Cái Búa
Chợt bà hỏi
ông chuẩn úy thì đâu đã được gọi là quan, ông nói, trong chiến tranh Việt Nam,
trong quân lực Cộng Hòa, cấp chuẩn úy là nòng cốt chiến đấu, là thành phần chỉ
huy đông nhất, là những người chính thị làm chiến tranh không ai khác vào đấy
cả. Nhưng họ lại không phải là những người chọn binh nghiệp làm sự nghiệp không
lấy con đường đó làm tương lai huy hoàng mà họ chỉ là những quân nhân trừ bị
lên đường tòng quân theo tiếng gọi của non sông khi đất nước hữu sự, để rồi sẽ
rời bỏ quân ngũ khi chiến tranh chấm dứt. Họ là những trí thức từ ngoài đời vào
quân trường, họ là những người chắt lọc từ tập thể binh lính trong quân đội đôn
lên, họ vừa làm quan vừa làm lính, họ vừa phải chỉ huy vừa phải bắn súng, trong
giao tranh họ có trách nhiệm làm trung đội trưởng cùng lúc với trách nhiệm binh
nhì. Không nói đến một số ít trường hợp cá biệt có những sĩ quan trừ bị làm bộ
trưởng, thứ trưởng hay tổng giám đốc, làm cố vấn chính trị cho ông tổng thống
gốc gác tướng lãnh hiện dịch chuyên nghiệp… Cho nên, tuy là “chuẩn” nhưng chính
họ là xương sống của quân lực. Có thể khi làm xong nhiệm vụ họ không còn là
chuẩn úy mà đã theo dòng chảy của chiến tranh lên đến cấp cao hơn nhưng cái cốt
lõi, cái khởi đầu của họ chính là chuẩn úy trừ bị.
Chuẩn úy,
những quân nhân chưa được hưởng quyền lợi sĩ quan nhưng có trách nhiệm sĩ quan,
những sĩ quan trừ bị, căn bản được đào tạo chỉ huy một trung đội nhưng có thể
kiêm thêm việc của một tiểu đội trưởng nếu đơn vị thiếu hạ sĩ quan, hoặc cũng
có thể được nâng lên xử lý thường vụ hay quyền đại đội trưởng nếu các ông thiếu
úy, trung úy, đại úy đại đội trưởng tử trận. Khoảng gần cuối khóa 1 sĩ quan trừ
bị “trường chuẩn úy trừ bị Bắc Việt” đặt trong khu đất nhà máy dệt Nam Định,
các sinh viên đã được đặc cách nâng lên cấp thiếu úy trừ bị ngay khi mãn khóa
rồi sau đó liên tiếp cho đến khóa 5 ở Thủ Đức, vì tình hình chiến sự khốc liệt
các tân sĩ quan đều ra trường như thế. Nhưng từ khóa 6 trở về sau hàng trăm
ngàn sinh viên sĩ quan ra trường mang cấp chuẩn úy lên đường bước vào QLVNCH để
chỉ huy hàng triệu binh sĩ chống lại âm mưu của những kẻ đã làm cuộc chiến
tranh vô ích cướp chính quyền cho ảo tưởng cộng sản.
Chuẩn úy,
một từ ngữ lạ lùng, một cấp bậc lạ lùng, nó dưới ông thiếu úy, nó trên ông
thượng sĩ nhất, có người coi nó là sĩ quan, có người coi nó là hạ sĩ quan. Ngay
cả những tay trong cơ quan trung ương tình báo ở tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn cũng
chẳng biết dịch sang tiếng Anh thế nào cho ổn bởi vì trong quân đội nước bỏ
tiền của ra làm cố vấn không hề có cái cấp bậc ấy. Hóa cho nên có tay thông
ngôn bèn phịa ra một danh từ để chỉ những ông chuẩn úy của QLVNCH trong tiếng
Mỹ là Third Lieutenant. Vâng các quí vị chuẩn úy ạ, các quí vị đã từng là 3rd
Lt. trong những buổi trao đổi thảo luận ở tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn về tình
hình chiến sự Việt Nam.
Năm 1959 tại
một tiệm sách ở thị xã Quảng Trị, có hai ông chuẩn úy mới mãn khóa sĩ quan trừ
bị trường Thủ Đức đổi ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh, vào mua báo, được cô gái chủ tiệm
xinh đẹp và thùy mị tươi cười chào hỏi:
– Chào thượng sĩ, thượng sĩ cần mua gì ạ?
– Chào thượng sĩ, thượng sĩ cần mua gì ạ?
– Ở đây có
bán cái búa không hả cô?
– Thưa
không, ở đây chỉ có sách báo và vật liệu văn phòng…
– Tiếc nhỉ,
tôi cần một cái búa.
Cô chủ tiệm
tỏ vẻ ái ngại, rất lấy làm tiếc, hai ông tân sĩ quan đứng xớ rớ một lát rồi đi
ra. Người bạn đồng hành hỏi khẽ:
– Mày cần búa để làm gì?
– Mày cần búa để làm gì?
– Để đập cái
cúc alpha vàng này cho nó xẹp xuống.
Sau này vào
năm 1988, hai ông bạn cũ gặp lại nhau ở trại tù Rừng Lá, cả hai ông đều đã là
cựu trung tá tù binh, ông ngày xưa hỏi mua búa cu ki không thấy ai lên thăm,
ông bạn cùng đi vào tiệm sách thì có bà vợ tháng tháng xách đồ ăn lên nuôi
chồng. Buổi tối hai ông ngồi ăn cơm, ông hỏi mua búa mới biết bà vợ ông bạn
mình chính là cô chủ tiệm sách ở thị xã Quảng Trị xưa kia. Ông hoảng hốt:
– Chết cha, thế bà ấy có biết cái vụ… hỏi mua búa không?
– Chết cha, thế bà ấy có biết cái vụ… hỏi mua búa không?
– Sau khi
ông đổi đi Sư Đoàn 7, tôi vẫn ở lại ngoài đó, cưới vợ chính là cô hàng sách báo
đường Trần Hưng Đạo, rồi vì quê vợ ở đó nên tôi cũng xà quần ở vùng đó luôn,
làm tiểu đoàn trưởng, làm quận trưởng… Có lần vợ chồng nói chuyện với nhau tôi
có nhắc đến ông, tôi cũng có kể cái chuyện ông đòi mua cái búa ngày mới đổi
tới, nhưng tuyệt nhiên bà vợ tôi không hề nhớ ra được.
– Cũng may.
– May gì?
Hồi chiều thăm gặp, tôi nói ông cũng ở trong này rồi tôi kể lại chuyện người ta
chịu huấn nhục một năm mới được một tí Alpha lại gọi người ta là thượng sĩ nên
người ta giận mới đòi mua búa, bà vợ tôi kêu lên: “Trời đất, có thế mà các ông
cũng giận hờn, để bụng suốt cả một cuộc chiến, gọi là thượng sĩ thì có sao, vẫn
yêu vẫn lấy làm chồng rồi đi theo suốt cuộc đời còn muốn gì nữa. Thậm chí còn
theo tới tận trại tù binh, trong rừng thiêng nước độc, khi các ông sa cơ lỡ vận
thế này, thì ai tính công điểm cho chúng tôi đây!” Bà vợ tôi nói tôi không hỏi
mua búa nhưng đi cùng với người hỏi mua búa và còn nhớ đến tận bây giờ thì cũng
là trong cùng phe nhóm oán hận suốt đời. Người ta nói sai chỉ một chữ vì không
thông hiểu cái hệ thống quân giai, chứ có gì đâu. Bà ấy hỏi thù gì mà thù dai
thế hả quí ông thượng sĩ gân? Ông thấy đàn bà ghê gớm chưa?
Tháng tư năm
1975 những người chuẩn úy đã làm xong nhiệm vụ lịch sử… bằng cách thua trận,
thua để cho đối phương thắng, thua để cho cộng sản thắng vì chỉ có cách để cho
cộng sản thắng mới phơi bày bộ mặt thật của giả hình hoang tưởng… nếu không để cho
những kẻ hoang tưởng chiến thắng, nếu không để cho họ chiếm đoạt được chính
quyền thì mãi mãi kẻ hoang tưởng vẫn cứ tưởng là hoang tưởng đúng. Đến một lúc
nào đó nên để cho hoang tưởng thỏa mãn lòng tự hào, đến một lúc nào đó đành
buộc các chuẩn úy phải chịu nhục. Mà thắng trận thì được những gì cơ chứ. Quyền
lực? Của cải? Vênh váo? Giả tỉ như nếu chẳng may những kẻ cầm quyền ở Miền Nam
thắng trận thì không biết sẽ xảy ra những gì cho đất nước, với quyền lực, của
cải và sự vênh váo nắm trong tay?
Bà lại bĩu
môi xì miệng “Ông cường điệu quá rồi đấy, nhưng gì thì gì ông cũng đã từ quan
rồi còn đâu mà khoe khoang”. Ông không tha cho bà, chưa hết đâu, đó mới chỉ nói
đến những ông quan còn sống, biết bao nhiêu chuẩn úy đã nằm xuống nơi chiến
trường, biết bao nhiêu người đã thành phế binh nay đang âm thầm sống lây lất ở
một nơi nào đó?
Thấy bà lặng
thinh ông nói tiếp, vẫn chưa hết đâu em à, còn biết bao nhiêu cơ man nào mà kể
những tân binh quân dịch, rồi lại còn những thanh niên không chịu tham chiến,
những lao công đào binh, tất cả họ đều là những người của cuộc chiến, nay họ
đâu rồi, đâu cả rồi, chẳng lẽ chỉ còn kẻ từ quan này ngồi suy ngẫm về lẽ sống ở
đời sao hả em?
*
Cuộc chiến
đã chấm dứt, rời xa chiến trường đã hơn ba mươi năm, và đang sống lưu vong ở nước
Mỹ xa xôi tít mù, nhưng nhiều đêm ông lão vẫn sực nghĩ tới một hình ảnh chiến
sự xa xưa: hai người lính nằm chết ở một thửa ruộng sình lầy, ngay kế bên chỗ
ông đứng, một người tân binh quân dịch mang chiếc máy vô tuyến trên lưng và một
người mang cấp hiệu cúc đồng có gân nổi alpha trên cổ áo. Họ là toán tiền sát
pháo binh gửi đến yểm trợ hỏa lực cho đơn vị ông. Cả hai đều còn trẻ, rất trẻ.
Họ chết bởi cùng một loạt đạn, trong cùng một nhấp nháy của cuộc chiến, hai xác
thân đổ xuống đánh huỵch đè chồng lên nhau. Cũng trong cái nhấp nháy và loạt
đạn ấy lại không có một viên nào trúng vào người ông đứng ngay khít bên. Kẻ
sống sót, cho đến mãn đời cũng không hiểu được, vì sao nguyên một băng đạn địch
cả chục viên bay tới mục tiêu lại chỉ trúng vào hai người trai trẻ mà không có
viên nào ghim vào người ông! Ông không hiểu được và ông cũng không tài nào quên
được cái nhấp nháy ấy. Trong đời ông, ông đã thấy tận mắt cái hình ảnh ấy, và,
cũng trong đời ông, nó sẽ mãi mãi ông không phai nhòa. Cho đến khi ông chết.
Thảo Trường
304Đen – Llttm - VT
No comments:
Post a Comment