Thầy
giáo dò tên trong sổ rồi lại liếc học trò như để bắt mạch chúng, coi đứa nào
xanh mặt vì không thuộc bài. Không thấy đứa nào tỏ vẻ lo sợ, thầy nhắm mắt chấm
đùa thì trúng tên trò Kinh.
-Kinh,
lên bảng trả bài ám độc.
Trò
Kinh vừa đứng dậy, vừa nói lên cử động của mình, bằng tiếng Pháp:
-Tôi
đứng dậy, tôi ra khỏi bàn, tôi lên bảng và tôi đọc. Rồi tôi trả bài cũng bằng
tiếng Pháp: “Đây là bàn tay của tôi, nó có năm ngón.”
-Sáu…
-Sáu…
-Sáu
chớ…
Cả
lớp cười rộ lên một cái rần. Kinh giựt mình, ngưng đọc. Thoạt tiên anh không
hiểu gì hết. Nhưng chợt nhớ thì bàn tay mặt anh có sáu ngón, mặt, tai anh ửng
đỏ. Anh vội giấu bàn tay mặt dưới cùi chỏ tay trái đương khoanh trước ngực.
Thầy
giáo đập thước rầm rầm lên bàn và la:
-Cười
cái gì. Trò nào còn cười bị phạt chép năm chục trương bài nầy. Trò Quang, ta
không nên… làm sao ?
Trò
Ouang đứng dậy. Sợ sệt đọc: ” Ta không nên nhạo báng người tàn tật “.
-Tốt,
giỏi, ngồi xuống !
Kinh
lăn qua, trở lại mãi, không sao nhấm mắt được. Anh nhớ rõ từng chi tiết buổi
học trên đây, mười sáu năm về trước và thương hại cậu bé tội nghiệp, thuở ấy đã
chịu biết bao khổ nhục giữa đám trẻ tàn ác, cũng vì cái ngón thứ sáu nầy.
Anh
giơ bàn tay lên xem. Cái ngón dư đó, mọc từ bên hông ngón cái, cong quát vô như
càng tôm, càng cua. Da nó non, mịn, hơi ửng hồng. Đầu ngón, một móng tay nhỏ
xíu, nhọn hoắc, cong như ngói ống lợp chùa.
Thật
là dị kỳ, không giống anh em nó chút nào, y như là ai mới nghịch gắn nó vào đó,
và nó làm bằng những chất gì khác hơn là thịt và da.
Hèn
chi trẻ nhỏ hồi đó và người lớn bây giờ không đùa sao được. Phải chi ai cũng có
sáu ngón, thì anh sẽ được coi như người thường, đàng nầy…
-Ờ,
Kinh nghĩ, tại sao người đời cứ muốn cái gì cũng giống nhau hết, khác một chút
là họ không tha. Mình mặc một bộ đồ mốt xưa họ cũng cười, mình dạy con theo
phương pháp riêng của mình, họ cũng công kích. Mình có một tư tưởng nào hơi
bạo, hơi đi trước họ, họ không khỏi nhìn mình như nhìn một người điên.
Kinh
bật cười, nghĩ đến một người kia bỗng dưng mọc đuôi dài. Chàng thấy trong trí
đám người đi theo thằng cha có đuôi, mặc sức mà bàn tán mà chế giễu. Rồi chàng
nhớ đến bọn đầu cơ, luôn luôn rình một dịp tốt để hốt tiền. Bọn nầy không khỏi
thương thuyết với người có đuôi, nhốt va lại trong một cái lều bằng bố, giữa
chợ đông, rồi thì lùng tùng xòa, lùng tùng xoèn mại vô, mại vô, người có đuôi,
năm cắc vô cửa nè !
Kinh
lại nhớ đến những bức tranh khôi hài ở một tờ báo ngoại quốc kia. Tranh vẽ một
nhà thông thái chế ra một hỏa tiễn rồi bắn mình lên sao Mars. Tới nơi thấy
người sao Mars có ba chơn, mũi dài như vòi voi, không trái tai. Những người nầy
bu quanh nhà thông thái và nói với nhau: “Các anh coi, thằng người dưới quả địa
cầu mới dị tướng, xấu xí làm sao !”
Thì
ra óc loài người rất hủ lậu. Cái người thượng cổ đã dựng lên một cái chòi để ở,
không thích ở lỗ nữa, không biết đã bị đồng loại rầy rà, làm tình, làm tội đến
bao nhiêu.
Kinh
thở ra dài: Loài người cứ muốn giống nhau, lại muốn cái gì cũng giống loài
người. Họ bày ra đấng Tạo Hóa, đấng Cứu Thế với hình ảnh giống hình ảnh họ, với
tư tưởng và tình cảm gần gần họ, hơi khoáng đạt, trong sạch hơn một chút, một
chút thôi. Còn cái anh chàng nào đã tạo ra Tiên đó, thì lại càng giản dị hơn
nữa. Va cho Tiên là người phàm tu thành và vẫn còn giữ rất nhiều phàm tánh.
Phải
chăng vì tánh đó, thâu hẹp lại, mà thuở nhỏ anh đọc truyện Tàu cứ tưởng tượng
Trương Phi, Tiết Nhơn Quí là người Việt Nam, rồi đến mười lăm mười sáu tuổi,
khi biết rõ lại họ là người Tàu, anh tức mình sao những nhơn vật anh yêu lại
không phải người đồng chủng.
Kinh
rờ ngón tay dư. Nó mềm mụp như bằng bột. Tuy ngón tay đó cũng nghe được xúc
giác, nhưng anh cảm thấy sự đụng chạm đó không giống khi anh rờ những ngón
khác. Như là ngón thứ sáu đó không thuộc vào thân thể anh.
Kinh
có tiếng người lập dị. Đó là lời xét đoán của người chung quanh anh. Thật ra
những cái dị ấy, anh tự nhiên mà có, chớ không cố ý lập ra, và không cần dư
luận, anh không thèm sửa đổi cho giống người ta.
Nhưng
cái dị của ngón tay nầy thật là để không được nữa.
Anh
làm ở Bưu điện. Mấy năm nay anh ngồi phòng bút toán ở trong. Năm nay anh đổi ra
“ghi-sê”.
Thật
là phiền. Mỗi khi anh bán ra một con cò, là có cả chục con mắt ở ngoài dòm cái
ngón tay chướng ấy. Chắc ngoài họ bảo nhau: “Ở sở Bưu điện có thầy sáu ngón”.
Khi họ sai thằng nhỏ đi mua cò, chắc họ dặn: “Mầy cứ lại chỗ thầy sáu ngón tay
là đúng chỗ bán cò.”
Kinh
khổ sở tưởng như nội Sài Gòn người ta cứ ăn no rồi bàn nhau về cái ngón dư của
anh.
Ra
đường, anh đoán ai cũng nhận ra anh, và luôn luôn anh nhét tay vào túi quần.
Phiền
nhứt là phải thối tiền cho phụ nữ. Hễ thối tiền thì phải chưng bày cái bàn tay
(khổ, lại là bàn tay mặt là bàn tay làm việc) có tật ấy ra lâu hơn khi bán cò.
Những cái mỉm cười kín đáo của những cô gái đẹp trước cục thịt dư sao mà nó mỉa
mai, hỗn láo đến thế ?
Một
hôm một bà đầm già thân mật hỏi: “Sao thầy không cắt nó đi ?” Mà lại hỏi trước
một công chúng phụ nữ đông đảo. Anh muốn hụp xuống phía sau ghi-sê mà trốn
những nụ cười tàn ác kia.
À,
cái mụ đầm mới vô lễ chưa. Mắc mớ gì đến mụ chớ ?
Kinh
thầm oán mụ đầm đó, nhưng từ ngày ấy anh mới sực nhớ ra là có thể loại cái khó
chịu nầy ra khỏi thân thể anh.
“Ờ,
ờ, tại sao thuở giờ mình không nghĩ đến. Có gì đâu, phụp một cái là mình được
như người thường. Mình không đến đỗi xấu trai. Nếu không có cục nợ ấy thì cũng
là người dễ coi như ai. Ờ, mà có đau đớn lắm không nè ?” Anh đi hỏi thăm một
bác sĩ hẹn ngày giờ cẩn thận.
-Không,
không đau đớn gì đâu, bác sĩ nói, như con kiến cắn é mà !
Kinh
yên lòng. Nhưng đêm nay, cái đêm trước ngày “long trọng” ấy, anh nghe ngài
ngại. Không biết nó sẽ đau đến bực nào. Không, mà mình sẽ bậm môi rán chịu,
không rên la chi cho bác sĩ cười. Làm trai mà ! Anh nghĩ cái ý làm trai một
cách trịnh trọng như là một chiến sĩ sắp ra trận ngày mai.
Kinh
cầm ngón tay lúc lắc, bụng bùi ngùi:
-Mấy
mươi năm rồi, mầy ở với tao. Thôi mai nầy vĩnh biệt nhé !
Kinh
ngạc nhiên vì chợt nghe mình thành thật buồn vì sự chia ly nầy.
-Mình
đa cảm đến thế à ?
oOo
-Lại
chích lần nữa à, thưa ông ?
Bác
sĩ cười hì hì đáp:
-Nhiều
lần nữa chớ. Thứ thuốc tê nầy, chích đâu thì có hiệu quả đó, chỉ ở đó thôi.
Thành ra tôi phải chích ít lắm là bốn phát chung quanh gốc ngón tay.
Bác
sĩ rút kim ra, lụi phía bên kia, Kinh đau điếng.
-Phải
dè đau như vầy, tôi không đòi thuốc tê. Để vậy cắt có lẽ ít đau hơn.
-Phải
có thuốc tê vì còn đốt.
-Đốt
?
Bác
sĩ không trả lời, cắt sực một cái, ngón tay đã rớt xuống mâm.
Ông
tiếp lấy cái sắt trắng nướng đỏ mà thầy khán hộ vừa trao tới.
Kinh
nghe lạnh cả mình. Nhưng không sao. Chỉ nóng vừa thôi khi cây sắt lửa ấy rà lên
vết thương.
Trên
đường về, Kinh nghe nhẹ người, tuy cái ngón dư ấy chỉ cân nặng độ hai chục
gơ-ram.
Chỉ
nửa phút thôi là anh biến ra một người thường, sung sướng y như người khác. Bắt
tay ai họ không còn nhìn xuống nữa. Thôi, từ đây tha hồ mà thối tiền nhé.
Kinh
lấy làm lạ sao người đời thương hại sự thiếu, như là nhường nhịn người cụt tay
chẳng hạn, mà không ưa sự dư. Có ông Phán trong sở chỉ vì dư tiền nhiều mà bị
anh em ghét. Còn cái thằng cha Quân, thua xiểng liểng, nợ tứ giáng lại được họ
thành thật thương xót.
Được
sống như người thường ? Ý nghĩ đó cứ trở lại làm anh hớn hở như mới được của
quí. Tâm trạng anh là tâm trạng của một người tù mới mãn hạn. Anh nhìn mọi
người qua đường tự hào rằng ta đây cũng như ai.
oOo
Nhưng
từ đó, Kinh thấy đời mình thật là nhỏ nhoi, tầm thường như những cái tầm thường
khác.
Ở
ghi-sê không có lấy một cô gái đẹp nào tỏ vẻ thán phục bàn tay năm ngón của anh
hết. Anh cố ý xỉa tiền chầm chậm, và chỉ làm cho người ta bực mình. Cho đến cái
cô má lún đồng tiền thường lui tới Bưu điện, cái cô mà nụ cười tinh quái hơn ai
hết trước kia, bây giờ hình như cũng quên rằng có một thời anh đã mang một bàn
tay khác phàm.
Mà
nghĩ cũng phải. Bàn tay của anh chỉ là một bàn tay thường thôi, có gì đâu mà
người ta phải chú ý đến ? Và chủ nó chỉ là một anh thơ ký thường như muôn ngàn
anh thơ ký thường khác.
Kinh
thở dài:
-Được
yên thân lại không thú bằng bị quấy rầy !
Anh
cảm thấy đã hiểu tầm hạnh phúc. Hạnh phúc của anh là ở những khi ao ước được
như người thường, ở những lúc tưởng tượng mình chỉ có năm ngón như ai. Anh
triết lý: “Hạnh phúc ở chỗ muốn, chớ không phải ở chỗ được”.
Bỗng
anh nhớ ra một điều, thành thật và thấm thía hơn ý tưởng trên: “Bây giờ mình
mới biết sợ sự tầm thường !”.
Bình
Nguyên Lộc
Ebook truyện ngắn
No comments:
Post a Comment