Con Đò Rồi Đi Xa
Saturday, December 13, 2025
Trái Xoài Non Rụng Góc Sân Trường - Thuyên Huy
Trái Xoài Non Rụng Góc Sân Trường
Viết cho người con gái trại hầm Đà Lạt
xa xưa – có một thuở mơ làm tiếp viên hàng không.
1.
Nghỉ làm mấy ngày,
lên Đà Lạt chơi, sẳn dịp thăm người chị bà con ở bên trại Hầm, lâu rồi không gặp,
hơn một tuần lễ cũng đã đủ. Buổi trưa, hôm trở vô, chuyến bay Air VN từ Đà Lạt
về hơi muộn, Sài Gòn vẫn còn chút nắng chiều, chiều thứ bảy thì chiều nào cũng
như chiều nấy, phố xá cứ ngập người và người, từng cặp từng đôi, quần là áo lụa
muôn màu muôn sắc, xe cộ tấp nập ồn ào,
đường trên ngõ dưới.
*
Quàng túi xách lên vai,
thủng tha thủng thẳng, chậm bước ra cổng phi trường, phía trước từng đám người
ra người vô, gọi nhau ơi ới, đưa tiễn tiễn đưa, nhìn người ta mà Thịnh thấy lòng
mình chợt se thắt buồn, dù sao họ cũng còn có người để nhớ để chờ. Sau lưng
cũng vậy, người gọi người không thua gì phía trước, cặp trai gái trẻ, chắc là
tình nhân, đứng không xa Thịnh lắm, ôm nhau mừng rỡ, thấy anh, cười bẻn lẻn. Sắp
tới gần cổng ra, hai cô tiếp viên khá đẹp, nói vậy chứ cô tiếp viên hàng không
nào mà không đẹp, đang đứng mở túi xách, nói qua nói lại gì đó thì Thịnh cũng vừa
đi tới, nhưng khựng lại, ngạc nhiên không ít, một trong hai cô ngước lên, đứng
chết trân, túi xách trên tay chưa đóng, cả hai nhìn nhau, trố mắt, buột miệng “trời
ơi anh Thịnh, Hạnh hả?”.
*
Có lẽ thấy mình thừa
thải, cô kia khẻ chào, làm dấu hẹn, bỏ đi trước. Hai người bên nhau ra khỏi cổng,
không ai nói được lời nào, hơn sáu bảy năm rồi, nhiều chuyện muốn nói nhưng nói
cái gì trước đây. Hạnh đưa Thịnh tấm giấy nhỏ, ghi vội địa chỉ nhà, hẹn gặp lại,
xe đưa rước nhân viên của Air VN vừa ra tới, lên xe Hạnh vẫy tay chào, xe chạy
ra đường lớn rồi, Thịnh đứng nhìn theo, vui buồn lẩn lộn.
2.
Giờ ra chơi chiều,
trời có gió lớn từng cơn, mây xám xuống thấp, lãng đãng cuối làng nhưng không
mưa, ngồi trong lớp nhìn ra, góc sau sân trường, đám học trò lớp Ba lớp Nhì,
gái nhiều trai ít, đi vòng vòng ngay gốc cây xoài hoang, cao vời vợi, cạnh hàng
rào trường, giáp ranh căn nhà làm bún, ngó lên, xí xô xí xào chờ xoài rụng, Thịnh
thấy lòng mình chùng xuống, buồn tới không đợi, chuyện của những năm xưa, cũng
góc sân trường này, cây xoài giờ vẫn vậy, đám học trò ngày đó, trong đó có Thịnh
và Hạnh, cô bạn gái chung lớp suốt mấy năm trường làng, giờ chắc đã bôn ba đường đời trăm ngả.
*
Tốt nghiệp ra trường,
sau hơn hai năm ở trường tiểu học chợ Bún, Lái Thiêu, không biết trời thương
hay sao, anh được đổi về tỉnh nhà, rồi lại được về ngay cái trường tiểu học xã
cũ, cái trường mà Thịnh đã học tới lớp Nhất này. Hai ba đứa con gái, lượm được
mấy trái xoài non, lớn chừng hơn đầu ngón chân cái, thằng con trai lẻ bạn, thèm
thuồng nhìn, thấy tội nghiệp, chia cho luôn, vừa cười vừa nhai ngấu nghiến, đứa
nhăn mặt đứa ọ ẹ, chắc chát ngầm, chứ có ngọt gì đâu, nhìn cảnh đó, Thịnh da diết
nhớ người năm cũ, càng lúc càng buồn thêm, muốn quay mặt đi, nhưng lại muốn
hình ảnh đó sống lại phút này, có chút tiếc nuối “phải chi”. Trống vào học
vang lên, đám nhỏ chạy ùa vào lớp, gió thôi còn thổi nữa. Thịnh bước ra hành
lang thì thầm “mình ngày đó đó”.
*
Ngày đó, ngày chưa
biết buồn, Thịnh và Hạnh học cùng lớp, từ lớp Năm cho tới lớp Nhất ở trường tiểu
học, trường nằm giữa hai dãy phố, cách chợ xã một khu đất rộng, cỏ hoang đầy
hoa dại vàng quanh năm. Nhà Hạnh, tiệm tạp hóa cuối phố, gần cổng trường, ba má
Hạnh hiền hậu, vui vẻ với bà con trong làng, trong chợ, nhà Thịnh đầu phố trên
bên kia, gần lề tỉnh lộ, đi ngược về xuôi chừng không hơn mười mấy thước, má ở
nhà, ba anh hùn hạp với ai đó, có xưởng cưa máy trên tỉnh, hai bên gia đình chẳng
lạ gì nhau, câu chào câu thăm “chị chị anh anh, ông ông bà bà” là chuyện
thường tình ở chợ xã.
Bạn bè cùng lớp vui
đùa, thân thiện, chơi chung mọi thứ nhưng Hạnh và Thịnh xem ra gần gũi, thân mật
và khắng khít nhau hơn, nhứt là nhà cô nàng bán tạp hóa nữa nên kẹo bánh đem vô
lớp là chuyện nhỏ, Hạnh chia cho đám bạn kia ít mà Thịnh thì nhiều, sáng vô trường,
chiều tan trường về, chưa một lần đi trước, Hạnh phải chờ Thịnh về cùng lúc,
cùng lối mới chịu, mới vui. Bà con quanh chợ thấy hai đứa cứ khắng kha khắng
khít và cả gia đình hai bên cũng vậy, mỗi khi gặp nhau thì cái câu nói trước là
“cha coi bộ hai đứa này chắc lớn lên thành đôi nghe”.
*
Hạnh có thói quen, cứ
tan học về, lúc nào cũng một hai nhắc Thịnh, hễ thấy có giông, có gió thì nhớ
chạy ra sau trường, ngay gốc cây xoài hoang chờ rụng trái. Vậy đó, vì nhà Hạnh
gần sát bên, nên chạy ra trước, Thịnh ở đầu phố trên nên thường tới sau, Hạnh
nhanh nhẹn, tay chân lanh lẹ, có trái nào rụng thì cô nàng lượm trước, cất vào
túi áo, nhiều khi Thịnh chạy ra kịp thì trời đứng gió, cây xoài đã hết rung
rung, đành nhoẻn miệng cười trừ.
Hạnh khoái chí chọc,
chê “con trai gì mà chậm quá”, nói vậy, rồi hai đứa trở ra, ngồi trên bực
hành lang lớp học có cây xoài gần, Hạnh lấy mấy trái xoài non, tay xoa tay bóp,
rồi cô cậu cầm lấy, ăn mà nhăn mặt, chặc lưỡi, vậy mà vui cười nức nẻ. Cứ như vậy,
hết năm lớp Ba, lớp Tư rồi lớp Nhì, vẫn bên nhau lượm xoài non rụng trong những
ngày nổi gió, lên lớp Nhất, chắc thấy mình lớn rồi hay sao đó, thôi không còn
ham chờ gió đi lượm như những năm qua, chia nhau kẹo bánh nhiều hơn là ăn xoài
non đắng đắng, chát ngầm rát lưỡi.
3.
Hai đứa đậu vào lớp
đệ Thất trường quận, những ngày sau đó đi về có nhau, từ nhà xuống trường trên
chuyến xe lam chở khách của chú tư Hiến. Vẫn đi qua đi lại, chạy tới chạy lui
nhà đứa này nhà đứa kia, cũng bên nhau đứng nhìn cây xoài hoang nhưng không còn
lăng xăng, lượm trái non rụng nữa. Mỗi ngày mỗi lớn hơn, Hạnh đã có chút bẻn lẻn,
thẹn thùng hơn, Thịnh cũng vậy, ăn nói xem ra giữ ý giữ tứ hơn, tại sao, hai đứa
cũng chưa biết, lên đệ Tứ, bắt đầu nhớ, bắt đầu mong, bắt đầu chờ, mới bên nhau
đó mà đêm về cái nhớ vẫn lẩn quẩn trong đầu, lẽ trời mà, cái nhớ của tuổi biết
buồn.
Cuối năm đệ Tứ, vì
công việc làm ăn, ba má Thịnh bán nhà ở chợ xã, dọn lên tỉnh, mùa hè năm đó, bổng
dưng buồn dịu vợi, Thịnh lên trường tỉnh, Hạnh ở lại trường quận, hai đứa chia
tay, bịn rịn, cười mà rưng rưng nước mắt, đám ve sầu trên hàng rào cây Gòn của
trường chợ xã gọi hè, nỉ non và nảo nuột hơn những mùa hè năm trước. Cây xoài
hoang, góc sân trường không còn ai đứng nhìn mà thương nữa. Nấn ná, nói gì thì
cũng tới lúc từ biệt nhau, hẹn sẽ gặp lại nhưng không chắc là khi nào, ba má Thịnh,
ba má Hạnh buồn như nhau, bà con phố chợ xã cũng buồn lây, hai đứa xa nhau từ
đó, từ lúc Thịnh vẫy tay chào trên chuyến xe về tỉnh.
*
Vào học lại, không
bao lâu, Thịnh quày quả, hối hả trở lại chợ xã, lòng quặn đau, gia đình Hạnh đã
không còn ở đó nữa, tiệm tạp hóa bán lại
cho người quen, dọn về đâu đó dưới Cần Thơ, bà con trong chợ, thấy Thịnh đứng
nhìn mà thương, anh dựng xe ngay góc sân trường, nhìn lên cây xoài thật lâu, chắc
trái non sẽ không còn rụng nữa khi gió nổi
lên vì không còn người xưa lượm. Bất chợt muốn khóc. Thịnh lầm lũi trở lại nhà,
đường sao cứ xa vời vợi và chưa một lần ghé vào từ đó.
4.
Xuống Sài Gòn, Thịnh
vào Sư phạm, cùng lúc ghi danh, lang thang ghế giảng đường Luật, anh vui lòng với
mình, không háo hức, cứ vậy yên tâm, tuy nhiên cũng bày đặt ghi danh vừa học bên
này học bên kia xem sao như anh bạn cùng năm “cố vấn” chuyện tương lai, đường học
vấn. Nhớ ngày tháng cũ, vẫn nhớ cây xoài hoang góc sân trường ngày đó và nhớ
người xưa, không biết địa chỉ, không biết tìm đâu, có dọ hỏi một số bạn bên
Văn, ở Luật nhưng không ai biết. Cũng phải đành quên dù có nhớ, nhớ rằng mình
đã biết thương Hạnh từ lâu rồi, Thịnh tiếp tục đi về với tháng ngày tiếp nối.
*
Gia đình về Cần
Thơ, mua lại một nhà máy xay lúa ở Bình Thủy, đời sống ổn định, cũng như Thịnh,
cũng nhớ gay nhớ gắt, nhớ cây xoài, nhớ trái xoài, nhớ sân trường, nhớ cái xe
lam đi về hai buổi trường quận, nhớ nhiều lắm, tuổi cũng đã biết buồn rồi biết
thương từ năm đó. Đường xá cách ngăn, xa vời vợi, tờ giấy ghi địa chỉ nhà Thịnh
trên tỉnh, kiếm hoài mà không biết để đâu, ở chỗ nào trên tỉnh, muốn viết thư
nhưng địa chỉ đâu, hỏi ai bây giờ, đành nén lòng chờ, rồi ngày tháng qua, dần dần
nguôi ngoai nhưng không quên được. Hạnh vào học Luật ở trường đại học Cần Thơ,
qua hai năm, thi vào xin làm tiếp viên hàng không cho hảng Air VN, cùng với cô
bạn học cùng khoa, cùng năm.
Cả hai trúng tuyển,
đi làm từ đó, vẫn tiếp tục học lên, nhớ Thịnh, buồn tuy đã đi nhưng sầu cứ ở lại.
Nhưng thôi, để ba má vui lòng, cũng để nhẹ gánh thương lòng, Hạnh lập gia đình
với một anh bác sĩ, có phòng mạch ở chợ Cần Thơ, con trai cả của người bạn làm
ăn của gia đình, có nhà máy làm nước đá ở Rạch Giá, tương đối khá giả, hôn nhân
tạm gọi là êm thấm những ngày tháng đó. Nhưng không đầy một năm sau, chồng vốn
tính tình phóng khoáng, lăng nhăn, lén lút cặp bồ cô này cô nọ, xãy ra gây gổ bất
đồng, Hạnh không chịu được, cuối cùng hai người ly dị.
5.
Ra trường, về dạy
trên Lái Thiêu, hơn hai năm thì Thịnh cũng xong cái cử nhân Luật , điểm đậu
cũng khá cao, nghe anh bạn cùng khóa “cố
vấn”, người cố hết sức mình nhưng chỉ được cái Tú Tài Một, rớt Tú Tài Hai lần
này, đang ôn bài ôn sách, thử vượt cái Tú Tài Hai với tư cách thí sinh tự do lần
nữa, Thịnh cũng thử thời vận xem sao, gởi thư, nộp giấy tờ, đủ thứ, xin tập sự
với một ông luật sư có văn phòng, trên đường Hàm Nghi, ngó qua nhà ga Sài Gòn, thư
xin gởi đi mà cả năm nay chưa thấy động tịnh nhúc nhích, nghĩ tới anh chỉ cười
mà không buồn, vì con đường mình đã chọn.
Rồi bổng một ngày Thịnh
được đổi về tỉnh nhà, trở lại chợ xã xưa, dạy ở cái trường tiểu học, có hàng
rào cây Gòn, cái trường mà anh đã học năm năm, tràn đầy kỷ niệm của một thời nhỏ
dại, chợ xã vẫn cảnh cũ, nhưng không có người xưa, người mà anh không quên được.
Dạy được chừng hơn sáu tháng, thì nhận thư từ văn phòng xin tập sự nhận, anh âm
thầm mừng, từ giã đời “ông giáo làng”, một phần đời có nhiều kỷ niệm đẹp,
xuống Sài Gòn, tập sự luật sư chừng sáu bảy tháng nay.
6.
Xuống xích lô, chiều
chủ Nhật, trời nắng và thoang thoáng bụi, băng qua đường, đã thấy Hạnh đứng ngó
lên ngó xuống trước cái sân gạch nhỏ, căn nhà khiêm nhượng nép mình bên cạnh những
căn phố cao khuất nắng, gần rạp Nam Quang, ngó qua chợ Đủi, lưa thưa vài chậu
bông Móng Tay còn nở. Hạnh cười chờ Thịnh đi vào, cả hai bổng thấy vui, mà vui
gì thì không ai biết nói làm sao.
Ngồi đối diện trong
cái phòng khách nhỏ nhắn, khang trang, đơn giản, hai người nói cho nhau nghe,
chuyện của ngày xưa đó, nhiều lắm, không đầu không đuôi nhưng chuyện mà họ nhắc
tới không biết bao nhiêu lần, là chuyện mấy trái xoài non rụng trong góc sân
trường những chiều gió nổi, tới giờ nhớ lại vẫn còn thương cái vị chát ngầm,
đăng đắng, của một thời tuổi chưa biết buồn. Hai người nhìn nhau cười, tuy
không nói ra nhưng ai cũng muốn tìm lại chút vị chát ngầm đăng đắng đó, chút vị
đó, đang ngọt lịm trên môi mình như “một chút mặt trời trong nước lạnh”. (*)
Thuyên Huy
(*) – tựa cuốn tiểu thuyết của một nử văn sĩ Pháp.
Em Xưa - Hồ Lê Trạch
Em Xưa
m xưa
theo tiếng nhạn
Bay về cõi trời xa
Ta xưa nghe tiếng thú
Rớt lại giữa giang hà
Tình xưa đôi cánh mỏng
Chở không trọn oan khiên
Gặp nhau mùa bão tố
Xa nhau mưa cuồng điên
Trái tim ta bé nhỏ
Không chứa hết nỗi sầu
Một đời ta nghèo khó
Chẳng ấm tình em đâu
Mười năm rồi mười năm
Ta qua cõi phù sinh
Biết bao chuyện hư ảo
Em qua cõi phù sinh
Đã bao lần thay áo ?
Bẽ bàng cánh nhạn xưa
Lạc loài tiếng thú cũ
Em xưa giờ thiếu phụ
Ta vẫn hoài gió mưa
Hồ Lệ Trạch
Bức Tranh THiếu Nữ Áo Lục - Quế Hương
Bức Tranh Thiếu Nữ Áo Lục
Cuộc đời, sự nghiệp của người họa sĩ tài hoa thăng trầm như những gam mầu ẩn hiện
trên bức tranh. Đã có thời ông đạt đến đỉnh cao danh vọng và giàu có nhờ những
bức tranh đẹp được ưa chuộng khắp nơi nhưng vô hồn và xa lạvới ông. Chính xu hướng
thương mại hóa đã cướp đi niềm say mê sáng tạo và hạnh phúc của người họa sĩ.
Những ngày cuối đời, mặc dù sức lực đã cạn kiệt, nhưng thiên nhiên thoáng đãng,
tươi tắn với con người trong sáng vô tư, đã trả lại cho ông khả năng và lòng
ham muốn tìm tòi, sáng tạo nghệ thuật và ông đã vẽ nên một kiệt tác - Bức tranh
thiếu nữ áo lục.
Đó là một du khách đặc biệt, ông ta thường có mặt ở lăng rất sớm, không qua cửa
chính, bởi người bán vé vào thăm lăng gần tám giờ mới làm việc, còn ông, bằng
cách nào đó đã đi dạo trên những con đường rợp bóng thông, tùng, sứ, nhãn từ sớm
tinh mơ, khi cái hoàng cung u trầm, diễm lệ của vị vua đã khuất còn chìm trong
màn sương. Có khi ông còn làm việc trong ánh sáng lờ mờ, yếu ớt của đêm chưa hẳn
qua, ngày chưa hẳn tới. Mắt mở căng, ông cố nắm bắt một chút lạnh lẽo, ẩm ướt,
run rẩy, tái xám của thứ ánh sáng ma quái bằng những nhát cọ khắc khoải, bướng
bỉnh cho đến lúc tóm bắt được nó trên lụa trước khi nó vuột vào rạng đông.
Khi hoàng cung của cõi chết bắt đầu hiện ra rỡ ràng, diễm lệ dưới ánh dương
quang, họa sĩ ngừng tay. Ông ngồi dựa vào thân cây, trang nghiêm, tĩnh mặc như
một kẻ thiền tọa, lắng nghe như uống từng giọt âm thanh mê hồn tắm đẫm hương sứ
của lũ chim sớm. "Ta trồng nơi đây nhiều cây để gọi chim về...", vị
vua chủ nhân lăng từng ước muốn như vậy ở văn bia. Đối với họa sĩ, khoảnh khắc ấy
thật kỳ diệu. Nỗi đời tan biến và ông đắm chìm trong bản hợp xướng tuyệt vời của
các chú chim bé bỏng. Chính giữa lúc ấy ông bỗng nghe một tiếng thở dài, ông giật
mình nhìn quanh. Chẳng có ai ngoài ông và lũ chim.
Càng ngày họa sĩ càng cảm thấy ông không chỉ một mình trong sớm tinh mơ. Có ai
đó luẩn quẩn quanh ông. Một tiếng chân, một tà áo mơ hồ như ảo giác đã làm ông
mất thanh thản. Đôi khi ông tưởng như nhìn thấy một đôi mắt trong lùm cây trước
mặt, một đôi mắt đen hơm mầu đêm, nhìn ông chăm chắm. Bấy giờ ông không làm việc
được nữa. Cây cọ vẫn mơn man trên nền lụa nhưng trái tim ông thì đang rình rập.
Ông chơi trò cút bắt với một cái bóng. Nó thoắt ẩn, thoắt hiện, đằng trước, đằng
sau... và bao giờ cũng đè nặng lên ông cái nhìn trĩu nặng và nóng bỏng. Thế mà
chủ nhân cái nhìn là cô bé mười lăm mười sáu tuổi, một cô bé như bước ra từ một
bức tranh cổ với vẻ đẹp lạc loài và y trang lạc thời, tay đầy hoa sứ, người sực
nức mùi thơm ngọt đậm. Ông đang túm vạt áo mầu lục của cô, còn cô thì run rẩy
như một cọng cỏ. Họa sĩ bật cười ha hả. Kẻ rình ông và ông rình lại chỉ là một
cô bé đứng thấu ngực ông! Buông áo cô ra, ông ngắm cô từ đâu đến chân, lập tức
cô bỏ chạy. Vệt cỏ sáng lung linh rồi khuất trong mầu cây. Ông mơ hồ nghe vọng
tiếng lục lạc.
Họa sĩ ra đi thật sớm từ ngày gặp cô. Ông ước ao thực hiện một bức chân dung về
cô bé lạ lùng kia, cô bé như một mảnh cổ kính vỡ ra từ đâu đó quanh đây. Thức dậy
cùng tiếng chuông chùa, ông có mặt ở lăng khi nó chưa tỉnh ngủ. Ông biết ông
không chỉ một mình nhưng nếu ông quay lại lập tức ông chỉ thấy một ảo ảnh, một
mảng lục non mơ hồ thấp thoáng trong sương. Càng ngày ông càng thiết tha được vẽ
ảo ảnh đó. Có lần ông thử vẽ phác cô căn cứ vào khoảnh khắc đối diện lần đầu
nhưng ông không thể nhớ nổi. Gương mặt cô nhạt nhòa và ông chỉ phác họa một cái
bóng cũng nhạt nhòa như thế dưới câyđại nở đầy hoa, giữa chòm lâu đài, miếu tạ
nên thơ. Khi ra về, ông để phác họa lại. Sáng hôm sau, nó vẫn ở đấy nhưng được
buộc bằng một dải lụa. Mở ra, ông thấy cô bé đã nhốt mình lại bằng một dãy tường
thành lởm chởm gươm nhọn. Thỉnh thoảng, từ những viên gạch rêu phong ló ra một
đầu người, khuôn mặt dữ dằn khắc nghiệt. Còn những công trình kiến trúc xinh xắn
quanh cô thì bị bôi đen ngòm trông như những nấm mồ, ông sững sờ, cô bé chỉ đứng
thấu ngực ông có phải là một cô bé không nhỉ? Tiếng thở dài, rồi bức tranh này
nữa! Những gì ông thể hiện hoàn toàn đối nghịch với ông. Chốn lăng tẩm nên thơ
dưới mắt ông trở thành một mộ địa thực sự dưới mắt cô - lạnh lẽo, âm u, tàn nhẫn.
Ông lại nhìn bức tranh gần hoàn thành trên giá. Lềnh bềnh trong sương, nom nó
như được vớt lên từ cõi chết, nhợt nhạt trong ánh sáng yếu ớt rồi dần ửng hồng,
rõ nét, rõ ràng khoe với ngày yên bình. Ông đã ra đi bao ngày trong sương sớm
giá buốt, trong tờ mờ tranh tối tranh sáng để cố bắt kịp khoảnh khắc giao thoa
giữa ngày - đêm, sống - chết, vui - buồn... Nhưng bây giờ nom nó chỉ là một tác
phẩm cùng - kiểu - với - mọi người, tái hiện một vẻ đẹp được thừa nhận. Còn cô,
tại sao cô lại phủ nhận.
Mấy tuần nay, cô đã dám thơ thẩn nhặt hoa sứ gần ông. Thường khi ông vẽ thì cô
ngồi chơi với đống hoa rụng. Cô sắp chúng thành một con chim xoạc cánh, một dãy
núi, một cây thông...
Ông nói với cô:
- Em sẽ vẽ được đấy.
- Nhưng em không vẽ như ông. Chán chết!
- Em muốn vẽ gì?
- Cỏ.
Họa sĩ lấy quyển sổ phác họa, vẽ cho cô một con đường mờ mịt, khuất lấp sau ngọn
cỏ. Cô lắc đầu:
- Cỏ đám cưới kia.
Rồi cô chạy đi và trở về bên ông với đôi tay đầy hoa dại. Cô tung chúng lên cỏ.
Thế là ông vẽ cỏ - đám - cưới. Hoa tóc tiên rực rỡ mầu nhưng thắm, hoa ngũ sắc
đỏm đáng. Hoa bâng khuâng mơ màng. Hoa lồng đèn ngộ nghĩnh... Chúng cưới nhau
trên cỏ, khiêu vũ, đùa chơi, gối đầu trên cỏ. Hai mươi năm cầm cọ, họa sĩ chưa
bao giờ vẽ một cái gì tươi tắn giản dị, rạo rực sức sống dường kia. Mầu sắc cứ
tuồn tuột khỏi tay ông, chạy ào vào bức tranh, chúng tự tìm chỗ, hối hả reo vui
trên nền cỏ rạo rực. Họa sĩ như lành bệnh hẳn sau đợt tranh vẽ cỏ. Ông theo cô
vào thế giới cỏ bất tận, đầy bí ẩn giàu tưởng tượng của cô. Sau này khi ông mất,
người ta tìm thấy rất nhiều tranh cỡ nhỏ vẽ cỏ. Chúng chẳng bao giờ giống nhau
và cũng chẳng chỉ mầu xanh. Họ đặt chúng sang một bên, chép miệng: "vớ vẩn".
Đã đầu đông, trời có những ngày se lạnh, ông vẫn lên lăng, ông lên chơi với cô
bé. Giữa họ không tuổi tác, khoảng cách, thời gian. Sáng nay, đứng cách nhau nửa
sải tay, ông bàng hoàng nhận ra cô bé lớn nhanh quá. Cô thiếu nữ mười lăm mười
bảy hai mươi và bây giờ, trước mặt ông, nom cô như một thiếu phụ héo hon, bất hạnh.
Phải vẽ nhanh kẻo không kịp nữa, ông nhủ thầm.
- Này em, tôi muốn vẽ em trên cỏ và sau đó em đặt một cái tên gì đó tùy em.
Nhưng phải mau lên, kẻo tôi vẽ bà già mất!
- Thì em "già rồi"! - Cô cười, hé những chiếc răng tựa ngọc.
Thiếu phụ biến mất. Trước mặt ông lại là cô bé, nom như cọng cỏ, một cô bé thơ
ngây và xa lạ, cô đơn và lạc lõng, như đi ra từ một câu chuyện xa xưa. Ông bối
rối ngơ ngác.
- Khi vui em trẻ, khi buồn em già. Ông đừng để ý.
- Bé như em có chi mà buồn?
- Em chẳng làm được chi theo ý em. Cô xịu mặt.
- Thế em muốn chi?
Cô nói lảng:
- Sáng nay cỏ rét đấy!
- Sao em biết?
- Chúng xanh ra.
- Em có rét không? Em mặc phong phanh quá!
Ông cởi áo khoác choàng lên vai cô. Cô rùng mình. Bàn tay cô như muốn hất ra, nửa
như bấu chặt. Cô lắp bắp:
- ấm quá... ấm quá... Em chưa khi mô ấm như thế ni.
- Cho em luôn đó.
- Em không được nhận. Em phải đi đây. Mai ông đến không?
- Nếu em chịu ngồi cho tôi vẽ?
- Nhưng phải sớm nữa kia.
- Sớm quá làm sao thấy em. Ngày mai em có muốn tôi đem gì cho em
không? Kẹo, búp bê? Cho em đừng mau lớn quá.
- Không! Em chỉ muốn ra ngoài kia. Cô chỉ tay về phía núi xanh xanh - và...
đi với ông. - Em chưa hề đi với người đàn ông nào cả.
- Mai ta đi.
- Em không được phép.
- Trốn!
- Không trốn được.
- Tường thấp lắm. Tôi sẽ đỡ em trèo.
Nhưng cô sợ hãi thật sự. Mặt cô tái mét. Mắt nhìn ngược xuôi. Ông chợt nhớ những
đầu người dữ dằn ló ra từ những viên gạch cô vẽ và sự khiếp sợ của cô như luồng
gió tạt qua làm ông rùng mình. Đó là buổi cuối cùng ông gặp cô trên lăng.
Khi cô đi rồi, ông trở về nhà, từ lăng đến chỗ ông ngụ ở làng Dương Xuân Thượng
không xa lắm. Người bác già càu nhàu: "Mi là thằng điên. Đi chơi sớm rứa
có đi chơi với ma. Đi về sớm rứa có vẽ người chết. Trời đất thì độc địa. Mấy chỗ
đó thì đầy âm khí. Vua mô mất cũng hàng chục tá đàn bà con gái theo hầu, suốt đời
hương khói...". Người bác bỏ lửng câu nói, vấn điếu thuốc Cẩm Lệ rồi bặt
luôn, đứng dậy đi ra vườn.
Ông vào phòng mở tung mọi cánh cửa. Sớm mai phảng phất mùi mít chín cây. Chiếc
bàn nhỏ bừa bãi thuốc lá, sơn cọ. Góc phòng có một bức tranh đậy sùm sụp mảnh vải.
Ông đến giật tấm vải phủ. Người đàn bà trong tranh trần truồng tắm nắng mai, mắt
nhắm nghiền, gương mặt nhăn nhúm. Thoạt đầu ông chỉ muốn tái hiện gương mặt người
vợ khi bắt gặp nàng trong tay "vị - cứu - tinh". Mắt trừng trừng, những
nhát cọ sắc như dao, ông rạch trên mặt vải những đường nét biến dạng của một
gương mặt no nê khoái cảm để nó không còn trú ẩn trong tâm thức ông nữa. Mỗi
ngày, ông đứng bảy đến tám giờ bên giá vẽ. Nhưng càng vẽ, nỗi căm thù, khinh bỉ
càng biến mất. Chỉ còn ông và hội họa của ông. Người đàn bà trong tranh không
còn là hình ảnh của vợ ông nữa, đó chỉ là một người nữ đang sống những phút mê
đắm trần thế phù du, gương mặt nhăn lại như đau đớn. Một đợt sóng buồn âm u
thương cảm trào dâng làm dịu dần những nhát cọ của ông, làm khinh phiêu những sợi
tóc rối của người đàn bà, khiến nàng bơi trong làn ánh sáng dữ dội và mê hoặc.
Ngày cuối, khi đường cọ sau cùng, kiệt sức và trống rỗng, ông bàng hoàng nhận
ra đó là một tác phẩm đẹp nhất của ông, ông đã trút cạn ở đó nỗi đắng cay và
nguồn sinh lực, sự thống khổ và niềm đam mê. Từ lâu ông không làm việc như thế.
Từ lâu ông đã vẽ - như ngủ. Đôi tay tài hoa của ông điều khiển lấy mọi việc.
Chúng làm đủ trò ảo thuật trên vải. Kỹ thuật càng tinh tế, tranh ông càng toát
ra cái vị vô hồn. Chúng không có những ngóc ngách bí ẩn. Không có nguồn sinh lực
tiếp máu cho hình khối, mầu sắc, đường nét. Những điều đó, dường như chỉ mỗi
mình ông nhận thấy bởi chúng vẫn thường được ca ngợi, ham chuộng và biến thành
những chồng tiền rất dày. Chúng nhìn ông với vẻ ngạo nghễ, xa lạ. Tranh ông
ngày càng có mặt ở nhiều gallery trong nước và nước ngoài. Cha đẻ của chúng thì
không hề thấy. Chỉ người vợ gương mặt trang điểm kỹ lưỡng như đeo mặt nạ, nụ cười
đông cứng chuẩn mực trên môi và một người đàn ông lịch sự, nói tiếng Anh như
gió, luôn tràn trề vẻ xót thương và lòng tận tụy trong việc bồi đắp tiền bạc,
danh vọng cho ông. Vợ ông gọi hắn là "vị cứu tinh". Càng giàu có, người
ta càng thấy họa sĩ lang thang trên đường phố, như một kẻ vô gia cư, áo quần
lôi thôi, tóc tai bù xù. Có khi ông biến đi đâu cả hai ba ngày, đám bạn bè thừa
thãi lời khen và bia bọt không thể nào thấy được. Chỉ có lũ chim sẻ biết. Ông
cho chúng ăn, thì thầm trò chuyện với chúng. Sau hai, ba ngày, ông ló đầu ra,
tóc tai đầy mạng nhện, quẳng xuống từ căn gác xép sát mái mấy bức tranh vẽ những
mảng trời không yên tĩnh bé bằng manh chiếu, những bức tranh vợ ông cằn nhằn vì
bán không chạy. Có lần bà bắt gặp ông ở họa phòng vào hai giờ sáng, ngọn nến
trước mặt, lầm thầm trước một khung tranh trắng toát, còn những hình nhân trong
bức tranh quanh ông thì như lũ âm binh, vàng vọt, dài thượt, leo lét nhảy múa
dưới ánh nến. Họa sĩ cầm nến dí vào chúng với vẻ ghê tởm. Vợ ông hét lên. Từ đó
ông trở thành bệnh nhân của bệnh viện tâm thần. Giới hội họa xôn xao bàn tán. Họ
gọi đó là số phận thiên tài. Còn "vị cứu tinh" thì được dịp chứng tỏ
lòng tận tụy.
Quả từ khi có hắn, tiền bạc vào nhà ông như nước và ngược lại, nước cuốn theo sự
đói nghèo, yên bình, đam mê sáng tạo và cả hạnh phúc.
Vâng! Nếu không có "vị cứu tinh" xuất hiện vào một chiều mưa tám năm
về trước, ở gallery tẻ lạnh của ông thì bây giờ ông không ở đây mà bên cạnh vợ
con hoặc trong cái chòi nhỏ sau vườn, nơi ông đắm chìm trong đơn độc sáng tạo.
Anh ta đến chỉ tình cờ núp mưa và chợt rùng mình trước những bức tranh ế ẩm của
người họa sĩ vô danh có vẻ mặt đăm chiêu, khắc khổ. Vốn sống bằng nghề môi giới
tranh, anh ta đánh hơi mình sẽ được gì từ cái gallery thưa thớt mấy người này.
Anh ta trở lại với một trùm buôn tranh tầm cỡ quốc tế, đặc biệt sính tranh á
Đông. Ngày hôm đó, họa sĩ đem họ về nhà. Ông lôi ra từ dưới gầm giường, trên
mái, trên vách những bức tranh chưa hề được triển lãm. Chúng nóng hôi hổi như
những viên hồng ngọc thô mới lôi lên từ lòng đất. Hai vị khách ngồi chồm hổm,
có khi gần như bò để xem tranh. Chúng nằm la liệt trên sàn nhà, chẳng khung, chẳng
tên nhưng cõi người nặng trĩu, ngọn gió hư vô xào xạc trong vô thanh cứ làm họ
bàng hoàng. Tất cả ngồn ngộn một sức sống mãnh liệt ứ trào khỏi mầu sắc và hữu
hạn.
Từ đó cuộc sống ông không còn là của ông nữa. Tiền bạc, danh vọng ùa vào trong
nhà ông như một lũ xâm lăng. Chúng làm mất quân bình mọi cái, khuân đi mọi cái,
thay đổi mọi cái. Ngay cả ông cũng không còn nhận ra vợ con, bạn bè mình. Họ đẹp
ra, sang ra, thân tình hết mực nhưng... hoàn toàn xa lạ!
Bây giờ ông ở đây sau khi li dị. Ra tòa vợ ông là kẻ thắng thế vì nghiễm nhiên
ông là kẻ suy nhược thần kinh nặng trước mọi người và cả y học.
Thoạt đầu ông định nghỉ ngơi ở Huế vài tuần nhưng ông đã ở nửa năm và không muốn
đi nữa. Ông không ngừng ngạc nhiên trước những tặng vật nho nhỏ của thành phố
này. Một bông hoa dại hồn nhiên nở trong búi cỏ trên vỉa hè lát đá của một đại
lộ. Ngôi nhà hoang phế liêu xiêu, cánh cửa rục rã, mái trĩu thời gian vẫn tự tại
có mặt bên cạnh những ngôi nhà kiến trúc kiểu mới như một đại diện của quá khứ.
Ông lãng đãng mơ màng trong không khí trầm lắng, êm ả, trong nhịp điệu từ tốn,
chậm rãi của thành phố đứng bên lề sự chuyển động chóng mặt của thời đại. Ông
lang thang khắp chốn Huế từ tốn, lặng lẽ hồi sinh cho ông.
°
Ông
bắt tay vào việc thực hiện chân dung thiếu nữ áo lục lúc Huế thật sự bước vào
mùa đông. Không gian trắng xóa mưa buồn, lê thê giọt vắn, giọt dài sướt mướt.
Trời lạnh như cắt. Người bác già co ro xuýt xoa bên cái lồng ấp nhỏ bằng tre ủ
những cục than hồng. Còn ông, ông đóng cửa và bắt đầu vẽ.
Chưa bao giờ ông làm việc khó khăn đến thế. Mấy lần thay lụa, cô vẫn như cái
bóng không nắm bắt được. Khái niệm về thời gian và tuổi tác không tồn tại nơi
cô. Ông hình dung cô lúc mới gặp, cô thiếu nữ trẻ măng, bối rối thì cô lại hiện
trên vải như một thiếu phụ, khóe miệng cay đắng, đuôi mắt li ti vết chân chim.
Có lúc người thiếu phụ ấy lại như cọng cỏ mùa xuân xao xuyến, áo mầu lục non,
ánh mắt cháy bỏng... Cô hiện ra lung linh và bất định, lúc già, lúc trẻ, lúc buồn,
lúc vui, lúc rõ như sờ nắn được, lúc nhạt nhòa mơ hồ như một ảo ảnh đến nỗi ông
có cảm tưởng ông bệnh và cô chỉ là một ảo giác của người bệnh. Bức chân dung về
cô mấy tuần rồi vẫn dừng lại ở cái nền và y trang. Buông cọ vì bất lực, ông mặc
áo ấm và đi lên lăng. Từ sau buổi sáng ấy, ông không còn được gặp cô nữa. Lúc
đó đã bốn giờ chiều. Trời thật rét. Chẳng có du khách, cũng chẳng có cô, chỉ có
những tượng đá trầm mặc và ngàn thông rũ tóc khóc than. Sự quạnh vắng của cõi
chết thật khủng khiếp. Ngồi một lúc ông đứng dậy ra về, và đúng lúc đó, ông
trông thấy cô. Cô đứng trầm ngâm bên hồ bán nguyệt, lặng lẽ nhìn về phía núi.
Trời lạnh mà cô vẫn phong phanh tấm áo mỏng. Mừng rỡ ông kêu lên. Ông vừa chạy
vừa gọi. Tiếng chân ông dội vào hoang vắng. Tiếng gọi của ông loãng trong tiếng
thông xào xạc. Ông chạy và cảm thấy khoảng cách giữa ông và cô không ngắn lại.
Lật đật ông vấp té. Khi đứng dậy, cô không còn ở đó nữa. Tuyệt vọng, ông tựa
vào bờ thành thở hổn hển. Hơi thở phả ra lập tức biến thành khói trắng tan
trong lạnh giá.
Tối hôm đó ông bị ốm. Người bác già vừa nấu cháo hành giải cảm vừa lầm bầm gọi
ông là thằng điên. Vùi trong chăn, ông mơ hồ nghe tiếng gõ vào cửa kính. Mưa đấy.
Ông thầm nhủ. Nhưng không phải mưa. Một que diêm, hai que diêm lóe lên và ông
thấy một gương mặt nhòe nhoẹt nước áp vào cửa kính. Ông nhận ra đó là gương mặt
ông đã hoài công tái hiện trong tranh. Run rẩy, ông ngồi dậy. Không kịp bật
đèn, đi chân trần, ông đến mở cửa. Một tấm thân mảnh mai, sũng nước đổ ập vào
ông. Ông dìu cô đến giường và bật ngọn đèn ngủ. Cô tơi tả như một cành hoa
trong mưa gió. áo quần ướt đẫm, tóc bết dính, cái lồng ấp nhỏ trong tay cô cũng
tắt ngúm và đầy nước; chỉ có đôi mắt cô là như hai hòn than rực cháy sự liều
lĩnh, thách thức. Ông lấy áo quần mình tự thay cho cô. Tay ông chạm vào làn da
mịn bóng như sa tanh phảng phất hương trầm. Cô nhắm nghiền mắt, lả đi trên gối,
phập phồng thổn thức dưới tay ông. Thay áo cho cô xong, ông kéo chăn lên tận cằm,
bước xuống tìm nến. Ông tắt đèn thắp hết nến lên và quỳ xuống bên cô, nâng
gương mặt cô trong tay. Bây giờ ông có thể chạm nó như một thực thể, thấy rõ từng
nét mày, khóe môi, cả nốt ruồi son bên cánh mũi. Dưới ánh nến, được rửa bằng nước
mưa và nước mắt, gương mặt đó sáng rỡ vì hạnh phúc, nồng nàn, trẻ măng. Ông kéo
giá vẽ lại gần. Trong bức tranh gần hoàn thành ông vẽ gương mặt thiếu nữ áo lục.
Ông làm việc mê man. Khi ông rời nó, cô đã ngủ. Trong giấc mơ, cô lắp bắp những
lời vô nghĩa đối với ông:
- Tử Cấm thành... xin lửa... đêm đông chí...
Tắt những ngọn nến, ông nằm xuống bên cô.
°
Sáng
hôm sau, họa sĩ dậy trễ. Người bác bưng ly sữa đến tận phòng. Ông càu nhàu khi
thấy cửa không cài. Cái thằng đãng trí đã để gió lùa suốt đêm. Ông đến lay đứa
cháu còn nằm trong chăn ấm. Lập tức ly sữa lai láng trên nền. Ông già mếu máo
kêu lên. Nhưng căn phòng rộng trong khu vườn mít chỉ có hai người. Một nằm đó,
bình yên như ngủ, thân thể lạnh giá. Một đứng đó, mếu máo cô độc. Bên cạnh họ
là bức tranh chưa ráo sơn trên giá. Người thiếu nữ trong y trang mầu lục, cổ
đeo kiềng vàng, tươi tắn như chiếc lá mùa xuân. Quanh cô, dờn dợn một biển cỏ.
Trước mặt, một rặng núi xanh. Gió lạnh tạt vào phòng, gờn gợn bức tranh lụa.
Người đàn ông già kinh hoàng dụi mắt. Ông thấy một cái bóng nữa bên cô, nhạt
nhòa, cao lớn. Cả hai sóng đôi chạy về phía núi.
Nhận được tin ông mất, người vợ cũ và "vị cứu tinh" ra Huế ngay lập tức.
Họ không để ý người chết. Họ để mắt tới những bức tranh nhất là bức tranh thiếu
nữ áo lục. Họ gói ghém chúng cẩn thận. Chúng sẽ theo họ về bằng máy bay.
Khi hai người thận trọng tháo gỡ giấy bọc để trình bày với giới mua tranh kiệt
tác cuối cùng của họa sĩ tài ba, họ kinh hoàng nhận thấy thiếu nữ áo lục đã mất
mặt. Gương mặt diễm lệ, tươi tắn dường kia chỉ còn là một khoảng trống không đường
nét, không mầu sắc, một khoảng trống thật tệ hại trong bức tranh đáng lẽ thật
toàn bích.
Quế Hương
11-1992
Tuesday, December 9, 2025
Ký Ức Sài Gòn - Phúc Tiến
Mưa đêm và ánh sáng
Không hiểu vì sao tôi vẫn nhớ thuở
lên ba, có những buổi tối hai anh em tôi ngồi chờ mẹ ở nhà bà ngoại trong xóm
Bà Hạt, quận Mười. Thuở đó, những xóm nghèo chưa có điện, cả xóm lặng im trong
bóng tối và tiếng mưa rả rích. Và rồi, mẹ đạp xe đến, choàng chiếc áo mưa to,
chở hai anh em tôi từ hẻm sâu ra đường lớn. Chúng tôi đi như trong một đường hầm
đen, thình lình thấy ngoài trời vụt sáng. Ngồi sau lưng mẹ, nấp trong vạt áo
mưa, tôi ríu rít đặt tay lên những ánh đèn loang loáng trên áo mẹ. Tôi thích
thú vén vạt áo mưa lên, say sưa nhìn những cột đèn đường, những cửa tiệm tràn
ngập đèn màu, những chiếc xe hơi đủ kiểu lướt qua. Cảnh vật hai bên đường cứ thế
diễu qua hùng dũng như trong một chiếc đèn kéo quân uy nghi. Thế rồi, chẳng mấy
chốc, xe mẹ rẽ vào ngõ hẻm nơi có căn gác thuê trong xóm Vườn Bà Lớn. Tôi buồn
buồn gặp lại những ánh đèn dầu tù mù, gặp lại tiếng dế kêu rả rích, gặp lại mùi
nhang và mùi hoa huệ trên bàn thờ Phật. Cho đến bây giờ, tôi vẫn sợ những buổi
tối mưa đêm, không đèn, tĩnh mịch và cô liêu.
Thế nhưng sáng ra, tôi lại bước vào một
thế giới khác hẳn. Tiếng rao hàng, tiếng người đi chợ, đi làm rộn rã khắp các
con xóm. Tiếng cười nói trên radio, xen lẫn tiếng vọng cổ trên máy hát dĩa, làm
thành bài nhạc vui khó tả… Trước khi đến sở, mẹ đạp xe chở anh em tôi đi học,
áo mẹ ướt đầm mồ hôi. Từ xóm Vườn Bà Lớn ra đến giao lộ Ngã Bảy, đường phố tuôn
chảy đủ loại xe lớn nhỏ, có cả những chiếc xe thổ mộ chạy lóc cóc – âm thanh đầy
bí ẩn…
Những thành phố trong thành phố
Những con hẻm của Sài Gòn là một
thành phố riêng so với phố xá khác biệt bên ngoài. Xoay quanh và đan xen với một
Sài Gòn sang trọng là những xóm nhà lao động, nửa quê, nửa tỉnh. Từ Vườn Bà Lớn
chuyển sang Bàn Cờ, tôi lớn lên trong những xóm nhà như vậy. Ký ức của tôi từ
bé đã in đậm những mái ngói âm dương rêu xanh, những mái tôn rỉ sét, những cột
điện sắt đen xiêu vẹo. Giăng giăng khắp con hẻm là những căn nhà nho nhỏ, đủ
màu, khung cửa sổ lúc nào cũng mở. Ngày ấy, hiếm khi có nhà làm cửa sắt, hàng
rào sắt bởi cuộc sống hiền hòa, ít trộm cắp. Nhà nào nhà nấy đều là nhà cây,
nhà gỗ, có cả nhà vách bằng lá dừa nước phơi khô kết lại. Nhà nghèo hơn thì
vách làm bằng thiếc lấy từ các loại thùng… Dù khá hay nghèo, trước căn nhà nào
cũng có băng ghế gỗ hay cái ghế đá để chủ và khách ngồi chơi mát, dưới bóng cây
khế cây xoài. Căn gác gỗ nhà mẹ tôi thuê có chung vách bằng ván thông với hàng
xóm hai bên. Chủ cũ dán giấy báo lên vách, loại báo tiếng Pháp đầy những chữ và
hình vẽ ngộ nghĩnh. Mỗi buổi tối đi ngủ, tôi tò mò nhìn giấy báo trên vách và rồi
những miền đất xa xăm trôi vào giấc ngủ của mình.
Thời ấy, những con đường hẻm Sài Gòn
chưa biết đến xi măng, vẫn còn đầy đất cát. Bọn con nít chúng tôi đi học về, lập
tức vất cặp, chạy ra ngoài rủ nhau bắn bi, đánh đáo, tạt lon, chơi trốn tìm.
Trong xóm, nhà nào cũng nhờ người gánh nước thuê hoặc ra xếp hàng ở vòi nước
công cộng. Đến ngày mưa, người lớn bảo nhau đem lu, đem thùng ra hứng nước. Còn
trẻ con thì khoái trí, cởi trần, chạy ào ra hẻm vừa tắm vừa đuổi bắt nhau. Những
lúc ve kêu, mùa hè đến, con nít đứa lớn đứa bé đều đi bắt dế. Có đứa nuôi dế trong
hộp quẹt, trong bao thuốc và ngay cả vỏ trái măng cụt. Bọn tôi cho dế thi đấu với
nhau, con dế nào “hy sinh”, lại cho vào hộp quẹt chôn cất dưới cây khế rất tươm
tất.
Những năm kế tiếp, khi chúng tôi lớn
lên, các con hẻm bắt đầu thay đổi. Đường trong hẻm được đổ đá dăm rồi tráng xi
măng. Nhiều nhà đã có công tơ nước, công tơ điện. Những cột đèn cao lêu nghêu bằng
nhôm hay xi măng đúc đã luồn lỏi vào trong các xóm. Có điện, có đèn, người dân
lại có thêm máy vô tuyến truyền hình. Ở trước cửa trường tiểu học Phan Đình
Phùng xóm Bàn Cờ của tôi có cột đặt máy tivi công cộng. Lâu dần, giá máy tivi
trở nên bình dân, nhất là khi có tivi do Nhật sản xuất, nhiều gia đình sắm
tivi, vẫn ngỏ cửa cho hàng xóm về xem. Nhiều năm về sau, có dịp đi nước ngoài,
tôi thấy tự hào khi biết vô tuyến truyền hình ở Sài Gòn ra đời và phổ biến cùng
lúc với Singapore và nhiều nước Đông Nam Á khác.
Cô tiên lộng lẫy
Khi chúng tôi lên bảy, lên tám, Sài
Gòn lớn vụt lên, trở thành một cô tiên lộng lẫy. Hai anh em tôi được mẹ đưa đi
gặp “cô tiên” vào những ngày Chủ nhựt. Về sau, tôi mới biết nếu đi làm, mẹ tôi
sẽ được thêm tiền phụ trội nhưng mẹ vẫn để dành mỗi tháng hai ngày Chủ nhựt cho
chúng tôi đi chơi. Mặc vào “bộ đồ Tết”, mỗi năm anh em tôi chỉ có một bộ để diện,
chúng tôi theo mẹ đi dạo những phố phường nhứt nhì thành phố. Nào là, ra chợ Bến
Thành và những con phố tấp nập chung quanh xem đồ chơi, hàng hóa. Nào là, la cà
đường Nguyễn Huệ và thương xá Tax xem đèn, xem hoa vào mùa Giáng sinh và giáp Tết.
Nào là được ghé thương xá Sài Gòn Departo (3) ở góc Thái Lập Thành – Tự Do để
được chơi xe cứu hỏa mini, bóp kèn inh ỏi. Hai anh em tôi vừa tung tăng trên hè
phố rộng, vừa nhâm nhi hộp kem bé xíu. Mẹ cho anh em tôi chụp ảnh trắng đen,
vài năm sau là ảnh màu, ở công viên Lam Sơn. Bây giờ nhìn lại ảnh, tôi nhận ra
cái góc phố cong cong có quán Givral phía sau, cũng chính là nơi mẹ chụp ảnh
khi mới đến Sài Gòn 15 năm trước.
Mẹ còn cho hai anh em ra Bến Bạch Đằng,
ngắm nhìn hàng dãy tàu chiến, súng to súng nhỏ oai vệ. Tôi nghĩ đến bố tôi, ở
nhà mẹ vẫn còn giữ một tấm ảnh chụp ông và các anh lính hải quân ở Nha Trang
năm 1951. Lâu lâu, hai anh em được đi chơi Sở Thú, dạo một vòng các chuồng cọp,
chuồng khỉ, chuồng gấu. Ở đấy, tôi thích nhất các chú voi, thế nào tôi cũng đòi
mẹ mua mía và đút mía cho voi ăn. Sở Thú Sài Gòn còn là khu vui chơi của trẻ
em, ở đó có lâu đài như kiểu Disneyland thu nhỏ. Đặc biệt, Sở Thú có xe điện
treo trên cao, loại xe dành cho trẻ em chỉ đi khoảng 100 mét. Gần cổng Sở Thú
là Viện Bảo tàng, khi về tôi hay chạy ào đến khẩu thần công trước cửa để leo
lên ngồi, hể hả như cỡi voi ra trận.
Tết Trung thu đến, tôi cương quyết
đòi mẹ mua cho đèn máy bay, tàu bò chứ không chịu chơi đèn con thỏ, con bướm của
bọn con gái. Lồng đèn Sài Gòn tạo hình bằng nan tre, bọc giấy kiếng đỏ, điểm
xuyết những nét sơn hồng, sơn xanh, lấp lánh suốt tuổi thơ. Những đêm Trung
thu, bọn trẻ xóm tôi kéo nhau đi reo hò, hát vang : “Tết Trung thu rước đèn đi
chơi… Em rước đèn mừng đón chị Hằng”. Nhưng chị Hằng ở đâu mà phi thuyền Apollo
của Mỹ đáp xuống cung trăng năm 1969 không thấy? Chúng tôi hiểu ra chị Hằng,
chú Cuội không có thật, song ngày vui Trung thu thì không bao giờ mất!
Chuyện Apollo và loạt phim Star Trek
trên tivi Mỹ với nhân vật lỗ tai lừa quái dị, là chuyện bọn con nít chúng tôi
bàn tán không hết. Sau buổi học, trưa chiều nào chúng tôi cũng tụ họp dưới cây
khế trong hẻm, chơi bi hay tạt lon và kháo chuyện. Đứa nào đứa nấy khoe chuyện
trong trường và cả chuyện ba má cho đi chơi vòng quanh Sài Gòn. Toàn là chuyện
mới lạ, hấp dẫn hơn cả bánh kẹo. “Ăn” mãi chưa đã thèm!
Sài Gòn ngày ấy cứ như chiếc kính vạn
hoa, mỗi lần chạm đến lại thấy nhiều điều kỳ thú chưa biết đến. Sài Gòn bây giờ
mong rằng cũng vẫn là thế giới muôn màu, thành phố đáng sống và hấp dẫn!
Phúc Tiến
Nguồn: Người Đô Thị - từ trang DĐQGHCUC
Bờ Sông Cũ - Quan Dương
Bờ Sông Cũ
Hai trái
tim khờ khạo đè lên nhau
Một trái nằm trên một trái nằm dưới
Bờ sông cũ lùm tre xanh ngái ngủ
giật mình thả chiếc lá rơi
Em có nghe gió đang trải mùa hè
lên hai trái tim khờ loạn nhịp
Chuyện của mình đã không còn bí mật
Con ve sầu nhìn thấy trên lùm tre
Ba mươi năm tưởng mới hôm qua
Anh trở lại bờ sông thời hé nụ
Cỏ đã không còn xanh như cũ
Nhưng lùm tre ngày nào còn sót mùi hương
Khoảng cách hai bờ đo một bàn chân
Anh lội đã cuối đời chưa qua hết
Em ở bên kia bờ ngun ngút
Con đò chìm sau khi em qua sông
Có bao giờ em nhớ chuyện trái tim
Dưới lùm tre đập cùng nhau thấp thỏm
Trên thảm cỏ gió trải hè làm chứng
cho một ngày đau thắt tiễn em đi
Ba mươi năm chưa dụi được trong nhau
Mùi hương cũ giờ trở thành hương nhớ
mút hai bờ giăng ngang như sợi chỉ
Mỏng mong manh nhưng chưa đứt bao giờ
08/07
Quan Dương








