh giữa
vịnh Hạ Long còn lữ khách là tôi, kẻ sắp thủ vai chính cho câu chuyện đang đi
lạng quạng mấy đường bái tổ này trong khi chờ đợi dưới bếp người ta luộc mấy
chú mực tươi mua lẻ từ chiếc thuyền chài xiêu vẹo vào lúc tàu ghé hòn Gà Chọi
hay hòn Mâm Xôi gì đó.
Từ lâu tôi đã biết lá tử vi mình khó được hân hạnh
kết thúc kiểu Kinh Kha hoặc Chu Thần nên tôi chỉ có thể chọc tức định mệnh
những khi buồn chán bằng thủ đoạn vặt, chẳng hạn mua vé số tặng lão hành khất
mù hay như lúc này chơi trò un peu, beaucoup, pas du tout… với mấy cọng râu mực
vừa được bưng lên còn bốc hơi nghi ngút trên bàn. Nói cho dễ hiểu, tôi thuộc
loại bất đắc chí đã và đang ru ngủ mình bằng các thú vui vô tích sự : tiếu ngạo
giang hồ ngắn hạn, ái ân vụng, phá phách nhặng xị nơi mấy quán vỉa hè. Không
hẳn là hoàn toàn buông thả cho số mạng vì lắm lúc nổi máu trượng phu tôi cũng
muốn làm một điều gì chứng tỏ sự hiện diện của kẻ mày râu với trời đất núi sông
nhưng lá số hẩm hiu của tôi lúc nào cũng vuột hụt những khoảnh khắc gay cấn có
triển vọng được người đời sau tặng cho mỹ từ oanh liệt, hào hùng, đại loại…Nói
có sách, mách có chứng; và tôi sẽ cho phép nhân vật phụ nấn ná nơi hậu trường
thêm vài phút, đơn độc như cánh hải âu và đăm chiêu như cá mắc cạn để tác giả
rảnh tay chỉnh đốn lại các thứ tình tiết lôi thôi còn thiếu mạch lạc để tiếp
tục hầu chuyện quí vị ---
Tôi đã mất liên lạc với hắn từ bao giờ không biết,
kể từ đêm chia tay nơi cái quán lộ thiên đầy bàn ghế khập khiễng bày giữa đống
gò mả dưới bầu trời nhờ nhờ không trăng sao chéo góc chợ Bà Chiểu. Lúc ấy vào
khoảng tháng mười hay mười một, cuối mùa mưa với những trận bão rớt và không
khí thường ẩm đặc hơi nước. Tôi còn nhớ cả hai đã hút thuốc và nhắp trà đậm đến
đắng chát cổ họng – cái thú uống trà đậm kéo theo hơi thuốc lào tôi đã học ở
hắn - để giữ thần trí được tỉnh táo cho cuộc chuyện trò. Chu đã bị bắt trong
chuyến ra Hà Nội tiếp xúc với nhóm văn nghệ bí mật và công an đã lục soát nhà
anh chàng tuần qua, hắn thông báo tin mới nhất. An ninh văn hóa đã được tung ra
để lùng cả nhóm. Vợ Chu nhắn cho hắn biết là bọn họ đã lục thấy tấm hình chụp
chung vào dịp sinh nhật chồng năm trước mà cô ta chưa kịp đốt. Đêm ấy Chu, hắn,
tôi cùng hai thi sĩ khác đã khí phách và lãng mạn quá đà, các bài thơ thay
phiên vang rền giữa vòng vây của câm lặng ô nhục, những cốc rượu trong cất từ
một làng miền Bắc xa xôi đốt bừng tâm sự thời thế, âm ỉ từ bao mùa dưới đống
tro lạnh bỗng phựt lên ngọn lửa bất diệt của sáng tạo và lương tri. Bây giờ
phải trả giá cho sự thách thức! Tôi nhìn ánh mắt sâu thẳm hơn đêm tối thỉnh
thoảng ánh lên một đóm sáng man dại dưới vầng trán khổ hạnh của hắn, khóe miệng
nửa khinh bạc nửa âu lo. Tôi thương hắn và thương mình. Loài thú bị dồn đến bờ
vực, trước mặt là nhà tù và bản án.
Từ đêm đó hắn biệt tăm. Gần cả năm sau, vài mẩu tin
mơ hồ cho biết hắn bị tóm trong lúc tìm cách vượt biên ở một bờ biển. Nhưng
cũng có mấy con phe đường dài tháng tháng ngồi tàu Thống Nhất vào nam ra bắc
tình cờ gặp tôi trên đường Tự Do cũ lại loan tin hắn đã thoát an toàn. Vậy thì
hắn đang bó gối sau rào kẽm gai ở Chimawan hay ôm chấn song nhà giam nội địa
nào đó, có trời mà biết! Thật tình lúc ấy tôi đang lo sốt vó cho thân mình, hơi
đâu đi kiểm chứng những tin đồn thất thiệt. Quan tâm duy nhất của tôi là làm
thế nào đối phó với những thẩm tra, bắt bớ sắp chụp lên đầu. Tôi không chút
nghi ngờ rằng lý lịch mình đang nằm trong một chồng hồ sơ của bộ nội vụ, và các
“chuyên gia” tu nghiệp tận Liên Xô, Trung Quốc đang tốn không ít chất xám để
điều nghiên trường hợp tôi: đường đường chính chính là công dân hợp pháp vừa là
cán bộ nghiên cứu của một viện uy tín. Đằng sau mấy bài khảo cứu, tham luận về
mô típ Angkor hoặc thủy mặc đời Tống, tôi là một dấu hỏi vô can hay nhồi thuốc
nổ? Tình thế thật là tấn thối lưỡng nan, dở đi dở ở. Đào tẩu đi chui ư? Thành
công thì không nói, ngược lại thất bại thì chẳng khác chi tôi tự tố cáo mình.
Biết đâu các tâm lý gia của chế độ đang mĩm cười ngắm tôi tự đấu trí từng ngày!
Con tàu vẫn rẽ sóng, tiếng động cơ nổ êm giữa bao
la trời nước. Nhấp nhô quần đảo từ xa như tranh lụa trong sương. Hơi men thấm
dần bốc thành cảm hứng, đây là lúc ứng khẩu vài câu tuyệt cú ghi lại một ngày
đáng nhớ trong đời. Giai nhân đang chờ được chinh phục, tình yêu như chai bia
sủi bọt chỉ cần thêm mồi nhắm của nghệ thuật tán tỉnh. Đêm trước ở Thiên Trù
vào lúc mặt trời sắp tắt nàng đã chẳng cho phép tôi nắm lấy bàn tay nhỏ mềm của
nàng là gì? Rồi đứng giữa những tháp gạch lở lói, trên đầu đàn dơi muổi rít ré
chập choạng, nàng đã chẳng để tôi vuốt ve mái tóc hay sao? Nếu không có ông bố
tháp tùng trong chuyến viếng chùa Hương biết đâu điều hào hứng hơn đã có thể
xảy ra làm chất liệu tươi mát cho mấy bài thơ tình tôi nhét vội vào túi xắc
nàng lúc xuống đò trở ra suối Yến!
Có thời buổi nào kỳ quái cho bằng những năm tháng
ấy khi mà bất cứ người nào cũng có hai bộ mặt: vị lãnh tụ anh minh thực chất là
tay cuồng tín sát nhân, nhà triết gia cách mạng lúc trùm chăn ngủ là tên đớn
hèn xảo trá. Thế thì làm sao nàng có thể nhận ra bên dưới tóc râu lãng mạn, ánh
mắt nam châm và y phục trang nhã là một gã mang án treo với sợi thònh lọng vô
hình quanh cổ nối dài đến một ngôi biệt thự xinh xắn nào đó mà chủ nhân là thứ
chằn tinh thời đại biết dùng điện thoại và mật mã điệp báo. Nhung tôi đã quyết
định thí con xe cuối. Món vàng đóng hụi tự do đã biến thành chiếc thuyền nằm
đâu đó nơi bờ kinh cửa lạch. Còn vài tuần nữa là hết tháng bà già đi biển;
người học trò cũ dưới Rạch Giá đã chuẩn bị xong gạo, nước, dầu. Lần thẩm tra
gần đây nhất tương đối suông sẻ; hai tên công an nội vụ mới ra lò sau hơn năm
tiếng đồng hồ chất vấn, soi mói sắc diện, đã yêu cầu tôi ký tên vào bản tự khai
rồi thân thiện tiễn ra cửa. Tất nhiên các điều cung khai của tôi đã được dàn
dựng một cách tự nhiên hữu lý nhất - với kinh nghiệm chạm trán nhiều lần với
bạo quyền hắn đã căn dặn tôi trước khi chia tay sách lược đối đáp với bọn lấy
cung để bảo vệ lẫn nhau, nếu chẳng may không thoát khỏi tay chúng. Nhưng tôi
không thể cả tin vào thần kinh của mình cũng như của anh em trong nhóm đang nằm
trong tình trạng căng thẳng âu lo thường xuyên. Thú thật nhiều bận đi uống rượu
khuya về, thoáng thấy bóng công an là tự nhiên có phản xạ muốn trốn chạy. Chịu
đựng mãi sức ép cân não ấy đến thánh sớm muộn cũng bị bệnh tâm trí!
Tuy vậy con người là thứ sinh vật khó lường. Chỉ
chịu khó nằm yên vài tuần như con thú trúng đạn tìm nơi ẩn náu chờ ngày hồi sức
để chạy biến vào rừng; thế mà chẳng biết cái gì thôi thúc tôi làm việc liều
lĩnh: đột nhập thám thính miền đất nhiều tai ương. Vụ Chu sa lưới năm nọ chẳng
là một bài học đáng nhớ hay sao? Sĩ khí chăng, hay máu mạo hiểm ngông cuồng?
Hoặc vài hình ảnh văn chương lâu nay chìm khuất tiềm thức bỗng bật tiếng gọi
mời? Một ràng buộc danh dự với bản thân không cho phép ngoảnh mặt làm ngơ trước
số phận bằng hữu khiến tôi quay lại đấu trường lần cuối? Chỉ biết là tình cờ
trong một tiệc giỗ khi người anh họ đang làm hướng dẫn viên du lịch cho biết
công ty anh ta sắp tổ chức chuyến du ngoạn ra Bắc và nhân tiện ngỏ ý thu xếp
một chỗ trong đoàn nếu tôi thích; tiền nong lúc ấy không còn là vấn đề, tôi gật
đầu chụp ngay cơ hội.
Cái tin đồn hắn bị tóm là sự thật. Đáp máy bay
xuống Nội Bài lên xe ca vừa đến Hà Nội là tôi biến. Phải di chuyển xuất kỳ bất
ý với bản đồ trong túi và học thuộc đường phố như dân bản địa. Trong khi đám du
khách còn đang lục tục kéo nhau vào một quán ăn ở phố Trường Tiền, tôi đã chễm
chệ trên chiếc xích lô tồi tàn kêu rên tựa bà già thấp khớp trực chỉ địa điểm
liên lạc. Mười lăm phút sau tôi có mặt trong con hẻm chật trên đường X có hai
hàng sấu lêu nghêu, bước nhanh vào quán rượu trá hình chỉ có giới văn nghệ chui
thăm viếng. Chủ quán - một nhạc sĩ nằm ngoài mọi biên chế - giữa hai hớp đế và
mấy hạt lạt rang đã lược thuật chuyến đi thất bại của hắn. Trong lúc cấp bách
chẳng tìm được ai giúp và không thể vượt biên ở Sài Gòn vì phí tổn quá lớn, hắn
trở ra Hà Nội chạy vạy góp một số tiền rồi nhanh chân lẻn xuống Hải Phòng. Giá
vượt biên ngoài này chỉ tốn một hai khâu và giỏi lắm hắn cũng chỉ có thể vơ vào
được khoảng đó. Nằm mấy tuần ở xóm chợ Sắt với tay bạn buôn đồ ngoại, họ tìm
cách móc nối với đám dân chài Quảng Ninh. Nhưng ra đến Hòn Gai thì động, tổ
chức cũng như khách chưa kịp tháo thân đã bị tóm cổ ráo. Tin mới nhất cho biết
là hắn đang làm bạn với Chu đâu đó trong các xà lim Hỏa Lò. Vậy là mọi sự sáng
tỏ!
Không tiện nấn ná thêm tôi làm một hơi cạn ly cay,
chào chủ quán rồi quay về tiệm ăn nuốt vội bát cơm khô khốc với mấy miếng thịt
dai – tránh cho mình một sự vắng mặt quá lâu bởi tôi chắc đến tám chín mươi
phần trăm là gã hướng dẫn gốc Bắc Ninh kèm đoàn du khách có dính dáng đến Mai
Chí Thọ nhiều hơn là đền Hùng và Văn Miếu. Vài hôm sau lợi dụng chương trình
thăm viếng ba mươi sáu phố phường, tôi tranh thủ nhờ người đưa đến cư xá Y tìm
thăm vợ con hắn. Tôi muốn giúp gia đình nhỏ đáng thương ấy một ít tiền, và chủ
yếu hỏi chị vợ xem có cất được một tập thơ chép tay nào của chồng hay ít ra có
thể chỉ cho tôi các nơi gửi gắm mớ sáng tác của hắn. Tôi đã nhủ bụng, ngay từ
khi lên máy bay ở Tân Sơn Nhất, dù nguy hiểm đến đâu cũng tìm cách mang về một
cái gì của bạn. Ước ao lớn nhất của tôi là giải thoát các tập thơ của hắn rồi
tìm cách mang ra nước ngoài. Nhưng, như đã nói từ đầu, số tôi không khá.Vợ hắn
cho biết, khi bị bắt hắn mang trên người cái túi duy nhất đựng tất cả bản thảo
của nhiều năm sáng tác. Rồi sau đó, qua mấy lần khám nhà công an đã cướp đi
những giấy má còn lại, kể cả nhật ký và thư từ bè bạn.
Thế là tôi chẳng còn cơ hội đóng vai đặc nhiệm giữa
Long thành! Ngay cả hai địa chỉ ám muội ở đường X và cư xá Y, những nơi tôi vẫn
hình dung trong đầu như bẫy sập của lũ săn người rình bắt con mồi – tôi đã đến
và đi an toàn. Giá có một bóng đen đằng sau một gốc sấu già hoặc ngách cầu
thang nào đó nhảy ập vào tôi với còng và súng cho các nhà chép tiểu sử sau này
có thể thêu dệt thêm các tình tiết ly kỳ. Hay là trong trường hợp tôi, nói theo
tiếng lóng nhà nghề, người ta đã áp dụng kế sách “sợi dây dài tối đa”, có nghĩa
theo dõi từ xa trong nhiều năm trước khi quyết định hành động đối với kẻ tình
nghi…
Giờ tôi phải làm gì? Dĩ nhiên không thể bắt chước
Rambo đột nhập ngục thất hay phá pháp trường! Thành thử có thể xem chuyến Bắc
du với tiết mục chính là cuộc croisière Hạ Long này như một trò hành hương hơi
buồn cười đi ngược lại con đường khổ nạn của hắn, được tô điểm với chút hơi men
và phấn hương con gái. Âu cũng là một cách họa vận lập dị cho hoàn cảnh hắn,
nhà thơ câm nín đang bó mình trong bốn vách tù hãm. Và tôi có thể hình dung cái
nhếch mép ngạo đời của tên bạn nếu hắn biết được sự đối chiếu và liên tưởng kém
ý vị này.
Đúng vậy - hỡi độc giả thân mến - những buổi đàm
đạo thơ văn nghệ thuật giữa chúng tôi trước đó đâu chỉ thuần phản kháng và liều
chết xông vào kẻ thù! Giả sử một ngày nào đó cái truyện ngắn này lỡ lọt vào tay
hắn, chắc chắn kẻ tri kỷ ngoại hạng của cái đẹp vô hình sẽ bịt mũi chế nhạo tôi
là đã nhấn quá mạnh bàn đạp dương cầm. Nói theokiểu hắn, nên dạo sostenuto mấy
gam thứ thì hơn… Dù đang sống giữa trại tù mênh mông và sự bất ổn sinh mạng
từng giờ, loại người sành điệu không cần gào rống lên gân bởi Novalis đã chẳng
từng nói đại ý rằng các anh hùng chỉ thích đọc và làm thơ tình mà thôi hay sao?
Đổi nghề là vừa, nhà múa bút tài tử hỡi!
Linh tính phái đẹp quả khó lường. Nhắc đến tình yêu
là sự bất ngờ sẽ diễn ra. Nấp sau cánh gà từ lâu, nàng không thể xuất hiện đúng
lúc hơn để tiếp sức một cách duyên dáng cho cảm hứng sắp cạn của tác giả. Và
Colette hoặc Edith Piaf cũng sẽ ngạc nhiên khi nghe giọng oanh vàng cất tiếng:
- T’ennuies?
- Trop! Tôi đáp,vừa tiết kiệm được một âm tiết.
- Tới rồi!
Ngữ điệu khô khan thế này chứng tỏ người đẹp còn
giận tôi không ít, gã vũ phu táo tợn đã lợi dụng khoảnh khắc hoàng hôn hôm
trước làm cho nàng xao xuyến nhớ nhung, đúng không nào? A, tàu sắp cặp bến, em
nhắc tôi chuẩn bị động tác ga lăng bế kiều nữ lên bờ chứ gì! Ô kê, đắc co…Vứt cọng
râu mực nhai dở vào ly bia, tôi dìu nàng trở lên boong. Còn mấy cấp thang cuối
tôi giả vờ say, ngã vào người nàng thều thào:
- Tôi yêu em, yêu em như tên tù yêu manh chiếu rách
nhà lao!
- Đừng mượn hơi men giở trò cải lương!
Nàng bật cười xô tôi ra, không hiểu mấy chai bia
chứa loại hóa chất nào khiến cho tôi bật ra lời so sánh văn chương lạ lẫm. Dù
sao nàng cũng cho phép kẻ hèn nắm tay một giây trước khi cả hai cùng đặt chân
lên sàn tàu giữa thanh thiên bạch nhật. Bóng dáng ông bố cựu thương gia chưa kịp
xuất hiện để can thiệp vào tình duyên mới chớm của đôi trẻ thì một biến cố có
vẻ nghiêm trọng lắm vừa xảy ra đúng vào lúc ấy. Bám vào lan can hông tàu, du
khách nhao nhao thò đầu ra nhìn vừa tích cực tham gia bằng bộ máy phát âm của
từng người:
- Chìm đâu mất rồi, chìm lỉm rồi!
- Bà ta biết bơi không?
- Nhảy xuống cứu cho nhanh, còn bàn luận cái gì!
Chúng tôi kịp trờ tới để nghe ông bố đạo mạo của
nàng phán ra câu minh triết kia. Tức khắc, như một cung phản xạ vừa được thiết
lập giữa cái miệng và cặp chân trước đó còn quá cách biệt bởi tính bất ngờ của
tai nạn, có bóng người phóng xuống biển. Sau năm bảy giây lặn ngụp, hai cái
đầu, một có tóc một không, nhô lên cùng lượt. Đám du khách hiểu ra ngay động cơ
đã khiến nhà sư trẻ kia ra tay nhanh như thế. Người đàn bà trượt chân khi leo
thang từ tàu lớn xuống ghe nhỏ để vào bờ là bà cô của vị tu hành; cả hai luôn
luôn đi bên nhau những lúc viếng cảnh chùa hay khói nhang tụng niệm.
Chuyến đổ bộ của khoảng hai muơi người đồng hành
lên Hòn Gai sau đó diễn ra khá êm thắm, tôi ngồi bên cạnh nhà sư còn đang xuýt
xoa tiếc cái gọng kính ngoại đã chọn đáy vịnh làm nơi thoát tục vĩnh viễn. Như
trong đoạn phim của một đạo diễn cắc cớ, nàng với cha lại ngồi trên chiếc đò
khác từ từ cập vào bờ trước. Nhìn ngắm mái tóc kiều diễm phủ bờ vai mềm, tôi
chợt xúc động và suýt quên mất hắn, quên luôn những mắc xích tượng trưng khóa
tôi vào hắn ở cái khoảnh khắc của kẻ sắp nghiêng mình trước một tượng đài nặc
danh.
Không còn chỗ nào thích hợp hơn cho một cuộc vây
bắt và sa lưới. Khu thị tứ chỉ vỏn vẹn dăm con lộ đất rải đá lởm chởm tụ về cái
chợ chồm hổm bên cạnh mép nước bẩn đen ngòm bụi than do các mỏ đổ ra từ thời
Pháp thuộc. Tôi chịu khó quan sát mớ quang gánh của mấy mụ bán hàng không mặn
mà lắm với khách. Eo sèo ít cọng rau muống, vài con tép tanh tưởi, một trái cam
sành thiếu tháng khô queo bên cạnh một chùm dâu lạ tí teo như một nhánh tiêu
non. Thật tình khó thể tưởng tượng một cái gì bi tráng để làm nền cho đoạn văn
mô tả phút sa cơ của một thi nhân. Đi xa thêm chục thước, hiện ra một mái chùa
xưa từng trải qua nhiều dâu bể. Dấu vết các cuộc dội bom hơn mười năm trước còn
hiển hiện khắp nơi, ngay cả trước sân chùa. Tôi rảo quanh bồn nước với hòn non
bộ xấu xí, cố ý tìm xem có chú cá vàng nào đang vui hưởng thái bình ở chốn cuối
trời ni chăng nhưng vô ích. Buồn tình tôi lách qua cửa nhỏ tam quan lang thang
một vòng, hi vọng sẽ gặp được nàng cũng vừa đánh lạc được sự cảnh giác của phụ
thân tách khỏi đoàn du khách sang trọng đang diễn hành giữa mớ thúng mủng xác
xơ với đám trẻ nhóc đi chân trần lấm đầy bụi đất.
Hồi lâu vẫn chẳng thấy bóng kiều dù đã chú mục nhìn
các gian hàng lưu niệm bày mớ san hô, rong đá, hoặc vỏ sò vỏ nghêu ghép hình
con công con cò, cây dừa bụi trúc, tôi lạc lõng bước qua bến đò máy kế cận bâng
quơ ngó mông… Sau cả tuần lữ du vòng vo tôi nhận ra một điều gần như phổ biến
ngoài này: chỉ có những gì thuộc đất trời là hữu tình, phần nào bị bàn tay con
người cải tạo là coi như phải chịu cùng số phận như nhau! Nhà cửa chật chội đổ
nát, phố xá bưng bít ngột ngạt, dân tình nhẫn nhục khắc khổ; lịch sử có vẻ đang
chống trả mỏi mệt với sự tàn tạ trên một mảnh đất già cằn. Chỉ bọn nhóc tì và
các cửa hàng rau mậu dịch là phần nào thoát khỏi cái không khí ảm đạm thâm căn
ấy.
Chẳng còn lý do nào để nán lại nơi này. Tránh con
mắt soi mói của bọn thiếu niên với sắc mặt vừa âu lo vừa thiếu thốn, tôi lại
thả vật vờ xuống bãi chợ bên mép vịnh nhìn độingũ ghe thuyền đậu chen nhau
trong một cái vũng không rộng lắm. Trên sườn đồi đá bên phải là các dãy cư xá
tươm tất, không hiểu dành cho lãnh đạo ngành mỏ hay chức sắc địa phưong? Tôi
lại vu vơ nghĩ đến hắn, giờ phút này đang đợi kẻng báo cơm hay ngắm trời mây
ngoài chấn song để biến không gian xà lim thành cảm hứng trữ tình. Tôi không thể
không nhớ lần đầu gặp nhau một chiều mưa bão trong cái quán cóc ngập nước, mỗi
lần có chiếc vận tải chạy ngang là sóng tràn như biển… Sài Gòn giữa cơn địa
chấn, những con người thất thần đi tìm nhau giữa lũ hình nhân có cái đầu được
thay thế bằng ống loa, hắn với tôi như hai kẻ từ hành tinh lạ tình cờ nhờ vào
phép mầu của văn chương lại trở thành thân thiết hơn ruột thịt. Đúng là lộ
phùng tri kỷ! Trong óc tim trống vắng trước cảnh vô tâm của đá, nước, trời bỗng
lóe lên ý thức hơi muộn màng. Tôi đã sống những ngày tháng cô đọng mãnh liệt,
sự tao ngộ đã giúp tôi thăng hoa mọi khổ nhục và khát vọng, giúp tôi nhận ra
diện mục của chính mình giữa cát bụi bể dâu. Cảm ơn mi, kẻ dám nuôi cuồng vọng
vá trời bằng sáng tạo; cảm ơn mi, trái tim hồn nhiên hớn hở như trẻ thơ khi bắt
gặp bất cứ âm ba nào của chân mỹ, dù là nét vẽ hay điệu hò mộc mạc đơn sơ nhất.
Biết bao giờ ta lại có thể kéo mi về nhà dùng bửa cơm đạm bạc để được nghe mi
nửa vui nửa buồn thốt ra câu nói chân tình sau khi ăn một hơi ngon lành mấy bát
với người bạn mới quen chưa trọn một buổi chiều:
- Ở Việt Nam, thơ ca không thể sánh với cơm gạo!
Và làm sao ta đoán được rằng lời đối đáp ba hoa của
mình hôm ấy sau khi vấn đưa cho mi điếu thuốc ngon lại có cơ trở thành một câu
nói tiên tri:
- Và trước lúc hành quyết, tử tội thường xin điếu
thuốc chứ đâu có tên nào đòi thơ Lý Bạch hoặc nhạc Chopin!
*
Hình như đoạn đường về bao giờ cũng mất ít thời
gian hơn bận đi, và một lần nữa, tôi lại kiểm tra kinh nghiệm ấy. Đứng gần nàng
phía sau lái – ông bố đang đánh giấc trưa trên ghế nệm từng dưới, chúng tôi
ngắm lại từng hòn đảo dưới bầu trời trong điểm vài cụm mây thơ thẩn. Chịu đựng
phản ứng hóa học từ đời này sang đời khác do các chất muối biển cộng với khí
trời, đảo nào cũng giống cái răng sâu khổng lồ bị khấu mòn dưói chân nơi tiếp
xúc với mặt sóng. Ấy là chưa kể hàng vạn cơn mưa từ trời cao dội xuống xoi
thủng thành hang động. Tấn tuồng âm dương bền bỉ ấy từ bao triệu năm đã tạo tác
vô số hình thù, và chúng tôi lại tiếp tục chơi trò đặt tên cúng cơm đã có từ
thuở nào không biết. Chỉ tay về một đảo xa, nàng nói khẻ như cho riêng tôi:
- Hòn Trái Tim kìa!
- Phải gọi là khối đá Tương Tư Tuyệt Vọng chứ! Tôi
không đồng ý đáp lại.
Rồi dăm phút sau:
- Ô đẹp quá, hòn Cô Phụ kìa!
- Bậy, nó giống con chó ghẻ hơn. Bonsoir, đảo Cầy
Tơ!
Bận này thì người đẹp giận thiệt và giận dai. Đến
khi bọn phó nhòm đưa hình – ngoài này kỹ thuật ảnh đen trắng cũng chạy đua với
Vũng Tầu: sáng chụp chiều giao, phòng tối trang bị ngay dưới hầm tàu – nàng
ngắm một mình không cho tôi ghé mắt và chẳng tặng chàng tấm nào để lưu niệm.
Chàng giả bộ thất tình lững thững một bóng ra mũi tàu, nhập vào nhóm du khách
đang chờ đợi giây phút lịch sử khi con tàu vượt qua lằn nước vô hình chia đôi
sông biển ở cửa khẩu sông Bạch Đằng.
Chiều đang ngã bóng trên sông nước. Mấy cánh buồm
đi ra cửa sông, gió phần phật trên hai tấm bạt rộng vá víu chằng chịt. Lác đác
vài bóng chim trên bờ sậy xa xa. Cửa sông mênh mông, lớp lớp sóng cuồng hòa âm
cùng gió lộng. Mùi hương quen thuộc phảng phất, tôi ngoảnh lại – nàng đang đứng
bên cạnh hồi nào. Có nên mừng hay buồn cười cho sự may mắn và chút hạnh phúc
nhỏ của mình? Tôi tự nhủ thầm, đây là Bạch Đằng Giang và mình đang đứng giữa
con sông đã gợi hứng cho bao đời văn nhân thi sĩ.Tôi cố hình dung một hình ảnh
đẹp về hắn vào lúc bó mình trở lại đoạn sông này, cố liên tưởng đến các tranh
Tàu minh họa Tam Quốc hay Thủy Hữ, các danh tướng lúc sacơ râu tóc dựng đứng
trước kẻ thù. Nhưng lý trí bình thường trong tôi kéo tưởng tượng về sự thật tồi
tàn. Hắn, bị còng hoặc hai tay trói quặp sau lưng, mắt miệng dập bầm thâm tím
vì mấy cú đấm dạo đầu, lăn lóc trên sàn hay hầm tàu như con vật sắp bị chọc
tiết…
Ánh ngày nhạt dần trên mấy đám mây. Cửa sông Cấm
hiện ra đằng xa, chiếc tàu bớt động cơ hãm dần tốc độ. Vài ống khói nhà máy xi
măng bơ vơ giữa bức tranh chiều tà óng ánh như tranh họa phái ấn tượng. Tôi
hình dung hắn đang co ro trên sàn đá, buồn chán và tự trào ngâm nga câu nhất
nhật tại tù với lũ dán rệp và tôi cảm thấy mình là tên hề trong một đoản kịch
câm, mặt trát nhiều lớp phấn, xuôi xị và lơ láo trước hoàng hôn, chẳng diễn tả
được điều gì ngoài sự bất lực của mọi cảm xúc và ý nghĩ.
Chiếc Bạch Đằng bắt đầu lướt qua những thân tàu
viễn dương neo dọc theo bến cảng. Đoàn du khách rủ nhau tề tựu chụp vài tấm kỷ
niệm cuối. Có tiếng chuyện trò khá to như có ý muốn mọi người nghe thấy. Không
cần nhìn tôi cũng biết đó là cặp vợ chồng có tiệm cơm gần chợ Bến Thành, lúc
nào cũng diêm dúa chải chuốt dù đã quá tuổi trung niên:
- Nghe đâu cuối tuần có tổ chức nhạc sống và khiêu
vũ tại khách sạn chúng mình.
- Thích quá anh nhỉ! Đêm nay là đêm chúa nhật…
- Chứ còn gì nữa! Chỉ có điều không rõ ngoài này
nhạc sĩ còn biết chơi tango với pasodoble hay không?
Ngọn gió bỗng thổi mạnh hơn. Mấy sợi tóc nàng vướng
môi tôi. Và tôi chợt nhớ ra, còn đúng một tuần, chúa nhật tới tôi có cái hẹn
trong kia với tay học trò.
Khởi
thảo ở Boston, mùa thu 1987 & hiệu đính lần cuối tại Paris, mùa hè 2010.
Chân Phương
304Đen -
Llttm
No comments:
Post a Comment