NGƯỜI SÈ GOÒNG GIỜ Ở ĐÂU
Cũng tình trạng giống như Hà Nội,
sau 1954, số người xưa cũ Hà Nội lãng phai dần. Vì lý do này hay lý do
khác, thời thế thế thời, nên đã có biết bao thay đổi xảy ra.
Tuy đường phố Hà Nội vẫn như cũ, thậm chí các
bảng hiệu đắp xi măng chưa kịp tẩy xóa hết, nhưng chắc chắn những con người đã
từng sinh sống và làm ăn ở đó không còn trụ lại nhiều.
Hà Nội vẫn còn làng nhàng những ký ức ngày
trước, có thể người ta đôi khi còn nhắc đến cà phê Nhân ở phố Cầu Gỗ, gánh phở
Tư Lùn ngoài rào trường Nguyễn Trãi, hay hàng bánh tôm bà Béo ở Bờ Hồ, song
đích thực tìm lại được những người đó hẳn là quá khó.
Sè Goòng cũng không tránh được sự nhốn nháo
do thời cuộc đẩy đưa. Những ngày cuối tháng Tư 75, người Sè Goòng thất
sắc, ào ào rủ nhau chạy loanh quanh. Người lên Lăng Cha Cả, kẻ vào Tân
Sơn Nhất, anh chạy ra Bạch Đằng, chị vào trong Tân Cảng, đông, rất đông, thi
nhau leo rào vào khuôn viên tòa Đại sứ Mỹ ở Thống Nhất. Lúc ấy chưa hẳn
tất cả nắm rõ sự tình đầu đuôi, nhưng ai cũng cố tìm cho mình, cho gia đình một
sinh lộ mà không biết vì sao nữa.
Để rồi những phút cuối cùng đám đông ê chề
thất vọng vì không sao leo lên được một chiếc trực thăng, một con tàu lớn hay
nhỏ, một khoang phi cơ, đành ngơ ngác quay về, coi như chịu trận. Kết
thúc cuộc chiến tranh, đầy đường của cải vứt tràn. Chẳng ai buồn nhặt,
hốt, vì tất cả xem như không còn giá trị đích thực.
Lềnh khênh vứt khắp nơi nào là quần áo trận,
giày, vũ khí, va ly Samsonite, xe Honda, Vespa, xe đạp, thậm chí cả ô tô, vì
chủ nhân đã bỏ đi đâu đó, hay ê chề chẳng còn muốn vác về lại nhà. Trải
qua nhiều tháng năm tiếp theo, người Sè Goòng tự ên tìm cho mình một phương
cách đi khỏi thành phố.
Người trở lại quê, người dấm dúi sắm thuê
thuyền vượt biển, hay bị chuyển về sống các vùng kinh tế mới. Người cũ Sè
Goòng thưa thớt dần, có người ra đi biền biệt 40 năm, có người lâu thật lâu
không thấy quay về thành phố, để rồi chẳng một ai biết rõ hiện giờ họ ở nơi đâu
?
Thản hoặc đôi khi bất chợt có người từ đâu
đến hỏi thăm về một cư dân nào đó đã sống ở phố này, nhà này, thì cũng ít ai
biết để cung cấp một vài tin tức cỏn con. Đại để chỉ kháo với nhau “ hình
như nhà ấy dọn đi rồi “, hay tỏ ra không biết gì cả.
Bây giờ, nếu có một người Sè Goòng nào đã lâu
không về thăm lại thành phố chắc sẽ ngạc nhiên và lạ lẫm biết bao. Bởi vì
Sè Goòng thật sự thay đổi hoàn toàn khác. Phố xá rộng ra, nhà cửa cao
lên, cầu treo cầu vượt nhằng nhịt, đường cao tốc tràn đầy, thậm chí các tên
đường cũng nghe lạ hoắc.
Đối với khách, giờ muốn hỏi thăm hẻm ông Cọp,
hay đường này đường kia mang tên ngày trước, có khi sẽ phải đón nhận sự hờ
hững, vì những người tuy mang tiếng là cư dân thành phố hiện giờ, nhưng họ
không nghe, không biết vì họ hoàn toàn là người mới đến sau 75.
Hiện người ta đã quen với những tên Trần Đình
Xu, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Võ Văn Tần để đâu còn nhớ đến có một thời đó
là đường Trương Minh Giảng, Trần Quí Cáp, Hiền Vương v.v… Thậm chí, nếu
người ở thành phố cũ giờ có muốn tìm lại những nơi thân quen, xưa đã gửi gấm
nhiều kỷ niệm thì cũng khó, hay không còn thấy lại được. Bến đò Thủ
Thiêm, thương xá Tax, hành lang Eden, hiệu sách Xuân Thu, nhà sách Vĩnh Bảo,
nhà hàng Brodard, Pagode, chợ Vườn Chuối, chợ Cầu Kho, chợ Thiếc, tất cả đều
phế mất, đổi tên, hay quên bẵng, còn nói chi những cái tên nghe thân yêu như
Cây Mai, Da bà Bầu, Cây Quéo thì lại càng bặt vô âm tín.
Có người đặt câu hỏi vậy thì người Sè Goòng
giờ ở đâu ? Lớp họ đã ra đi khắp các phương trời, hoặc gửi thân nơi biển
cả, sau những lần “ đường đi không đến “, hoặc là họ gặp nạn bị cướp, hiếp và
bắt mất tích từ những năm nảo năm nào từ bọn hải tặc, để giờ không còn rõ họ
sống chết ra sao.
Một số trải năm tháng cơ cực tuổi đời đã phủi
tay từ giã trần gian trở về với cát bụi, yên nghỉ giấc thiên thu, hay vẫn còn
nán sống nơi những miền nào đó ngay trên đất nước. Có người chợt một hôm
nào được hỏi “ hồi xưa ở Saigon, anh/chị làm gì, sống ra sao thì cũng nghe
người ấy thờ ơ, dường như mình không phải là người Sè Goòng cũ “.
Nước phèn, đồng ruộng, dầm mưa giãi nắng đã
làm cho bao sắc nét của Saigon biến đi. Tóc trở nên cứng còng, da đen
nhẻm và tay chân nhiều vết chai cứng. Đối với họ, chắc Saigon là một dư
âm xa tít tắp, dù họ còn đang sống ngay trên quê hương mình mà vẫn thấy lạc
lõng làm sao.
Nhiều người cũng quên mất xuất xứ, bởi vì
cuộc sống “ ngày bán mặt cho đất, tối bán mặt cho trời “, rồi trải qua bao phũ
phàng sóng gió, chính họ cũng đánh rơi cái căn cước sống một thời ở Sè Goòng đi
và chỉ còn mang máng thấy hình như mình đã bị gạc ra ngoài sổ sách của nơi cũ.
Thản hoặc có một hôm nào bất chợt được làm
một chuyến trở lại chốn trước kia, họ cũng sẽ ngơ ngẩn tự hỏi có phải đây là Sè
Goòng cũ chăng ! Tôi thuộc vào hàng ngũ một trong những người như thế.
Theo trí nhớ và hiểu biết của tôi, dân nước
tôi đã có đến 3 lần sống chuyển vùng, suốt từ thế kỷ 20 đến giờ. Đầu tiên
là những người được nhà nước Phú Lang Sa gọi mời đi “ tân thế giới “. Họ
được tuyển mộ làm phu cho các đồn điền cao su do người Pháp mới mở khắp miền
Đông Nam Bộ.
Có người tham gia một mình, có người đem theo
cả vợ con, có ngưởi rủ rê nhau cả làng, cả họ vào sống chung cho có tình đông
hương, đồng khói. Bố tôi là một trong những người được mộ đi khai phá,
cạo mủ ở nơi đồn điền mới lập đó.
Dần dần những địa danh Xa Cam, Xa Cát, Bù
Đăng, Bù Đốp, Hớn Quản, Bà Rá, Lộc Ninh, Quản Lợi kéo dài thành một chuỗi liên
hoàn tài sản và nguồn lợi khổng lồ cho những quan tham gia việc mở đường đi lập
nghiệp bày ra.
Những người phu như thế có thể sẽ lưu cữu mãn
đời với cái nghề bạc bẽo, bán thân cho sốt rét ngã nước, chết dấm chết dúi và bị
lãng quên đi. Một số lanh tay lẹ chân, có óc tháo vát, thông minh, khéo
léo thì nhẫn nhục làm, tích cóp dần đồng ra đồng vào và thoát ra về Sè Goòng
đổi đời sống kiểu khác.
Dần dần họ thành những hạt giống, ăn nên làm
ra, đầu tư vào một số ngành nghề : guốc mộc, chạm trỗ, đồ gỗ, buôn bán để gây
cơ sở và lôi kéo bà con, quen biết, người làng vào sinh sống đông thêm cho có
bè có bạn. Có những khu phố rặc toàn người Bắc, như quanh quanh các con
đường gần chợ Bến Thành, họ sống với nghề kim chỉ, rao mời tơ lụa Hà Đông, sản
xuất bánh kẹo, bán hàng ăn, chụp ảnh, cũng để lại được ít tiếng tăm và sự tin
cậy.
Cũng từ những bước đầu tiên đó, họ lập hội
tương tế để cưu mang nhau, hoặc để tựu họp vào các ngày lễ truyền thống của
làng, chia sẻ với nhau niềm vui nỗi buồn nơi đất mới. Họ lấy tên làng làm
danh xưng của hội, hoặc họ lấy tên miền để gọi cho hội có vẻ bề thế hơn.
Có một dạo người ta nghe các tên như Giác Quang tương tế, Bắc Việt tương
tế, Phù Lưu tương tế, Vũ Bản tương tế (hay cái tên riêng biệt Nhà sách Vĩnh Bảo
chẳng hạn).
Đến khi người Pháp thua trận Điện Biên Phủ
phải rút đi, hiệp ước Geneva chấp thuận chia đất nước thành 2 miền, chờ 2 năm
sau sẽ có tổng tuyển cử thì lại một phen nhốn nháo di cư. Người Hà Nội có
300 ngày để chọn lựa nơi sinh sống của mình.
Tiếng là tự do chọn lựa muốn ở đâu thì ở,
nhưng khi có bóng dáng chính trị đổ xô vào thì chuyện đi hay ở không dễ dàng
như ta tưởng. Càng gần ngày hết hạn thì con đường 5 càng có những trạm
kiểm soát gắt gao. Người ta dùng tình cảm ràng buộc nhau, hoặc ve vãn,
hoặc gây khó khăn để hạn chế bớt số người gánh gồng rủ rê nhau tếch.
Những chuyến tàu há mồm, những chuyến vận tải
cơ bay dồn dập, người ta choàng cho sự kiện đó cái tên “ di cư 54 “, hẳn nhiên
cũng không khỏi bị kèm theo hay đánh giá mỉa mai, như chỉ có tứ Công mới bỏ quê
hương đất nước như thế. Người ta gói gọn 4 Công để ám chỉ : Công giáo,
Công An, Công chức và Công nợ.
Ai nói cứ nói, ai dèm cứ dèm, nhưng một đi là
cứ đi. Có người cũng vì tiếc căn nhà mới tậu hay còn thân nhân đau ốm thì
ở lại, cứ tự nhiên. Lại một lần Sè Goòng giang tay ra đón, thu vén nơi ăn
chốn ở, điều tiết việc ổn định gia cư. Những địa danh mới được đặt ra như
Cái Sắn, Hố Nai, Tầm Vu, Gia Kiệm hoặc những cái tên kèm một loạt chữ Tân đứng
đầu (Tân Bùi, Tân Hà, Tân Phát v.v…)
Bẵng đi 20 năm trôi theo nhau, chiến tranh
vẫn ùng oàng, nhưng vết thương dần dần kín, tuy cái sẹo thì không sao xóa
được. Người Sè Goòng hào hiệp, bao dung, khó giúp nhau lấy thảo.
Những ngày đầu còn rải rác khích bác, cà khịa nhau, chọc trêu nhau kiểu “ Bắc
Kỳ dzốn, ăn rau muống… “, thế nhưng chẳng mấy chốc đã hòa tan vào nhau đến đỗi
lằn ranh ngăn cách tự dưng bị lu mờ.
Người Sè Goòng chính thống không còn hiềm
khich mà thậm chí người mới nhập cư cũng thấy mình bị loãng ra và loáng thoáng
hình dáng Sè Goòng đã ngự trị trong người lúc nào chả biết nữa. Có người
cũng đã tập dẻo giọng trêu đùa nhau : cô Hai, chèn ui, cô ngộ chi ngộ ác, giờ
mà nghe cô câu dzọng cổ, chắc tui uên mất đường dzìa, cô ui !…
Có thể từ bản chất dễ dãi, ít câu
mâu và sẵn lòng giúp đỡ, nên người Sè Goòng chủ động chóng xóa đi bờ vực ngăn
cách giữa người Nam và Bắc Kỳ.
Cuộc di cư hàng triệu người có làm xáo trộn
phần nào cuộc sống yên ả của miền Đồng Nai, Bến Nghé, bước đầu cũng có xảy ra
dăm ba cuộc xô xát cỏn con, thế nhưng vốn tính mau hòa hợp, lằn ranh trên tự
nhiên khép gần lại và xóa bỏ hồi nào không hay.
Thậm chí những gia đinh định cư nơi Tân Mai,
Cái Sắn, Dốc Mơ, Tầm Vu lần lần còn được chính bà con sở tại cưu mang, giúp
dựng lên những căn nhà, hay chỉ vẽ cho đường đi nước bước trong việc mưu sinh,
hoặc phục hồi các nghề truyền thống.
Một dạo, loại chiếu Bát Tràng, gỗ Vụ Bản hay
bánh gai Hàng Than cũng đã chen chân vào sinh hoạt ẩm thực và đời sống của miền
Nam. Những cánh đồng cò bay thẳng cánh lần lần xóa đi những lằn ranh chia
cách và mặc nhiên trở thành tình nghĩa đồng bào thương yêu và lo lắng cho nhau.
Đất lành chim đậu, cái nắng Sè Goòng làm nhạt
phai chuyện nói móc, xỏ xiên nhau, cơn mưa sông Tiền sông Hậu làm phai đi giọng
nói cưng cứng miền ngoài. Sự tiếp xúc tự nhiên làm cho tình làng nghĩa
xóm tự ên kết tụ, lòng người miền Nam hào phóng vốn dĩ đã quen.
Người Bắc Kỳ hết còn lạ về nghĩa cử truyền
thống miền Nam, nhà nào ở miệt vườn cũng đều đặt sẵn cái khạp chứa nước và cái
gáo dừa có cán ở đầu hè để trưa nắng bạn làm đồng ngoài kia từ ruộng bước lên
có ngay hớp nước uống vô dễ thấy mát ngọt mà tan đi nỗi mệt nhọc.
Sinh hoạt hằng ngày khiến cho người hai miền
càng ngày càng sát lại gần hơn, chẳng mấy chốc sự ghẹo trêu nhau bị mất đi hồi
nào cũng chẳng biết. Rồi tình cảm nảy sinh, gió mát trăng thanh, những
bữa nhậu, những câu hò, vọng cổ làm cho ruột gan nhau thấm đậm tình người.
Cuộc di cư hàng triệu người một sớm một chiều
bỗng tan đi chớp nhoáng. Đã có những cuộc tình đẹp thiệt đẹp nảy sinh,
trai Bắc chọn gái Nam vì các cô hiền từ, ngoan, biết chiều chồng, giỏi bếp núc,
và có giọng hò, thả câu lý, ca vọng cổ mượt mà hết xảy. Ngược lại anh
trai Nam chọn chị Bắc vì cái nết hay lam hay làm, chịu đựng, hi sinh, sẵn sàng
gánh vác công lênh nhà chồng như chính nhà mình.
Chả thế mà chiều chiều đã có những chiếu rượu
dưới gốc cây ô môi để nghe các cô em Nam Bộ rỉ rả câu tình lang lả lướt, và
khối anh Bắc cũng mon men học bằng được món luyến láy của cách nói lối để vào
câu vọng cổ dạ lang hay vọng cổ hoài lang rất ngọt ngào.
Ai dám cả quyết lòng mình không rung động khi
nghe các nường thỏ thẻ gọi mời : anh Hai ui,
có mệt dzô nghỉ chút cho phẻ, gồi đi típ. Và giữa bộn bề của cuộc
sống, ai chẳng sẽ chùng lòng khi nghe câu lửng của cô em : nếu có thương nhau, anh dzìa thưa cha thưa
mẹ, đừng để em mỏi mòn chờ đợi nhe anh.
Báo sao các ông nhà thơ, nhà văn không thấy
mình rạt rào vì đất nước Sè Goòng ? Ta đã từng ngẩn ngơ vì câu hát nghe
như giọng hò văng vẳng : Nhà Bè nước
chảy chia hai; ai dzìa Gia Định, Đồng Nai thì dzìa. Hoặc : nắng Saigon em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc
áo lụa Hà Đông…
Cho đến nay, dù vật đổi sao dời thì mỗi lượt
có dịp đi ngang Kẻ Sặt, Phương Lâm, Lâm Hà, Bình Phước ta vẫn còn bắt gặp dấu
ấn của một thời người Bắc chuyển vùng vào sinh sống trong Nam. Ở những
địa phương đó ít nhiều họ cũng góp phần vào dựng xây kinh tế và nét văn hóa đặc
thù của cái nôi sông Hồng nơi mảnh đất đã rộng tay đùm bọc, cưu mang.
Có nhiều người đơn giản nghĩ rằng đề cập đến
Sè Goòng là chỉ khoanh vùng vào một địa giới cỏn con cũng đổi thay tên gọi trải
qua thời thế. Chẳng hạn có người đã nhắc tới tên Sài Côn của một vương
triều nào đó, có người ám chỉ vùng đất mới được khai phá vòng vòng quanh những
khu phố được dựng xây từ những năm cuối thế kỷ 18, sau khi người Pháp chiếm Nam
Kỳ.
Riêng với tôi, Sè Goòng không chỉ hẹp như
vậy, bởi vì tuy địa danh Saigon được khoanh vùng trong tâm tưởng là như thế,
nhưng khi nói về người Sè Goong giờ ở đâu thì ta phải hình dung ra cái nghĩa
rộng lớn vô cùng.
Bởi vì nhiều người vì lẽ này hay lý nọ giờ
không còn ở lại nơi đất nước mà phiêu bạt khắp các nơi thì trong trí óc họ Sè
Goòng là tất cả, là Bến Tre, Cà Mau, Long Khánh, Bạc Liêu, là bến Bạch Đằng,
cầu Ba Cẳng, là Phước Tỉnh, Phú Xuân v.v… và v.v… của những đêm hồi hộp nằm ém
chờ chạy ồ ra biển, hay ngay cả Tân Sơn Nhất đĩnh đạc lên chuyến bay ra đi.
Trong những cuộc chuyển vùng bất đắc dĩ đó,
phải nói cuộc tháo chạy 75 là vô cùng bi thảm. Dư luận rêu rao lên án về
một sự phản bội gì đó, về những sự khiếp sợ không rõ ràng, bởi vì chính thực
những người xô đẩy nhau trốn chạy, hay đành ở lại cũng không hiểu nguyên do đã
có lúc khiến họ hãi đến vậy.
Bây giờ có người xa Saigon đã 40 năm tròn, có
người vẫn đi về năm một vài bận, nhưng Sè Goòng vẫn nằm đâu đó trong suy nghĩ
của từng cá nhân. Con số hằng triệu người phân rải rác ở khắp nơi, chỗ
nào mở rộng lòng nhân từ giơ tay cứu vớt họ, tạo cho họ một cơ hội sống, giúp
họ lập lại cuộc đời từ bước đầu.
Thấm thoắt giờ đã hình thành thế hệ 2 hoặc 3
của những người ra đi đó. Nơi đất tạm dung, họ đã có cuộc sống ổn định,
con cái học hành đến nơi đến chốn, có công ăn việc làm, có tư hữu, có đóng góp
công lao mọi mặt vào dòng chính. Một vài nơi họ còn lưu lại nhiều dấu
tích về một nền văn hóa của dân tộc vì họ nghĩ rằng các vật thể này nói lên
lòng biết ơn của họ với quê hương tạm dung.
Phần lớn họ đã thành công dân của nước sở
tại, thụ hưởng mọi quyền lợi như dân dòng chính. Có thể đời sống họ có
khác đi, họ Tây hơn, Mỹ hơn, Úc hơn, song một phần hồn của họ vẫn chưa sao quên
đi SAIGON của một thời đã sống.
Đối với họ SAIGON vẫn là một ký ức chưa phai
nhạt. Người ta có thể đùa gọi trệu tên của miền đất hồi nào, hoặc Sè
Goòng, hoặc Sài Ghềnh, hoặc Sầu Thành, hay gì gì khác, nhưng nhất định lảng
vảng những chiều thứ bảy tay trong tay dạo phố, lần đầu tiên trao nụ hôn tình,
hay một lần chờ đón nhau nơi cổng trường thì chắc chắn họ vẫn chưa quên.
Có một điều lạ khiến người viết băn khoăn là
bất kỳ cuộc di dân chuyển vùng nào cũng bắt nguồn từ phía Bắc dồn vào Nam mà ít
khi thấy ngược lại. Kể cả từ khi phong trào mộ phu đi tân thế giới, khổ
chứ có sướng gì đâu thì việc ra đi vẫn là từ con đường ấy.
Phải chăng vì Sè Goong có một sự vẫy gọi âm
thầm nào đó mà không ai có thể dùng lời lẽ để phân tách ra được. Thôi thì
cứ biết thế đi, vì dẫu có sao thì SAIGON vẫn là một phần của giải đất hình chữ
S kia mà.
ĐỖ THÀNH
304Đen -
Llttm