MỘt thỜi cái NỒi ngỒi trên cái CỐc
Chuyện Năm Xưa Nay Vẫn Còn Y Nguyên. Cái Nồi ngồi trên cái Cốc. Ngày nay
nếu quý bạn thử hỏi một người Việt nào đó về cái nhóm chữ kể trên thì có thể
người ấy sẽ lắc đầu, trả lời là không biết ý nghĩa nó chỉ cái gì ? Ngoại trừ
những người đã từng sống trong khung cảnh của thời điểm: Cái Nồi Ngồi Trên Cái
Cốc. Những ngày sau 30.4.1975 tại miền Nam VNCH. Ngay khi CS vừa chiếm
được thủ đô Saigon, người dân miền Nam đã thấy bộ đội CS kéo nhau (từ nơi đóng
quân) đi rảo thành từng nhóm trên các dãy phố để xem phố xá miền Nam và đây
cũng là dịp để người dân Saigon tiếp xúc với họ, người miền Bắc XHCN .
Những cuộc tiếp xúc ấy, dù chớp nhoáng, ngắn ngủi nhưng đủ để cho người dân Saigon có những nhận xét về tình hình miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) là:
Những cuộc tiếp xúc ấy, dù chớp nhoáng, ngắn ngủi nhưng đủ để cho người dân Saigon có những nhận xét về tình hình miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) là:
– Người dân miền Bắc sống trong một xã hội lạc hậu vì có rất nhiều bộ đội
hoàn toàn ngạc nhiên khi trông thấy các tiện nghi rất bình thường tại miền Nam
như quẹt gaz, máy casesstte , máy hát dĩa , đồ chơi điện tử… Có bộ đội không hề
biết Hoa Kỳ đã đưa được người (Niel Amstrong ngày 20.7.1969) lên được mặt
Trăng. Kiến thức về thế giới sử, về lịch sử VN và nhất là về miền Nam VNCH của
những bộ đội khác biệt hẳn với hiểu biết của người dân Saigon.
– Vai trò của Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến đã được bộ đội diễn giải là tàn
ác, diệt chủng khi thả bom nguyên tử (tháng 8.1945) xuống hai thành phố
Hiroshima và Nagasaki.
Trong những lần tiếp xúc đầu tiên, người Saigon rất ngạc nhiên khi thấy chỉ
là anh lính mà một bộ đội có thể nói (thao thao bất tuyệt) về các đề tài chính
trị nhưng chỉ ít lâu sau; Người dân Saigon khám phá ra là nếu trò chuyện với
bất kỳ bộ đội nào, cũng đều được nghe họ nói cùng một kiểu y như vậy (hùng hồn
dù chỉ một chiều). Chính thời gian nầy, những câu chuyện máy bay Mig nấp trên
mây phục kich máy bay Mỹ hoặc bom hạt nhân mà Mỹ thả xuống 2 thành phố bên nước
Nhật là do Liên Xô cho mượn… đã được các bộ đội kể ra cho nghe.
Phần các bộ đội, khi tiếp xúc với người dân của thủ đô miền Nam VNCH. Họ đã
thấy đây một xã hội văn minh, người dân có cuộc sống sung túc gấp bội so với xã
hội miền Bắc XHCN mà (trước đó không lâu) các cán bộ chính trị trong đơn vị họ
vẫn quả quyết là người dân ở miền Nam VNCH phải sống trong cảnh nghèo đói cực
kỳ. Đám chính trị viên quả quyết với họ rằng đế quốc Mỹ đã thu gom mang hết các
tài nguyên, của cải ở miền Nam nên người dân không có cái gì để ăn thậm chí có
quần áo không có và phải mặc áo quần làm bằng nylon… Đó cũng là một trong các
lý do mà đảng và bạo quyền CS Hà Nội tuyên truyền để biện minh việc kéo quân
vào xâm lăng miền Nam VNCH (nói là giải phóng người dân khỏi sự kềm kẹp). Chính
vì kinh tế miền Nam vượt trội hẳn hơn miền Bắc nên khi dạo phố, bộ đội đều tròn
xoe (và trầm trồ trong lòng) là miền Nam giàu có cực kỳ nhưng ngoài mặt thì họ
đều một bài bản leo lẻo là xã hội miền Nam chỉ phồn vinh giả tạo.
Cũng một lò CS với nhau nhưng đám VC tập kết trở về miền Nam trong giai
đoạn nầy lại có thái độ khác. Đa số im lặng không đả động gì về miền Bắc nhưng
cũng có người lại nói thẳng (dù rất ít) là: Ngoài đó có cái mẹ gì! Trộm cắp
thấy sợ luôn. Xe đạp phải có bảng số riêng, quần áo giặt phơi ngoài dây phải
coi chừng không thì mất. Ai có cái đài (radio) đi đâu cũng phải mang kè kè bên
người, sơ ý một phút là mất ngay.
Dạo phố chung với nhau từng nhóm để rồi bộ đội thấy mọi thứ trên đường phố
như các cao ốc, xe gắn máy hai bánh, quần áo phục sức của người dân, hàng hóa
bày bán trong các cửa hiệu có đèn đuốc sáng choang. Các tiện nghi mà người
Saigon đang dùng trong nhà (ở miền Bắc XHCN chưa hề có) như TV, máy hát, tủ
lạnh (lần đầu tiên trong đời họ mới được thấy, được biết) đều lạ lẫm, văn minh
và cực kỳ hiện đại (chữ dùng của bộ đội). Rồi sau khi tiếp xúc với người dân và
xã hội miền Nam lúc đó, có bộ đội đã bừng tỉnh (vì biết bản thân mình đã bị đảng
và bạo quyền CS Hà Nội lừa bịp bao nhiêu lâu nay) nên họ đã thổ lộ (chỉ trong
chỗ riêng tư kýn đáo với các thân nhân thôi) về nỗi buồn nỗi đau vì đã là nạn
nhân của chế đô. CS (tương tư. Dương Thu Dương ngồi bệt xuống vệ đường Saigon
mà khóc khi biết được sự thật).
Tuy vậy, một chuyện vui trong thời điểm đó là người dân Sài Gòn đều biết là
bộ đội CS rất thèm thuồng có được một cuộc sống như người dân miền Nam nhưng
ngoài mặt, họ vẫn cố làm vẻ tỉnh bơ thậm chí có bộ đội còn nói xạo nói nổ là ở
miền Bắc XHCN những thứ kể trên nhà nào mà chẳng có hoặc chạy chúng đầy đường
(kể cả TV và tủ lạnh). Kem lạnh (Ice Cream) thì có bộ đội còn cả gan bảo là ở
ngoài Bắc, dân ăn không hết còn phơi khô để dành.
Không biết thái độ nói lấy được nói cái gì miền Bắc cũng có và phẩm chất
còn tốt hơn thứ ở miền Nam VNCH đang dùng là tự ái địa phương hoặc sĩ diện của
người sống khác chế độ hay đây là một chỉ thị (từ cấp trên) bắt buộc các bộ đội
CS khi tiếp xúc với người miền Nam VNCH phải nói láo, nói thánh tướng như vậy?
Họ đã bị đảng, nhà nước CS nhồi sọ. Thêm một điều nữa là với những bộ đội đóng
quân trong các thành phố miền Nam VNCH nầy, khi về phép hoặc phục viên (giải
ngũ) thì đã bị chính trị viên đơn vị hội thảo (nhồi sọ, buộc phải kể lại (cho
thân nhân ở hậu phương miền Bắc nghe) là miền Nam VNCH vô cùng lạc hậu và đói
nghèo (không có cái gì để ăn). Chính vì vậy mà có rất nhiều người dân miền Bắc
đã mắc lừa thêm một lần nữa khi họ cố hết sức để mang vào miền Nam ít kg gạo,
thuốc chữa bệnh và quần áo (cũ rách của họ) để tiếp tế ngay cho các thân nhân
di cư từ năm 1954 đang sống tại Saigon.
Đây là trường hợp dở khóc dở cười (chở củi về rừng) của các thân nhân người
viết bài nầy khi họ vào thăm gia đình ngay sau khi thiết lộ (đường sắt Thống
Nhất) xuyên Việt vừa khai thông. Ngay học gia? Nguyễn Hiến Lê, một người luôn
có tình cảm với phe CS nhưng chỉ một thời gian ngắn sau ngày 30.4.1975 đã viết
như sau (trong hồi ký):” Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền
Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30.4.75, vô Saigon, loá mắt lên, mới
thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh”. Có
thể như vậy thật vì sự dối trá bắt đầu từ cấp lãnh đạo rồi xuống dần các cấp
thừa hành và sau cùng là người dân lãnh đủ.
Ngay trong khu phố của người viết bài nầy có một tiệm Kem. Một bộ đội ghé
vào, được nếm món Kem lạnh quá ngon nên khi quay về chỗ đóng quân (trại lính,
căn cứ của chế độ cũ), bộ đội nầy đã kéo thêm vài đồng đội khác trở lại tiệm và
gọi người chủ mang ra cả mấy khay đầy Kem để cả bọn ăn cho sướng miệng. Để rồi,
những ngày kế đó, các bộ đội nầy tìm gặp chủ tiệm Kem để buộc tội định đầu độc
họ vì; Sau khi ăn Kem về tới doanh trại, cả bọn đã bi. Tào Tháo đuổi liên tục.
Nhiều người vẫn kể về câu chuyện tiêu biểu cho hình ảnh lạc hậu của bộ đội
là chuyện về cái Nồi ngồi trên cái Cốc.
Chúng ta hãy hình dung ra một hình ảnh một tay bộ đội (bên vai đeo lủng
lẳng một máy radio) làm ra vẻ bình thản bước vào một tiệm cà phê đông người.
Tay nầy kéo ghế ngồi tại bàn, mở radio ra nghe nhưng kýn đáo quan sát các thức
uống khách đang dùng trong tiệm mà (với y ta) có một món là lạ ở trên bàn của
những người khách ngồi gần. Chủ tiệm thấy khách là bộ đội, vội bước đến hỏi:
– Anh bộ đội dùng thứ gì đây? (có nghĩa là ông quyền muốn uống thứ gì chủ
bán trong tiệm).
Tay bộ đội nầy rụt rè chỉ ngón trỏ vào món (mà y không biết tên gọi )
đó, nói:
– Cho tớ (bộ đội thường xưng hô cậu tớ trong giao tiếp) uống cái món
đấy đấy. .
– Món gì? Chủ tiệm ngạc nhiên, hỏi lại ỵ .
– Cái món… như là cái Nồi ngồi trên cái Cốc đó. Tay bộ đội trả lời.
Nhìn theo ngón tay của bộ đội chỉ, chủ tiệm và những người khách ngồi gần
bên nghe được phải nín cười (cười công khai lúc đó thì coi chừng mắc vạ chẳng
chơi).
Thì ra cái Nồi ngồi trên cái Cốc trong lời nói của bộ đội là ly cà phê
Phin. Cái nồi là cái lọc cà phê bằng Nhôm đặt nằm trên trên một cái ly thủy
tinh. Món cà phê Phin nầy du nhập vào nước Việt (cả ba miền Nam.Trung.Bắc) từ thời Tây thực dân chứ đâu có
phải là thức nước uống mới lạ gì. Vậy mà các bộ đội miền Bắc khi đó lại không
biết đến nó. Quá sức lạc hậu! Có người bào chữa cho là món cà phê Phin có thể
là một thức uống xa xỉ trong một xã hội nghèo đói như xã hội CS miền Bắc khi
đó. Có thể trong các hàng quán thông thường (cửa hàng giải khát quốc doanh)
không có nên bộ đội mới không biết đến hình thù nó ra sao. Giờ bắt gặp, thấy lạ
nên mới hỏi.
Trong thực tế, hầu như ở bất cứ quốc gia nào cũng đều có những thứ hàng
thuộc loại xa xỉ, mắc tiền mà người dân nghèo nơi đó không dám dùng (vì không
dư giả tiền bạc) nhưng họ vẫn biết có sự hiện hữu của chúng trên đời nầy. Còn
như không biết đến chúng (như món cà phê Phin nhan nhản ở các nước) thì chỉ do
người dân bị chính quyền nơi đó bịt mắt không muốn cho biết mà thôi. Chuyện cái
Nồi ngồi trên cái Cốc tưởng như là một chuyện đùa (kiểu chuyện khó tin nhưng có
thật) đã được truyền miệng như một câu chuyện cười dân gian kể từ đó.
Nhưng, chỉ vài năm sau, nhiều cán bô. CS khác (sau khi đã sống trong miền
Nam rồi) đã cãi cối cãi chầy với người viết bài nầy là làm gì mà có chuyện bộ
đội như Mán Về Thành được. Các cán bộ nầy cho là một quân đội từng đánh thắng
hai tên Đế quốc sừng sỏ của thế giới là Pháp và Mỹ thì nhất định quân đội đó
không thể nào…Cả Quỷnh như vậy được. Tất cả chỉ là luận điệu tuyên truyền của
bọn địch thôi (nhằm làm
giảm hình ảnh hào hùng, thanh nhã của bộ đội) và có nhiều người trẻ bây giờ cũng tin là vậy. Nhưng những hồi ức của các cán binh kể lại (trong trang báo QDND) ở dưới đây cho chúng ta thấy các chuyện tương tự cái Nồi ngồi trên cái Cốc đã từng xẩy ra.
giảm hình ảnh hào hùng, thanh nhã của bộ đội) và có nhiều người trẻ bây giờ cũng tin là vậy. Nhưng những hồi ức của các cán binh kể lại (trong trang báo QDND) ở dưới đây cho chúng ta thấy các chuyện tương tự cái Nồi ngồi trên cái Cốc đã từng xẩy ra.
… xin trích… “Tôi ra gọi
một chiếc xe lam. Cậu y tá tên Thành, người Thái Bình ở trung đoàn bộ được điều
đi giúp tôi lấy giấy in báo. Khi ra đường thấy chiếc xích lô máy chở nước đá
cây đang lóng lánh bảy sắc cầu vồng trong nắng tháng Năm Saigon, vì dân quê đi
bộ đội là vào rừng, lần đầu tiên đến thành phố nên Thành không biết đó là thứ
gì, Thành níu vai tôi la toáng lên:
“Anh Khôi ơi! Kim cương! Kim cương nhiều chưa kìa!”. Tôi nín cười, mắng:
“Im đi, họ cười cho đấy, đó là nước đá, họ làm đông nước thành đá!”. … Ngay
buổi sáng 1.5.1975 đi chợ mua chục con cá lóc. Anh về đếm mãi vẫn cứ 12 con,
bèn lật đật ra chợ tìm cho được bà bán cá trả lại hai con vì “tội người ta”,
“buôn bán kiểu này thì lời cái gì”. Khi anh tìm được bà bán cá, bà cười toáng
lên: “Chú giải phóng ơi, “một chục” ở đây là 12 chứ không phải mười nghen!”.
Anh về kho nấu bữa tối, còn hai con cá để lại ngày mai , anh cho vào chỗ bồn
cầu vì thấy ở đó có nước! Sáng mai anh đi bắt cá để nấu cháo thì cá không còn
nữa. Anh đi báo cáo thủ trưởng, tưởng có người làm mồi nhậu ban đêm. Đến nơi ai
cũng ôm bụng cười vì cá thì mất, mà cầu thì tắc, phải nhờ ông thợ hàng xóm sang
thông hộ”. … hết trích.
Thói đời, người nghèo thì ghét kẻ giàu có và người dốt không ưa người khôn
ngoan. Người vô học, hành xử khác người có giáo dục và người lạc hậu thì xa lạ
với các cử chỉ văn hóa. Buổi trưa ngày 30.4.1975, các chính khách trong nội các
của Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh đã ngỏ ý mời các sĩ quan CS trong lữ đoàn xe
tăng 203 (đơn vị chiếm được dinh độc lập) dùng bữa tiệc mà họ đã dọn sẵn để
khoản đãi đại diện phía bên kia (phe CS) khi vào dinh nhận bàn giao chính
quyền. Bữa tiệc được kể là có món Súp Cua nấu măng Tây, rượu Champagne … nhưng
thái độ niềm nở của chính quyền miền Nam VNCH khi đó đã bị các sĩ quan CS nầy
từ khước. Thay vào đó, các sĩ quan CS nầy đã buộc các chính khách trong nội các
của Tổng Thống Dương Văn Minh phải ăn một bữa cơm trận mạc (chỉ có lương khô
hoặc cơm với thịt lợn kho đóng hộp, hàng viện trợ của Trung Cộng). Thái độ của
các sĩ quan CS nầy tương tự như cách hành xử của một cán bộ CS cao cấp khác khi
y nhận bàn giao chính quyền từ tay viên đại tá tỉnh trưởng tỉnh Bạc Liêu. Viên
đại tá VNCH tỉnh trưởng nầy sau khi bàn giao chính quyền xong, đã mời tay cán
bô. CS đại diện dùng một bữa ăn tại một nhà hàng trong thị xã. Bữa ăn vừa chấm
dứt thì chính tay cán bô. CS đại diện đó đã ra lệnh cho thuộc hạ còng tay viên
đại tá VNCH nầy và giải ông ta vào thẳng trại giam.
Không cho người dân biết đến các thông tin ở các nơi khác, nước khác thì đó
là bức màn sắt, bức màn che hay bưng bít thông tin rồi. Trong một xã hội mà
người dân bị chính quyền bưng bít các thông tin thì xã hội đó chỉ là một xã hội
nghèo đói, lạc hậu (sợ người dân biết về các xã hội khác văn minh, giàu có hơn
xã hội mình). Tệ hại hơn, đảng và bạo quyền CS miền Bắc lại còn buộc người dân
phải nói láo về xã hội
họ đang sống. Người dân mở miệng nói ra những điều lếu láo và biết người nghe mình biết đó là dối trá nhưng vẫn tỉnh bơ. Đó chính là tình cảnh của các bộ đội CS miền Bắc trong thời điểm đoàn quân họ vừa chiếm được miền Nam VNCH.
họ đang sống. Người dân mở miệng nói ra những điều lếu láo và biết người nghe mình biết đó là dối trá nhưng vẫn tỉnh bơ. Đó chính là tình cảnh của các bộ đội CS miền Bắc trong thời điểm đoàn quân họ vừa chiếm được miền Nam VNCH.
Bề ngoài ca tụng hết lời về cảnh sống ngoài miền Bắc nhưng thực tế thì lại
khác. Những tháng kế tiếp sau ngày 30.4.1975 nầy, rất nhiều bộ đội khi quay về
miền Bắc để đi phép hay giải ngũ (mà họ gọi là phục viên) thì người nào người
nấy cũng cố mà mua sắm ít hàng hóa của miền Nam để làm quà cho mình và thân
nhân. Người có tiền thì mua TV, Radio, Đồng Hồ đeo tay…Người ít tiền thì mua
quần áo, đồ chơi… Hầu hết bộ đội có gia đình đều mua một Búp Bê bằng nhựa (có
thể chớp mắt mở mắt) để làm quà cho con cháu mình. Có bộ đội thì chiếm đoạt hẳn
đồ đạc còn lại (coi là chiến lợi phẩm) trong những căn nhà mà chủ đã di tản ra
ngoại quốc khi họ đóng quân nơi đó.
Chính vì sống trong một xã hội lạc hậu nên có quá nhiều câu chuyện (mà ta
tưởng là chuyện đùa, tiếu lâm tân thời như các mẩu chuyện kể trên) về anh bộ
đội cu. Hồ sau khi được tiếp xúc với xã hội miền Nam VNCH. Xã hội miền Nam VNCH
khi đó nếu là phồn vinh giả tạo (theo biện giải của các tay đầu lĩnh Hà Nội)
nhưng cho dù có giả tạo thì người dân cũng vẫn còn có phồn vinh trong khi miền
Bắc XHCN thì rõ ràng là có nghèo đói thật.
Thân nhân của người viết bài nầy là một bộ đội miền Bắc trong thời điểm
30.4.1975 khi đó. Khuôn mặt đầy vẻ ngạc nhiên và buồn bã, người bà con nầy thổ
lộ tâm tình cho biết: Từ những chiến dịch ở Tây Nguyên (các tỉnh miền Trung
VNCH), không hiểu tại sao mỗi khi bộ đội CS kéo quân đến bất kỳ nơi nào thì
người dân miền Nam ở nơi đó đều tìm cách bỏ của chạy lấy người về phía quân
Nguỵ? Rồi khi bộ đội CS vào được đô thành Saigon thì người bà con nầy mới biết
miền Nam VNCH quá sức phồn vinh, bỏ xa lơ xa lắc miền Bắc XHCN. Nhiều người dân
miền Bắc khi có công việc vào miền Nam, nếu dừng chân ở một
khu phố nào đó trong Saigon (trong các năm sau 1975) thì họ tưởng như đang đứng trong một thành phố nào đó ở nước ngoài.
khu phố nào đó trong Saigon (trong các năm sau 1975) thì họ tưởng như đang đứng trong một thành phố nào đó ở nước ngoài.
Thực sự trong lòng người dân miền Nam VNCH khi đó, không ai cười về những
hành động những cử chỉ kiểu Mán Về Thành, Cả Quỷnh hay Không Biết Tại Sao…của
các bộ đội miền Bắc nầy. Vì người dân miền Nam VNCH biết bộ đội (cũng như toàn
thể dân chúng miền Bắc XHCN) đều là nạn nhân của thói bưng bít tin tức của lũ cầm quyền trong xã hội CS. Đám đầu
lãnh CS Hà Nội không muốn người dân biết về một cái gì đó (như sự sung túc về
kinh tế, sự dân chủ.tự do về chính trị của miền Nam VNCH) thì làm sao người dân
miền Bắc biết được. Kể cả những thứ rất bình thường tại các nước (và tại miền
Nam VNCH trước đây) như chuyện cái Phin lọc cà phê trong bài viết nầy.
Chiến tranh hai miền Nam.Bắc VN đã lùi xa 34 năm rồi. Giờ đây, chắc chắn
không còn ai trong nước Việt vào một tiệm cà phê lại buột miệng gọi món: Cái
Nồi ngồi trên cái Cốc nữa (ngoại trừ họ đùa giỡn với nhau) nhưng ý nghĩa câu chuyện
cái Nồi ngồi trên cái Cốc vẫn còn trong tư duy của đảng CSVN vì; Những điều thật bình thường ở các quốc gia
khác hiện nay mà đảng CS vẫn muốn người dân trong nước Việt không được biết đến
đó là các thứ quyền của người dân như: Cư trú, Lập hội, Ngôn luận, Ứng cử thậm
chí Bãi miễn chính quyền nữa… Những món hàng Dân Quyền nầy vẫn xa lạ với người
dân Việt trong nước mà nguyên do là các tay đầu lãnh CS Hà Nội muốn duy trì như
vậy.
Tự do cư trú, quyền lập hội lập đảng mới, tự do ngôn luận, quyền ứng cử, quyền
bãi miễn chính phủ… Nhiều thứ quyền mà người dân chưa hề thấy (kể từ khi đảng
CS cai trị nước Việt tới nay), dù là trong Hiến Pháp CS đã ghi rõ rành rành.
Duy trì một xã hội nghèo đói, lạc hậu là để người dân vì đói vì nghèo nên chỉ
biết tìm cái ăn cái mặc còn tâm trí đâu mà tìm hiểu những quyền con người được
hưởng để chống lại bọn cầm quyền. Hầu như xã hội CS nào cũng đều một cách thức
điều hành đất nước y một kiểu như vậy.
Nhân ngày 30.4 kể lại câu chuyện cái Phin cà phê nầy, tác giả không có ý
viết để dè bỉu để chê cười cái ngây ngô của bộ đội miền Bắc trong những ngày
năm xưa đó mà chỉ muốn nhắc nhở với
những người còn tin vào chế đô. CSVN. Chính chế độ nầy đã đang và sẽ là rào
cản mọi tiến bộ của đất nước nếu vẫn còn tiếp tục cai trị. Đám đầu lãnh CS Hà
Nội hiện giờ vẫn cứ cố sức mô tả là người dân Việt trong nước có đầy đủ các thứ
dân Quyền (theo kiểu ở ngoài miền Bắc chạy đầy đường nhưng thực sự là không hề
có) giống y cách gọi cái Nồi ngồi trên cái Cốc năm xưa trong các câu chuyện kể
về các bộ đội CS. Ai (người nước ngoài) mà nói dân ở VN hiện không có các thứ
quyền nầy thì đều nhận được câu trả lời của đảng và chính quyền CS Hà Nội là
người đó xuyên tạc tình hình (xã hội.chính trị) tại VN.
Viết để nhớ lại ngày 30.4.1975
Phạm Thắng Vũ
April 14, 2009
Phạm Thắng Vũ
April 14, 2009
304Đen
- Llttm
No comments:
Post a Comment