Saturday, February 10, 2018

Chuyện Của Một Thời: Cười Mà Thấm Thía - Phạm Văn Tình



Chuyện của một thời: cười mà thấm thía!

 

[Cuốn sách biên soạn xong phải mất 2 năm chỉnh sửa, xin ý kiến nhiều người để có thể yên tâm xuất bản.

Vì nội dung cuốn sách (nhan đề THƯƠNG NHỚ THỜI BAO CẤP) đề cập tới khá nhiều vấn đề của một thời, khá nhạy cảm, dễ bị suy luận theo những hướng khác nhau. Một trong hai tác giả (Thành Phong) cũng chính là tác giả cuốn “Sát thủ đầu mưng mủ” và “Phê như con tê tê” gây xôn xao dư luận mấy năm trước.

Nội dung đặc biệt, cách thể hiện cũng đặc biệt. Từ thiết kế maket đến thể hiện màu sắc. Sách mới in trên giấy tốt mà trông qua cứ ngỡ là sách cũ lắm rồi.

Nhiều trang sách “ruột mèo” (được gấp một hai lần nằm giữa quyển). Nhiều tranh phải đọc liên thông mấy trang sau mới hết nội dung thông điệp. Trong sách còn có phụ bản rời, in lại một số mẫu tem phiếu xưa (theo kiểu đề can mà người đọc có thể bóc ra dán vào một trang nào đó để trang trí.)

Kênh hình là chính, kênh chữ là phụ. Những câu nói rất ngắn gọn và hóm hỉnh. Có câu đã thành thành ngữ dân gian. Sách dày tới 254 tr. khổ 17×20,5 cm.

Mở đầu là bài viết “Ôn cố tri tân” của GS Nguyễn Minh Thuyết và “khoá đuôi” là lời bạt của tôi mà nhan đề như mọi người đã đọc “Chuyện của một thời: Cười mà thấm thía”.

Ngoài ra còn có thêm các ý kiến ngắn của TS Võ Trí Thành, PGS TS Nguyễn Lân Hiếu, TS Lê Đăng Doanh, TS Đặng Hoàng Giang, Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng, TS Khuất Thu Hồng, Linh Trang, Nhà văn Nguyễn Bình Phương…).

Dù anh Vũ Hoàng Giang, Phó GĐ Nhà sách Nhã Nam có thiện ý tặng tôi 2 cuốn, tôi vẫn phải mua thêm để tặng bạn bè, vì cuốn sách rất thú vị. Làm quà để tặng bạn bè nhân dịp Tết đến thì lại thú vị hơn.


* *
 



 

Tôi đang cầm một cuốn sách trên tay. Tôi không biết nên gọi tên cuốn sách này thế nào cho thật chính xác. Chỉ biết rằng đó là một cuốn sách đặc biệt.

Đặc biệt vì, đây là một tập hợp những sáng tác dân gian, sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau, ghi lại dấu ấn của một thời. Thật khó xác định chính xác thời gian xuất hiện của những sáng tác này. Nhưng chắc chắn, khi đọc lên, độc giả sẽ khẳng định ngay, chúng ra đời trong một giai đoạn lịch sử đáng nhớ của đất nước ta: Thời kì bao cấp. Đó chính là giai đoạn đất nước ta còn chia cắt. Nhân dân, nhất là nhân dân miền Bắc đang tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam. Khỏi phải nói dân tộc ta phải phấn đấu, hi sinh như thế nào và đã giành được chiến thắng vô cùng hiển hách, làm rạng danh sức sống, khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.

Bên cạnh những sáng tác văn học, nghệ thuật chính thống (tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, nhạc, họa…) được lưu hành rộng rãi cũng còn những sáng tác dân gian, truyền miệng. Chúng hoàn toàn khuyết danh. Đó là những câu nói ngắn. Có khi chỉ là ngữ đoạn vài ba âm tiết (phanh nón, phở ngó, canh toàn quốc…). Có khi mang dáng dấp một câu thành ngữ hay tục ngữ (chân ngoài dài hơn chân trong, ăn cơm trước kẻng, gái công trường giường bệnh viện…). Có khi là một bài ca dao khá dài (tới 8 câu lục bát). Tất cả đọc lên nghe rất thú vị, vì nó dễ thuộc, dễ nhớ và điều quan trọng là nó phản ánh biết bao sự kiện, biết bao suy nghĩ, biết bao nỗi niềm của một thời đã qua.

Thời kì bao cấp, chế độ bao cấp, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp… là những khái niệm mà ai ai cũng biết (Gần đây còn có cả một cuộc triển lãm khá quy mô nữa). Từ cuối những năm tám mươi của thế kỉ trước, đất nước ta bước sang thời kì đổi mới, chế độ quan liêu bao cấp đã không còn. Cũng cần phải nói rằng, cơ chế bao cấp là một yêu cầu cần thiết để Nhà nước duy trì các hoạt động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt… của nhân dân trong thời chiến. Nhưng cơ chế nào cũng vậy, thế nào cũng có mặt trái của nó. Cũng như xã hội nào cũng vậy, bên cạnh cái hay, cái tốt cũng còn có những cái chưa hay, cái đáng để chúng ta suy nghĩ và chiêm nghiệm.

Tôi từng là học sinh và cũng là người đã và đang đứng trên bục giảng. Tôi chợt hình dung, nhớ lại hình ảnh người thầy xưa trong câu ca dao này:

 


Thầy giáo lĩnh lương ba đồng
Làm sao sống nổi mà không đi thồ
Có thầy đi đạp xích lô
Làm sao gây dựng cơ đồ học sinh?

 

Hồi đó, người ta còn lưu hành một câu định nghĩa rất chân xác về đối tượng này: “Giáo viên là người thợ thủ công cá thể có nhiều nghề, trong đó có một nghề phụ duy nhất, đó là nghề dạy học”.

Và cảnh khó khăn, đói kém là phổ biến với nhiều người dân:

 

Ai sinh ra cái củ mì
Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
 

 
 

Hình ảnh người cán bộ hồi đó thật tội nghiệp “đi xe cố vấn, mặc áo chuyên “da”, ăn uống qua loa, ấy là… cán bộ”. Trong khi hết thảy mọi người đều vất vả, khó khăn, thì lại có một lớp người “có quyền, có chức” nổi máu cơ hội, trục lợi cho mình. Họ là những người có đặc quyền, đặc lợi nhưng cống hiến chẳng có gì: “ăn đại táo, ở đại gia, đi đại xa, làm đại khái”. Chân dung của họ thật là nực cười, hài hước “bụng to trán hói, ăn nói ba hoa, đi xe Volga, ăn gà Tôn Đản” (Tôn Đản có cửa hàng bán hàng phân phối cho cán bộ cao cấp). Họ là những người trong số ít lợi dụng “đục nước béo cò”:

 

Mỗi người làm việc bằng hai
Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe
Mỗi người làm việc bằng ba
Để cho chủ nhiệm xây nhà, xây sân
 

 

 



Họ giàu có, phè phỡn trong khi nhân dân còn đói khổ, thắt lưng buộc bụng “Bắt cởi trần phải cởi trần/ Cho may ô mới được phần may ô”. Hình ảnh “đặt cục gạch” (lấy các viên gạch “xí chỗ” thay cho người xếp hàng thật quá ấn tượng và câu thành ngữ “mặt nghệt như mất sổ gạo” là câu nói phản ánh chân xác một thời bao cấp, khi cái sổ gạo là “tài sản” sống còn đối với mọi gia đình cán bộ hay cư dân thành thị.

Ấy vậy mà, ngay ở tầng lớp các cán bộ cũng có nhiều người không hòa chung với dòng chảy xã hội, không “cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu” (Xuân Diệu). Đó là những người coi lợi ích vật chất là trên hết, “miếng thịt nó bịt cái mồm”. Những người “đầu đội chính sách, nách cắp chủ trương” ấy quan liêu, hạch sách, trù dập người khác “Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt/ Lọc lừa, lươn lẹo lại lên lương”. Thời mà thuốc lá ngoại đang có giá thì “Sa Pa đứng xa mà nói” và “Sông Cầu còn lâu mới được” mà phải là “ba số năm vừa nằm vừa kí”. Cán bộ cấp trên thì thế. Cán bộ cấp dưới cũng tác oai, tác quái như ai: “trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ (máy cày) ăn gà”, hay “Muốn cho điện sáng về nhà/ Ruột lợn, ruột gà phải nối đến nơi”.

Cặp mắt hài hước dân gian đã không bỏ qua một tầng lớp được coi là “phó thường dân”, đó là các sinh viên, học sinh. Họ là những “chủ nhân ông tương lai” nhưng quá tội nghiệp. Với cơm bo bo, chan “canh toàn quốc”, họ đúng là “ăn như tu, ở như tù”. Đến nỗi, một bài vè đã khái quát hóa tiêu chuẩn “chọn người yêu” của các cô gái:

 

Một yêu anh có may ô
Hai yêu anh có cá khô ăn dần
Ba yêu rửa mặt bằng khăn
Bốn yêu có thuốc đánh răng cả tuần…

 

Tiêu chuẩn như vậy hồi đó quả là rất thực, không có gì là nói quá lên cả.

Tuy nhiên, âm hưởng của những sáng tác dân gian thời đại này không chỉ là phê phán. Đọc rất nhiều câu, ta không nhịn được cười bởi chất “uy-mua” (hài hước) của người đời. Đây là hình ảnh của các anh chàng cán bộ vào dịp cuối tuần “cắt cơm, bơm xe, nghe thời tiết, liếc đồng hồ, thồ bao gạo, cạo bộ râu, xâu quai dép, tránh mặt sếp, tót lên yên, guồng như điên, về với vợ”. Còn các cô nàng nhà ta cũng chẳng phải vừa. Họ cũng “mau tắm rửa, sửa lông mày, thay quần áo, báo thêm cơm, bơm nước hoa, xoa thêm phấn, quấn lại tóc, bóc coóc xê, kê chân giường,…”. Các chú lái xe chỉ thích các em thanh nữ quần mỏng mà từ chối thẳng thừng mấy o bộ đội cục mịch: “phíp (quần phíp, loại quần phổ biến ngày xưa các cô hay mặc) thì đi, ka ki (trang phục nữ quân nhân) ở lại”. Các bọ “quê choa” cũng có những câu rất hóm “quần thì quần phịp, xì lịp thì xì lịp hoa, bọ cũng chết chứ nói chi các chụ”. Một câu nói đặc “chất” phương ngữ miền Trung Quảng Bình.

Cuốn sách này còn có một đặc biệt nữa là, các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao hay vè dân gian kia đã được “tường minh hóa” bằng các bức tranh minh họa rất hài hước và sinh động. Dù đôi chỗ, các minh họa cũng chưa thật “đắt” nhưng kênh hình do các họa sĩ góp phần đã làm cho kênh chữ thêm dễ hiểu và tăng sức truyền cảm lên rất nhiều. Công sưu tập là phần quan trọng và công “họa tiết” cũng không nhỏ. Tất cả đã góp phần làm nên một tác phẩm thật độc đáo, mà khi đọc, ta thấy hiện lên một bức tranh gần gũi, thật khó quên. Khó quên vì cuốn sách gợi lại một thời để nhớ. Nó đem lại cho ta một cảm xúc đời thường, rất thực. Những câu nói, những “thông điệp” ngôn từ kèm tranh minh họa làm cho ta cười đấy, nhưng cười mà có khi ra nước mắt, vì cảm động và thấm thía khi chiêm nghiệm một hiện thực cuộc sống của đất nước còn chưa xa, vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay.

 


*Bài viết từ trong nước.

304Đen – Llttm – VV

No comments: