VẠN GIÃ
MƯA NÚI
Mùa bắp đầu đời, đầu tiên, đầu
tay mà tôi vừa học vừa tập trồng là mùa bắp năm 1976. Nỗi nhớ đọng lại, gắn
liền với đoạn ca mà thằng em ruột, đã cỡi hạc, lảm nhảm suốt con đường leo núi
hái củi: “Lội bùn nhơ băng lau lách xuyên đêm. Sương trắng rơi vai tôi ướt
lạnh mềm. Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu. Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau…”
Trần Công Khanh
Nó ca bản Sương trắng miền quê ngoại này suốt lúc băng rừng
vượt suối đi hái củi khi rẫy nhàn – mới trỉa bắp. Mùa bắp ấy khởi đầu từ cơn
mưa tháng bảy âm lịch. Đất ướt, đủ để trỉa bắp và nuôi bắp con. Mùa hè năm
trước – năm 1975, tôi vừa hoàn thành năm thứ nhất Đại học Cộng đồng (college)
Duyên Hải, ban Sư phạm, ngành Pháp văn. Cuối hè 1975, trở lại trường không thấy
tên mình đâu. Biết là số phận của thằng con một sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng
Hoà.
*
* *
Ngẫm lại đời mình, số mạng không
cho học cái gì tới nơi tới bến. Học trường dòng thì ngày 19.3.1973 bị đuổi khỏi
trường vì tội làm báo học trò và in nhạc phản chiến chui. Học đại học mới năm
thứ nhất, sau 1975, bị đuổi. Rồi học đại học lại lần hai, hết năm thứ tư tới
1997 bị cấm thi. Hồi đó, tôi đóng tiền đi học chớ không theo ân sủng từ hệ công
lập nhà nước ban xuống; nhưng cấm thi mà không có lấy một cái thông báo chánh
thức gởi cho đương sự. Đó là tà trị chớ chánh trị gì!
Từ đấy tôi “bị” ở lại quê nhà
Vạn Giã. Nói Vạn Giã là nói ăn theo thuở ở theo thì một cách nào đó. Chứ ngay
tại nhà tôi, xứ quê nội mới của tôi chỉ là xứ Giã. Xác định địa danh như thế vì
nhà tôi nằm xế đối diện với sân “Ga Giã” trên hệ thống thiết lộ xuyên Việt.
Thiết lộ là từ hành chánh dùng trước năm 1975, sau đó đổi thành đường sắt, lấy
lẽ là làm “trong sáng tiếng Việt”. Kiểu trong sáng này rơi vào trường hợp tỉnh
lộ đổi thành đường tỉnh, nhưng sang đến quốc lộ không dịch thành “đường nước” –
đớ lưỡi vẫn giữ là “quốc lộ” thành ra nguyên tắc thống nhất trong ngôn ngữ bị
hiếp dâm.
Ga Giã được xây dựng đâu khoảng
vài năm trước ngày vua Bảo Đại và Toàn quyền René Robin dự lễ hợp long đường
sắt tại Hảo Sơn ngày 2.9.1936. Trước đó một, hai năm gì đó hỏa xa được cho chạy
thử từ Nha Trang ra Đại Lãnh rồi quay đầu lại. Trang web của Ga Giã viết rằng:
“Ga Giã được xây dựng vào năm 1903, cùng thời điểm với tuyến đường sắt Bắc Nam.
Ga có quy mô vừa phải, với diện tích khoảng một hectare gồm nhà ga hành khách,
nhà ga hàng hóa”.
Về sau, cái xứ huyện lỵ của
huyện Vạn Ninh nằm gọn ở xã Tân Mỹ rộng lên tới thiết lộ giáp ranh xã Vạn Phú,
lại đèo thêm chữ “Vạn” vào tên. Ông Quách Tấn giải thích, sở dĩ đặt tên Vạn Giã
là do cái xứ nằm kẹp giữa cửa Vạn và cửa Giã. Cửa Vạn, Pháp gọi là Port Royal ở
tại Đầm Môn, dưới chân bán đảo Bàn Sơn. Trước cửa có một hòn đảo lớn, tục gọi
là Hòn Lớn, tên chữ là Ðại Dự, đứng che. Cho nên cửa rất kín đáo. Đây chính là
nơi tàu bè núp bão tố. Vào ra cửa có hai lạch ở giữa Hòn Lớn và hai nhánh núi
của bán đảo Bàn Sơn. Lạch phía Ðông gọi là Lạch Cửa Bé, lạch phía Tây gọi là
Lạch Cửa Lớn hay Lạch Cổ Cò. Cửa Giã nằm tại Vạn Giã. Nước sông Hậu chảy ra cửa
này. Cửa Giã là nơi ghe thuyền buôn bán ra vào. Cá tôm ở các vũng phần nhiều
cũng dồn về Cửa để phân phối đi các nơi nên dân cư đông đúc. Tên Vạn Giã là do
tên hai cửa biển ghép lại.
Ông bạn chuyên nghiên cứu về sử
học cho rằng Quách Tấn nói tào lao. Vạn Giã không phải từ nguyên của thị trấn
Vạn Giã. Vạn tiếng Việt còn có nghĩa là một xóm làm nghề sông biển nào đó. Đã
từng có những từ “vạn chài”, “vạn đò”… Huyện lỵ của Vạn Ninh từng có trụ sở
huyện nằm ở ngay lối vào thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng. Cây cầu sát ủy ban từ đó
mới có tên cầu Huyện còn tồn tại đến nay. Cùng với thôn Phú Hội, hai nơi này là
hai xóm chuyên làm nghề lưới dã cào. Có thuyết nói rằng huyện lỵ Vạn Ninh từ đó
thành tên Vạn Giã. Tên này có sau tên Giã – địa danh mà Pháp dùng đặt tên nhà
ga ở đây, khá lâu.
Trước mùa mưa năm 1975, tôi được
một người bạn cà phê, lính Việt Nam Cộng Hoà, dạy cho học cưa cây. Bấy giờ cách
cưa cây của người miền Nam khá là phức tạp. Cưa xẻ. Khúc súc hay pi gỗ được đặt
lên ngựa/giàn sao cho một đầu nằm dưới đất, một đầu nhổng lên trời. Một thợ
đứng trên cao, một thợ đứng dưới đất. Cưa quá nửa khúc súc/pi, phải bấy cho đầu
cây còn lại nhổng lên trời. Cách cưa cây của miền Bắc tiện hơn. Họ chuyển lực
trên xuống thành lực ngang. Không phải làm giàn. Hai thợ ngồi hai bên khúc súc,
trên mặt đất, chếch nhau, cưa cho đến khi bứt khúc súc/pi cây. Gọi là cưa líu.
Là kẻ đi học cưa, kẻ chịu ơn, vì
ông thầy Hải cưa chia đều tiền công, tôi luôn luôn bị bắt đứng trên. Đứng trên
mệt hơn ngồi ở dưới nhiều, do phải làm công việc ngược với trọng lực trái đất –
kéo lưỡi cưa lên. Kẻ dưới đất chỉ việc trì lưỡi cưa xuống… Nó luôn miệng nói:
“Ông học việc, phải đứng trên mới mau thạo việc”. Sức thư sinh, kéo hết một
đường cưa, thở hồng hộc như heo. Đành phải chửi thề trong bụng. Giờ thầy Hải,
cựu lính quèn thủy quân lục chiến đã chết mất xác giữa muôn trùng biển khơi.
Xin lỗi người đã khuất.
Khi đã rành cưa “sáu câu” rồi,
tôi được rủ lên núi Hòn Chảo cưa huỳnh đàn. Ban đầu, huỳnh đàn không được đánh
giá ngang gỗ hương nhưng về sau quý hơn gỗ hương nhiều. Loại gỗ này dân thợ
rừng sau 1975 nói với tôi chỉ có Hòn Chảo có thôi. Hòn Chảo là ngọn núi cao có
khi mây phủ nằm phía sau nhà tôi. Huỳnh đàn lại chỉ mọc ở sau lưng hòn núi này.
Muốn đi lên núi, từ ba giờ sáng phải đi theo đường xe lửa, bọc qua cánh đồng
lớn của xã Vạn Lương, đi hết đồng mới tới chân núi. Có nhiều lối vào núi. Chúng
tôi những con ma ngơ ngác, kẻ từ giã lính về, kẻ thì giã trường về. Phải có một
đàn anh thợ rừng làm bầu trưởng và đồng ý cho theo, mới có cơ mà lên tới đỉnh
Hòn Chảo. Khi vào núi, bầu trưởng dặn theo sát ông, khi nào qua cầu Huỳnh là
sắp tới. Đến cầu Huỳnh, tôi mới biết đó là một khe núi, thợ rừng đi trước dùng
một súc huỳnh đàn bị tét đầu bắc qua.
Trong khi đó gỗ hương ở núi nào
cũng có. Huỳnh đàn sau 1975, thợ rừng nhiều quá, khai thác nhiều quá, cạn kiệt
rất nhanh. Thời gian này, thất nghiệp về quê đầy dẫy, họ chỉ có một chọn lựa
duy nhất là phá sơn lâm, vì không cần vốn gì lớn. Chỉ cần một cái rìu để hạ
cây, dọn lối đi. Một cái cưa lớn hai người hùn. Thêm đá mài, dũa lưỡi cưa, là
xong.
Hồi trước hương hiếm hơn huỳnh
đàn, vì những người có tiền xây nhà đều chọn hương. Ông nội tôi khi xây nhà ở
Diêm Điền, cách Vạn Giã chừng bảy, tám cây số về hướng Bắc, thợ tìm gỗ hương
không có, bí quá thay bằng huỳnh đàn mà ông không hay biết. Đến thời bác tôi
thừa kế, có một chiến dịch săn lùng huỳnh đàn. Thế là ông tháo cửa ra bán, thâu
bộn tiền. Cả một tài sản nho nhỏ. Sau đợt săn lùng này, bộ bàn mặt tám mươi và
sáu chiếc ghế bằng gỗ huỳnh đàn một ngày tôi về quê mới hay đã biến thành bàn
inox. Buồn cho nhiều chuyện xưa lận vào bộ bàn cũng ra đi!
Những chuyến đi cưa huỳnh đàn
của tôi hay lâm vào những chiều mưa núi. Con đường mòn, thợ rừng lên xuống
nhiều, mặt đường nhão nhoét. Đàn anh dặn, muốn khỏi trợt, khi bước tới phải dậm
gót chân xuống trước thật mạnh rồi bấm ngón chân theo sau. Thử tưởng tượng
những chiếc gót thư sanh vừa bỏ giày dép đi chân trần làm sao chịu nổi những cú
dậm gót suốt đường núi đằng đẵng cả vài cây số.
Đã vậy hễ trợt là phải hy sanh
thân mà giữ lấy cái súc như “quả pháo ơi sao mà yêu như đứa trẻ…” kẻo tuột tay
súc rơi xuống dốc tét đầu, là coi như chỉ còn nước làm củi. Mới thấy lấp ló cái
ác của giới tiểu tư sản đầu nậu chèn ép người thợ rừng như thế nào, vì rằng súc
tét đầu thì bớt giá dùng vào chuyện đóng tủ table de nuit như
các ông từng đóng loại tủ này bằng rễ cây huỳnh. Nhưng không! Họ ra vẻ ông nội
thợ rừng!
Gót chân không cứng đất mềm mà
vẫn đau thốn. Ngày đầu tôi ngồi tuột xuống dốc kiểu tuột cầu tuột thời học ấu
trĩ viên. Cái quần treillis chỉ một chyến đi núi là mông te tua như những tàu lá
chuối bị gió Vạn Ninh cuối năm dập vùi.
Lần sau, xổ dốc bằng cách chạy
lúp xúp. Gia tốc tăng lên thì thắng gấp bằng cách nắm lấy một thân cây nhỏ mọc
ven đường. Trời mưa núi mịt mùng, bóng tối trùm lên như lính Đại Hàn trùm
poncho cho thằng bạn làm ngựa. Số là họ thường đi hành quân cặp đôi lên núi,
lấy cớ trời mưa, người này cõng người kia trùm poncho kín mít ông lính làm
ngựa. Phe ta trên núi đếm số lính hành quân lên để lúc địch về ta dễ tính sổ.
Không ngờ địch về quân số tăng gấp đôi. Mèo nào cắn mỉu nào biết liền.
Cái ác độc của việc thắng gấp là
trời tối, nắm phải cây có gai. Ráng chịu! Thả thì coi như rơi dốc gần tự do. Mà
thứ tự do này chẳng ai thưởng thức cho đặng như thứ tự do vốn được hô hào là
quý không thua gì độc lập. Được hai chuyến, tôi không dám đi huỳnh đàn nữa dầu
rằng một súc huỳnh giá mười sáu đồng so với một gánh củi giá một đồng.
* *
Làm thợ rừng sáng đi chiều về,
núi thì gần, chỉ cần một rìu, một rựa; cưa giấu trong núi với hai mo cau cơm.
Có ông thợ rừng tên Mô cùng xóm, tướng to con, mặt vuông, vai u. Một hôm, có lẽ
do nhà cạn gạo, ông xách mo cơm ra đến sân, cằn nhằn với vợ: “Cái mo bi lớn đây
tao ăn sao đủ hử?” Bà vợ trong nhà nói vọng ra: “Ăn cơm chớ ăn mo hay sao mà đủ
hay thiếu!” Ông Mô ngậm đắng lên núi.
Ngày đó luật rừng còn tôn nghiêm
lắm. Luật đó những thằng bạch diện thư sinh như tôi phải học. Đầu năm muốn lên
núi, phải chờ cúng mở rừng, mới được đi. Không ai vi phạm. Từ xưa mãi tới 1975,
luật mới bắt đầu bị chà đạp dần, lấy cớ là dị đoan. Đi lạc trong núi, khi tìm
thấy đường ra, đói quá, thấy mo cơm của ai treo, chỉ được ăn một nửa. Khúc súc
cây hoặc thân cột của ai để dưới đất dựng đứng dựa vào một cây còn sống khác,
không được lấy, vì chủ nó chưa kịp chuyển về. Cây bỏ nằm dưới đất được lấy. Vậy
nên, người dân Vạn Giã xưa dùng từ rất “môi trường”: đi hái củi. Nghĩa là chỉ
“hái” những nhánh cây bị bỏ lâu ngày đã khô, những nhánh cây chết khô trên
cành. Củi tươi không gánh nổi.
Sau 1975, đói quá, nên “tiều
phu” bắt đắc dĩ không còn hái củi nữa mà chặt tàn chặt mạt. Kẻ chặt cây to bằng
cái đầu đốt than. Kẻ chặt củi thì lựa cây nhẹ bằng bắp tay. Kẻ vừa đốt than vừa
chặt củi v.v… cả tuần mới chín. Củi ngày nào cũng phải có một gánh để về nhà
đong gạo.
Trần Công Khanh
304Đen – Llttm - sgtc
No comments:
Post a Comment