Monday, April 28, 2025

Tháng Tư Vữa - Nguyễn Thị Thanh Bình

 

THÁNG TƯ VỮA



Tháng tư năm ấy, sao tôi không mấy lao đao về cái chết tự tử của một người chị họ chưa đầy hai mươi tuổi. Năm ấy, một chín bảy lăm, nghe mạ tôi nói chị bị cào nát mặt hoa và ăn đòn phù mỏ chỉ vì lỡ tranh giành một miếng nước ngọt trên chuyến tàu tản cư từ Đà Nẵng vào Nha Trang. Liệu như thế đủ để chị chán sống hay còn vài lý do thầm kín khác mà tôi không đoán được. Ồ phải rồi, nghe kể mẹ chị ấy là mợ tôi ngồi đâu cũng thở dài rất thảm, lâu lâu tuồng như muốn nuốt ực những giọt nước mắt dội ngược vào lòng và lâu lâu thì lại trào ra trăm lời nguyền rủa về những xui xẻo không tránh được, ví dụ nỗi đau rát rực rỡ của mấy bợm máu kinh nguyệt thời con gái chị tôi đã phọc lai láng trên đít quần suốt những ngày chạy giặc thiếu nước, và máu ôi thôi là máu của những xác người vô thừa nhận trên con đường lánh nạn. Tháng tư năm ấy, khi những mộng ra cửa lớp của tôi với bạn bè đã bị cắt ngang nửa chừng bởi những tiếng bom đạn của chiến tranh, thì bây giờ sau 30 năm của những hồi ức, hình như tôi chỉ có thể quên màu rực rỡ nắng ấm của ngày hôm ấy nhưng không thể nào không nhớ rất rõ màu rực rỡ đến ngất ngây tàn bạo của lửa và máu ở xung quanh mình. Tháng tư, hình như bây giờ tôi lại nhớ ra có lần tôi nghĩ giá gì người ta có thể tự chọn cho mình những cái chết thì vẫn có lý hơn.

 

Chị họ tôi nốc một lọ thuốc ngủ và chết, khi vẫn còn quá trẻ. Một sự lựa chọn có thể chỉ xảy ra trong một  tích tắc bốc đồng nào đó. Tự nhiên rồi thấy không còn gì thiết tha nữa và trong một khoảnh khắc ấy muốn chết và tìm cho mình một cách chết, đơn giản thế thôi. Một sự định đoạt gọn băng và không thích đôi co với số phận. Thật tình chị tôi cũng đâu có một sự chọn lựa nào khi bị thảy vào cuộc đời này, vậy tại sao chị tôi không có quyền từ khước đời sống? Tháng tư bảy lăm, chị tôi bị mang tiếng là đứa con bất hiếu, chết đọa xuống địa ngục, nhưng chính mợ tôi cũng đâu được phép ngồi rủa sả bao lâu vì sau đó phải đèo lũ con trai và gia đình lên tàu lần nữa vào Sài Gòn “cho chắc ăn”.

Tháng tư năm ấy, lẽ nào vì phải nghe ngóng quá nhiều cái chết đổ về từ chiến trường, những nẻo đường quốc lộ tản cư, những giặc giã khắp nơi… nên những cảm xúc trong tôi bỗng sơ cứng lại một cách kỳ dị. Không, không hẳn là tôi đã quá vô tình như thế đâu. Sự thật tôi vẫn còn bị ám ảnh ngậm ngùi về cái chết đẫm ngất man rợ với thần chiến tranh của người đàn ông chưa một lần được gặp mặt đó. Cái chết của cậu thanh niên vừa tròn hai mươi tuổi, em ruột của chị dâu tôi. Tháng tư bảy lăm, khi mà mọi sự chuyển động giữa hai bờ sống và chết đã lên đến cao điểm của rất nhiều người, tháng tư với nỗi căng thẳng tột cùng của chiến tranh đang đến hồi nát bấy và dứt điểm, sao gã trẻ tuổi đó bỗng mở đường máu chạy thoát về nhà rồi cũng chính gã lại tự giải quyết đời mình một cách phi lý như thế.

Cái chết sau 30-4 khi hòa bình vừa ló dạng: một tên thanh niên mặt búng ra sữa trốn vào phòng đóng cửa lại, loay hoay mặc vào người bộ quân phục và kê súng vào màng tang nẩy cò. Điều gì đã làm gã thanh niên ấy bật máu và phun hết tủy xương ra như thế? Mặc cảm đào ngũ khi bạn bè đồng đội của mình phải gượng lết tử thủ? Quân phục, súng ống và viên đạn nơi màng tang của người thanh niên, phải chăng là hơi men của con quái vật chiến tranh vẫn phủ chụp, không chịu buông tha? Mới hai mươi tuổi người thanh niên ấy vẫn còn một đời dài trước mặt, mà cho dẫu có phải “ngậm một khối căm hờn trong cũi sắt” ở những nhà tù cải tạo, anh ta vẫn còn hai bàn tay chưa đến nỗi mỏi mệt để chiến đấu (phấn đấu thì đúng hơn, vì không phải cuộc chiến đã tàn rồi hay sao?)

Tháng tư năm bảy lăm, bây giờ tôi càng hiểu ra tại sao mình đã không mấy quay quắt về cái chết tự tử của một người chị họ vẫn còn nhan sắc và chưa đầy hai mươi tuổi.

Đêm qua khi tôi đang ở trong trạng thái ngây ngây của nửa quên nửa nhớ, và ước gì ký ức có thể tự ý sàn lọc được những điều mình không muốn nhớ, tôi lại bỗng vụt dậy cơn xúc động rụng rời chưa từng có chỉ vì một mẫu báo. Bây giờ là giữa tháng hai, vẫn còn là Tết ở quê nhà, đời sống đáng lẽ phải còn rất xuân và vẫn còn rất thơm mùi bánh pháo, sao điều khốn nạn ấy vẫn xảy ra dễ dàng đến lạ lùng như thế. Chiến tranh đã bỏ đi những 30 năm, sao vẫn chưa tha cho những trẻ thơ vô tội? Một mẫu báo nhắc đến bản tin của thông tấn xã AFP không thể coi như mẫu tin cán chó, về một cuộc chiến đã kết thúc nhưng vào một ngày đầu xuân như thế, ở Bình Phước một em bé 8 tuổi phải tan xác ngay tại chỗ và hai em kia, có em chỉ mới 5 tuổi bị thương nặng vì bom sót lại từ cuộc chiến xa xưa phát nổ. Buồn và đau, rồi sợ hãi và nghi ngờ về những nỗi thanh bình giả tạo. Những vỏ đạn chỉ chờ một phút giây nào đó để nổ tung. Nghe nói có khoảng 38 ngàn người đã thiệt mạng và hơn cả trăm ngàn người bị thương tật vì đạn mìn vẫn đeo đẳng chưa dứt ấy.

Bây giờ là dấu mốc 30 năm của ngày cuối tháng 4 năm 75, tôi đang ở một nơi quá xa Việt Nam để nhớ về một nơi chốn mình vừa chợt lớn đã phải bỏ đi đành đoạn. Ba mươi năm chẵn ly hương đối với tôi nhưng có thể ít hơn với nhiều người khác, vậy 30 năm có phải là khoảng thời gian quá dài để phải sống lại với những nhức nhối nào đó. Ba nươi năm, tôi thực sự ngửi thấy mùi ẩm mốc của kỷ niệm nhưng ngọn nến tưởng nhớ vẫn chưa lụi tàn nổi. Ba mươi năm, cho tôi ít là một lần được trở về trong ký ức để cùng nổ tung xác với những người đã khuất. Để chết và cũng để sống với những người đã im lìm ngủ yên. Ba mươi năm, đừng hỏi tôi có đau lòng hay không. Một ngày cuối tháng tư ấy đâu phải chỉ vừa mới xảy ra hồi tháng trước hay năm ngoái. Ba mươi năm, tôi không muốn nói đến những băng hoại phân hóa của lòng mình hay của bất cứ ai và nơi đâu.

Trong một bài viết hạn hẹp như thế này, tôi chỉ muốn nhìn lại những thân phận Việt Nam nói chung và những phụ nữ Việt Nam nói riêng không như những thứ bèo giạt hoa trôi. Ôi những phận người mong manh và những đón chờ những vận hội mới chính hiệu con nai vàng! “Tháng tư của chúng tôi. Như một đám con mồ côi. Lạc lõng cội nguồn quê mẹ. Tháng tư của chúng tôi. Bồng bế nhau vội vã. Oằn trên lưng lịch sử một thế hệ lưu lạc...” Đó là những dòng chữ đầu của bài thơ tôi viết cách đây khá lâu, rồi thì cũng nghe lại ở đâu đó trong những rủa mòn của ngày tháng những cha và mẹ, những anh và tôi, những chị và em, những cô và cậu, những bạn và bè cùng những tiếng gọi kêu của quá khứ.

Nghĩ lại thấy cuộc đời của ba mạ tôi hệt như một cuốn truyện dài phiêu lưu đường trường: từ Quảng Bình thoát vô Huế, từ Huế chạy vô Nha Trang, rồi một ngày biến động giữa tháng tư lại đèo cả gia đình dạt vô Sài Gòn. Có điều cuộc đời phiêu lưu của ba mạ tôi đến giai đoạn này vụt chấm dứt. Ba mạ tôi nhất định không từ bỏ quê hương, dù lúc đó tôi đã mếu máo: “Ba mạ không chịu đi thì con đi làm chi?” Dạo đó tôi vẫn quá ngây ngô để đoán chừng ba mạ tôi không muốn dứt bỏ căn nhà lầu ở con phố chính ấy. Tôi quên mất một điều là ba mạ tôi đã từng dứt luôn một rạp hát lớn vừa xây xong ở Đồng Hới. Một điều quên cũng khá ngu ngơ khác là gia đình của anh cả tôi lúc đó vẫn còn đang kẹt lại ở Nha Trang. Anh tôi lúc đó vừa thương tích xong, khá lành lặn và được xin về biệt phái  dạy học ở một trường tư thục Ninh Hòa (một quận lỵ gần Nha Trang). Dạo đó tôi đang có mặt ở Sài Gòn và trọ học ở nhà một người bạn của mạ tôi. Ở đấy, gia đình này đã có sẵn trong tay giấy tờ bảo lãnh của con cái ở Mỹ, với đủ lời dặn dò khẩn khoản là phải “ra đi” gấp, nên tình hình dưới mắt những người tạm gọi là “thân Mỹ” lúc đó đều thấy được là không thể có giải pháp trung lập như nhiều tin đồn. Dạo đó gia đình tôi hình như cố tình đánh mất khả năng đọc thấy thông điệp cuối cùng của chiến tranh kịp thời gởi đến: Mọi người đều lần lửa không muốn tin, không dám tin hòn ngọc Viễn Đông sẽ bể nát đột ngột như một cái chớp mắt phụt tắt của những trái hỏa châu.

Tháng tư, chỉ một vài ngày trước khi Sài Gòn thực sự chết đứng qui hàng kiểu Từ Hải, sân trường đại học sư phạm nắng vẫn vô tình rực rỡ óng ả thay vì trời đất phải ủ dột tang thương. Chúng tôi lúc đó vẫn có mặt đều đặn và hình như còn khá đủ bạn bè, cùng với những nét mặt đã ra chiều đăm chiêu của thầy cô. Buổi sáng đến lớp, thay vì chỉ biết ngợp ngợp xanh xanh trong lòng những lá cây, bầu trời, sân cỏ hay nụ cười và vai áo rực trắng… chúng tôi đã phải vướng mắc thêm những giăng giăng biểu ngữ dọc theo những ngõ ngách đến trường, đại loại như: “Toàn dân lên án Cộng Sản dã tâm phá hoại hòa bình” hoặc những câu thơ khá thời thượng lúc ấy được một tên bạn cùng lớp hí hoáy tự bao giờ trên bảng: “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ” hoặc “Chí lớn chưa về bàn tay không”.

Dăm bảy ngày trước khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ, gọi như thế đi, dù chẳng thơ mộng chút nào và làm sao có thể thơ mộng được, tôi và Trân Sa vào câu lạc bộ trường uống cà phê vội vã với nhà văn Khuê Việt Trường lúc đó vừa xé rào từ xa về trong bộ đồ lính. Hình như tôi nhớ mơ hồ khuôn mặt hắn vẫn còn non choẹt và chiếc áo trận vẫn không làm hắn trở nên phong trần cho lắm. Hắn đùa đùa: “Nhìn sân trường các cô đang học, thấy sao thanh bình quá. Còn lính tráng tụi này sao tên nào cũng nhếch nhác như… người về từ cõi chết. Không, người về từ Charlie chứ.” Hình như chúng tôi nhắc đến một vài kỷ niệm với một vài người bạn khác ở Nha Trang rồi bỗng chợt nhận ra những ngày vui ngắn ngủi đã vụt qua, đã bay mất và không bao giờ còn tìm nhặt lại được. “Phố biển coi như tiêu rồi, bây giờ chỉ còn Sài Gòn”, không phải chúng tôi đã lặng lẽ nói với nhau như thế sao?

Quay lại lớp học và mấy ngày cận kề sau đó, hình như bạn bè chúng tôi thường dỗ dành nhau bằng một vài câu thơ của Du Tử Lê:

“Anh đã bảo ngủ đi hỡi cô nàng bé nhỏ.
Đạn nổ đều nhưng đạn nổ rất xa.
Cho dù mai kia đạn nổ thật gần.
Thì cũng thế mà thôi, có gì đáng lạ?”

Lâu lâu, chúng tôi bỗng hù nhau khi hốt dưng giật mình vì tiếng máy bay hỗn loạn xé nát không trung: “Ê tụi bay, Việt Cộng mà vào là kể như tụi mình mỗi đứa bị đem gả cho một thúng.” “Thúng gì chứ?”, một cô trong bọn vờ ngây thơ hỏi. “Một thúng là một anh cán bộ bị mất tay mất chân nằm gọn lỏn như thế, mày không nghe thấy sao”, cô kia nhăn mặt trả lời. Sống lưng tôi lạnh ớn như có một luồng khí từ âm dương cách trở tạt về. Dạo này tôi để ý thấy tên bạn trai cùng lớp lúc nào cũng nơm nớp sợ thần chết rượt tới tận lớp học. Hắn đặt câu hỏi rồi tự trả lời lấy: “Bộ mấy bà không thấy trường mình lúc này có mấy khuôn mặt lạ lạ cứ vờn qua vờn lại trong sân sao? Tui nghi quá, chắc là tụi sinh viên nằm vùng định đến truy dân Sư Phạm tụi mình.” Một tên bạn khác than thở: “Cả nhà dọt ra Phú Quốc tìm đường tẩu hết rồi. Khổ quá, mình phải ở lại đây để học vì không biết đâu mà mò. Lỡ không có chuyện gì, bỏ học nửa chừng kiểu này dễ bị đánh rớt rồi đi lính bỏ sừ”. Rõ ràng mỗi đứa trong chúng tôi lúc đó ngửi mùi chiến tranh một cách khác nhau. Có điều chắc chắn đứa nào cũng bắt đầu nhìn đời qua lăng kính màu chàm hoàng hôn ảm đạm. Màu của những chực chờ một điều gì đó có thể là ghê gớm lắm sắp phủ chụp xuống. Màu của những rình rập tự hỏi không biết ngày mai có sao không.

Ngày mai có sao không” đối với khá nhiều người ở Sài Gòn lúc đó hình như vẫn còn mù mờ theo kiểu trời kêu ai nấy dạ. Và họ vẫn sống, vẫn ăn uống tiêu xài bình thản như không hề hay biết có một số người chạy đôn chạy đáo kiếm đổi cho được những tờ đô-la xanh để bay ra nước ngoài.

Còn nhớ khoảng vài ba ngày là lịch sử sang trang, mạ tôi bất ngờ tạt qua trường kéo tôi về ngang xương giữa giờ học. Chẳng hiểu sao lúc đó chúng tôi có thể ngồi yên mà học chứ? Khi ngoài cửa lớp tiếng bom đã dạt về quá gần thành phố. Ngoài cổng, ba tôi đứng chờ với một bộ mặt thất thần nhưng rồi lại chở tôi đổ xuống một tiệm ăn. Mạ tôi ứa nước mắt: “Để gọi cho con một vài món gì đó trước khi đi, kẻo qua đó tha hồ nhớ đồ ăn Việt Nam”. Mặc dù khá đói bụng vì mùi nấu nướng xông lên ngào ngạt, tôi vẫn không nghĩ mình có thể nuốt nổi bất cứ một thứ cao lương mỹ vị nào lúc này. “Món lươn um sả ớt như bàn bên cạnh ăn với cơm là nhất”, người chủ tiệm kiêm bồi bàn đề nghị thì phải. Mặc dù tôi lắc đầu tỏ vẻ không hưởng ứng, ba mạ tôi vẫn kêu đồ ăn đầy bàn. Tôi nhớ mình đã cố gắng ăn cho ba mạ tôi cùng ăn theo, nhưng chỉ món lươn là tôi không buồn nhúng đũa vào. Ba tôi hỏi nhỏ, giọng rơm rớm: “Cay quá con ăn không được hả? Bậy thiệt.” Tôi lắc đầu: “Không phải đâu, tự nhiên rồi con không thích món lươn nữa.” Mạ nói và không hề đoán được ý nghĩ trong đầu của đứa con gái lắm chuyện lúc đó: “Mọi lần ở nhà làm món lẩu lươn, con gái mạ vẫn ăn dữ lắm mà.” Phải rồi, mạ không biết bây giờ mọi sự đã đổi khác hay sao? Những biến động đã đến và sẽ tiếp tục dồn đuổi đến cùng. Những cảnh đời, những thành phố cứ thế bị cắt dần, cắt dần thành từng khúc, từng khúc như đầu, mình và tứ chi của một con lươn trên một tấm thớt. Buổi ăn hôm ấy làm sao tôi không chan cơm với canh và nước mắt được. Trong đó rõ ràng là có cả nước mắt cho hình ảnh bi thảm của con lươn lịch sử bị hung thần chiến tranh đem ra chặt đầu.

Ngày 27-4 mạ dí vào tay tôi một bịch tiền giấy 500 in hình Đức Thánh Trần, và dĩ nhiên thêm ít vòng vàng của cải một đời làm vợ của mạ. Không hiểu sao lúc ấy người tôi cứ im sửng và răm rắp như một cái máy. Tôi nhận, đút ngay vào ngực coóc-xê mà quên mất rằng đi Mỹ không một đồng đô-la dính túi. Anh rể tôi thì cứ luôn miệng nhát ma: “Qua Mỹ muốn đi rửa chén cũng phải có cái bằng.” Anh ấy đã ở Nhật và Mỹ, nên nói thế nào tôi và cả nhà tin thế ấy. Điều lạ lùng và bây giờ tôi nghiệm ra là điều lạ lùng này bao giờ cũng chỉ xảy ra lúc người ta vẫn còn quá trẻ: đó là niềm vô tư và nỗi lo âu cho những ngày tháng sắp tới bơ vơ nơi xứ người hoàn toàn không ở trong tôi lúc đó. Anh ấy làm tình báo, có nhiều mối để đi nhưng cuối cùng ông xếp hứa bốc ảnh và vợ con cũng đã dọt mất. Tôi hiểu một khi ba mạ tôi không muốn đi, tức là ước muốn được dồn tình thương cho tôi và hai cậu em.

27-4 trong lúc anh tôi vẫn muốn được bốc đi thật nhanh bằng máy bay, nhưng lại đem chị em tôi vào nhà một người quen trong cư xá hải quân công xưởng. Anh ấy bắt chúng tôi chờ ở đó cho đến hôm sau lại vội vã vác vợ con đi tức tốc, với lời nhắn duy nhất: “Nếu tàu chạy thì cứ đi. Ra ngoải nghe nói sẽ có hạm đội Mỹ vớt.”

29-4 tôi thật tình không biết mình phải làm gì và làm sao để trở về lại với gia đình, khi tình hình bên trong cư xá này đã quá hoang mang. Nhìn ra cổng lại đụng phải một cảnh tượng chen chúc ô hạp không biết xảy ra tự bao giờ. Những tay súng lăm le, những phát chỉ thiên bắn hù dọa đâu đó, những khuôn mặt đằng đàng sát khí đi tới đi lui quanh những cổng sắt như cốt giải tán sự bát nháo hỗn loạn chưa từng thấy. Bên ngoài không chui vào được, bên trong không thể thoát ra. Lâu lâu, tôi nghe chừng có những đoàn xe G.M.C hay M.113 đang nghiến trên mặt phố, hoặc lẫn vào đó là tiếng ủi nát con đường của những chiếc xe tăng không rõ của địch hay mình. Đạn cứ thế vẫn bắn lên trời. Cứ coi như lỡ xẹt ai thì chịu người đó, nhưng còn đạn bắn tẻ, bắn nhốn nháo cướp của, giành giựt, điên điên rồ rồ thì đúng là một pha tang thương và tang tóc nữa.

Đứng một hồi như cố định thần lại, tôi mò tới được một sạp tạp hóa trong khu cư xá. Hỏi mua cái “token” để bỏ vào điện thoại gọi thử ra ngoài xem sao, nhưng có lẽ tổng đài đã bị phá nên chỉ gặp làn sóng ú ớ. Rốt cuộc lại mua lầm một thứ thức ăn đông lạnh của Mỹ, nghe nói Mỹ bỏ đi, dân chúng vào lục lọi P.X. tha hồ chôm chỉa rồi bán tháo đi, và dĩ nhiên sau này tôi mới vỡ lẽ mình đã không biết đọc rõ cách hâm nóng nên nuốt không vô.

29-4, những tiếng bom đã bắt đầu nổ thật lớn như núi lở. Những tiếng bom không phải từ xa vọng về hay chỉ như quá gần thành phố, mà chính là đang nổ tóe ngay trên không trung theo với tiếng máy bay gầm trời phụ họa. Rồi thì những bài diễn từ nghẹn ngào, những bàng hoàng thất thủ, những tan đàn sẻ nghé, những níu kéo tuyệt vọng…

29-4, tôi thấy hình như khu cư xá bỗng vắng vẻ bóng dáng đàn ông một cách lạ thường. Còn nhớ đêm trước quân cảnh đi tuần đã lục xét từng nhà và đã hốt hầu như tất cả những cánh con trai đàn ông. Dĩ nhiên số phận họ ra sao ai mà biết được, có điều mãi đến chiều chạng vạng 29-4 người chồng chủ nhà vẫn chưa thấy về nhưng đa số vợ con họ vẫn cứ ùn ùn bồng bế nhau dạt về bến Bạch Đằng. Trong đám hỗn mang đó, không ngờ tôi cũng vật vờ bay theo lũ âm binh như một thứ cô hồn các đảng, dĩ nhiên không một mảy may suy tính nào cả, cũng như không cảm giác đau đớn chia phôi. Tôi đi là đi thế thôi, nhỏ nhoi tội nghiệp không thua gì một hạt bụi bay, rồi bay, thế thôi.

 

29-4, một ngày trước khi đất nước lao theo cỗ xe tang lịch sử, tôi đã thấy rất rõ trên nền không gian vừa tím dần ấy những trái bom được nứt ra từ đôi cánh của những chiếc máy bay quân sự thổ tả. Những lửa và lửa nhảy múa reo hò điên cuồng, cùng với những tảng khói khổng lồ nổi hẳn một góc trời không xa lắm nơi tôi đang đứng chuẩn bị lên tàu. Pháo kích đã bắt đầu dồn về áp lực những đơn vị phòng thủ lẻ tẻ ở thành phố và những thường dân vô tội. Đâu đó hình như là những trái phá hay những trái hỏa châu vẫn tiếp tục thắp sáng những khoảng trời vô vọng. Phải nói là chưa bao giờ trong đời tôi có cảm tưởng như mình đang bị phủ trùm, bao bọc bởi bốn phía mịt mù lửa đạn như thế. Không muốn nhìn mà những tảng khói ấy vẫn đuổi theo và đâm cay vào mắt. Tôi hơi rùng mình vì một bà mẹ vừa suýt sẩy mất đứa con trên tay, nếu không có sự lanh lợi của cậu con lớn chụp nhanh được chỉ một khoảng đầu của em bé ấy. Níu chặt sợi dây chão, tôi nhất quyết phải đu mình tới thành tàu một cách an toàn.

Kể ra đây cũng là một chiến hạm vừa được tu bổ xong và khá lớn. Những người đàn bà không còn trẻ nữa khi vừa đụng xuống sàn tàu thì thay phiên nhau làm dấu thánh giá, rồi lâm râm lần hạt hoặc nhắm mắt cầu nguyện. Tôi nhận ra bóng tối đổ xuống thật bất thần, và người thủy thủ trong bộ đồ dân sự khá xộc xệch hỏi tôi bằng một chất giọng the thé, nên tôi phải chú ý lắm mới nghe nổi. “Cái ông Chu Tử của tờ báo gì nhỉ… vừa bị bắn ngay chóc trên tàu kia kìa. Thấy mà ghê chưa chứ.” Một người bắt đầu xôn xao Chu Tử của báo Sống bị ám sát. Chú Đạt của cháu Diễm như tên nhân vật trong tiểu thuyết Yêu của Chu Tử đã chết không kịp trối. Viên đạn thù của phía bên này hay AK-47?

Một lát, không nhớ là bao lâu, khi tôi vừa hết sững sờ chuyện Chu Tử thì trên boong tàu nhìn xuống, tôi thấy tên thủy thủ tự xưng lúc nãy đang đứng dưới đất liền. Tôi nói vọng xuống: “Kìa anh gì lúc nãy, bộ… thủy thủ rồi không đi trốn đạn sao?” Anh ta như sực nhớ đến tôi và tỏ vẻ hơi mừng: “Thôi cô đi nhé. Có thể họ chỉ chở mấy người ra Côn Sơn trốn pháo kích. Tôi không biết họ đi đâu, nhưng tôi phải về nhà xem chừng mọi chuyện ra sao đã.” Nhanh như chớp, tôi ném cuốn sổ tay nhỏ dùng để chép năm ba bài thơ, cùng cái địa chỉ tạm thời mà ba mạ tôi đang trú ẩn, rồi kẹp vào vài tờ giấy bạc Đức Thánh Trần với lời nhắn nhủ bình an. Tôi nói, khi đoàn người vẫn tiếp tục chất lên như những  chiếc hộp và những chiếc chân vịt còn lâu mới quay quay: “Có gì nhờ anh giúp hộ nhé. Một chút tiền nước, cảm ơn anh nhiều lắm..” Dĩ nhiên người đàn ông ấy chưa kịp hứa với tôi điều gì, nhưng bao nhiêu năm tôi vẫn không nhớ để hỏi lời nhắn tin ấy có đến tay người nhận. Lời hứa của một người đàn ông và lại là người đàn ông trong chiến tranh thì có gì mà đáng tin. Cũng như người ta đã không thể tin nổi chỉ một cái chớp mắt đèn đỏ mà lạc mất nhau suốt đời. Tin sao nổi mà tin. Người đàn ông tự xưng thủy thủ ấy là ai. Là ai mà vào giờ phút hỗn độn ấy lại còn đổi ý nhảy xuống tàu để trở về với đất liền? Là ai mà loan tin Chu Tử bị bắn chết? Không, trong thời buổi ấy tôi muốn đặt lại một dấu hỏi.

“… Bước chân xuống tàu nghe sóng quặn bốn ngàn lần trên biển quê hương.”, một bài thơ hôm nào tôi đã viết như thế thật sao? Khi tôi đi, dù sao cũng tự nhủ, chiến tranh đã ếm bùa thay vì dìm tôi cho chết trong biển lửa, lại ném âm binh đến để dẫn tôi dạt tới chân trời xa lạ. Con lốc xoáy của chiến tranh dữ dội quá nên tôi đi, đã đành tôi phải đi. Có phải không, khi hồn tôi đau buốt là bởi tại sao chúng ta phải chạy trốn hòa bình?

Đêm, rồi cũng chính đêm đồng lõa với bóng tối cô đơn đưa con tàu ra đi. Không biết vì lý do gì (tàu chưa sửa xong kỹ lưỡng, hay hạm phó còn chờ lệnh hạm trưởng đang chờ người nhà đến?) mà tàu có vẻ dùng dằng khá lâu. Có người bảo chưa nhổ neo được vì sợ V.C bắn đuổi sau lưng. Tất cả đều nhẫn nại đợi cho đến khi đêm thật sâu, làm thành một nền tối sẫm màu thê lương của tiễn đưa lầm lũi. Chưa ra khỏi hải phận VN thì chưa yên tâm đâu, một người nào đó đã bàn bạc như thế. Và quả nhiên cũng có chuyện đã xảy ra như thế thật.

Còn nhớ khi màu đêm vừa chuyển đổi sang thứ ánh sáng lấp ló đầu ngày, tôi đang váng vất nửa tỉnh nửa mơ thì bỗng từ đâu xuất hiện tiếng động cơ của chiếc trực thăng chao đảo mấy vòng trên không trung. Chiếc máy bay chỉ một người lái duy nhất đã bị đánh rớt khi sắp rời khỏi hải phận VN. Trong suốt chuyến đi, nỗi ám ảnh buồn rầu của cái chết thủy táng đầy máu me ấy đã đeo tôi không dứt.

30-4-2005 là một khoảng cách dằng dặc 30 năm của những người con xa xứ. Thủ đô nước Mỹ, tôi đang ở một nơi có Đại Sứ Quán Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và cả Đài Tưởng Niệm Thương Phế Binh Việt Nam với hơn 58 ngàn tên người lính Mỹ ghi chằng chịt đã nằm xuống. Điều tôi vừa nhận ra lúc này không phải là lúc tôi nên nhớ về những tấn bom. Bom đã nổ cách đây những 30 năm và tôi cũng đâu đã chết với những ước vọng mùa xuân phải tràn trề lộc mới. Vâng, phải tràn trề lộc mới. Cho tuổi trẻ, vì tuổi trẻ và những mầm xanh tuổi thơ. Trên quê hương tôi, quê hương chúng ta.

Hoa Thịnh Đốn, tháng 2-2005

Nguyễn Thị Thanh Bình

Từ trang DĐQGHCUC

 

Tháng Tư Đường Phố Lạ - Thuyên Huy

Tháng Tư Đường Phố Lạ




Đi Trong Thành Phố có Nắng - Kiệt Tấn

 

ĐI TRONG THÀNH PHỐ CÓ NẮNG

Em tôi ơi! Tình có nghĩa gì đâu
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu
Thuở ân ái mong manh như nắng lụa

Hồ Dzếnh



Tôi mở  mắt ra rồi nhắm mắt lại. Chưa tin. Lại mở ra rồi nhắm lại.Chưa tin hẳn. Dụi mắt nheo nheo. Lạ quắc. Không phải nóc mùng trắng và vách mùng trắng như mọi bữa. Nóc mùng xanh lợt, vách mùng màu xanh ô liu, thuộc loại nhà binh. Tôi đang ở đâu đây? Đầu nhức nhối, cổ khô rát.  Tôi nằm đây từ hồi nào? Một vệt nắng sáng lọt qua cửa sổ mở hờ chói thẳng vào mắt tôi. Có tiếng thở của ai khác lạ. Tôi day sang bên cạnh. Một người con gái nằm đó. Hơi thở nàng chậm và đều. Ngực nàng phập phồng nhấp nhô dưới chiếc áo ngủ mỏng màu hồng. Giữa hai đùi trắng tươi của nàng, chiếc gối ôm dài đã tuột xuống thấp. Cúi xuống ngó kỹ. Nhi! Nhi? Nhi… Phải rồi… Nhi!… Tôi nhớ ra rồi. Đêm qua tôi đã theo Nhi về nhà nàng rồi ngủ lại ở đây luôn.

Nhi là vũ nữ ở vũ trường Đại Kim Đô. Nói chuyện có cảm tình. Tôi thích nhảy với nàng vì nàng có da thịt, ôm sát Nhi vào người có cảm tưởng như ôm chiếc gối nhồi bông, êm êm, nhẹ nhàng, thơ thới, hân hoan. Nàng nhảy rock với tôi rất ăn nhịp. Đêm qua anh Ba Lợi rủ tôi đi nhót. A!

Tối qua tôi và Lộc hai đứa cưa hết một chai whisky nhãn đen, anh Ba tôi bị suyển nên cữ rượu, còn anh chàng thứ tư bạn của anh Lợi chỉ nhấm nháp chiếu lệ. Tôi kêu Nhi tới ngồi bàn trọn buổi tối. Rượu vào lời ra, không rõ tôi đã tán tỉnh nàng ra sao mà coi mòi em bé chịu đèn. Vãn màn nhảy nhót tôi theo Nhi về nhà nàng ở dốc cầu chữ Y. Thêm một lần nữa, tôi lại bỏ nhà đi hoang.

Nhi làm đêm nên sáng nào cũng dậy trễ, có khi bỏ ăn buổi trưa luôn. Trót mang lấy nghiệp vào thân! Tôi cẩn thận từ từ ngồi dậy, sợ làm kinh động giấc ngủ nàng. Tôi vén mùng bước xuống nền gạch bông còn thấm lạnh hơi đêm. Rón rén đi ra nhà sau kiếm nước uống cho đã khát. Đút đầu dưới vòi nước ở chậu rửa mặt, vừa vò tóc tai vừa mở miệng tợp nhiều ngụm nước từ phía sau ót chảy xuống. Đêm qua tôi ăn ít, bụng nhờn nhợn xông lên mùi whisky từng chập. Dựa theo kinh nghiệm, tôi thọt một ngón tay vào miệng mình tự móc cổ họng cho ói ra. Ói được thì nhẹ người.

Sửa lại lần chót chiếc cổ áo mình cho ngay ngắn, tôi rón rén đi lên nhà trên, nhè nhẹ mở khóa cửa rồi lách mình ra ngoài khép cửa lại. Nghĩ sao, tôi lại quay trở vào nhà tìm một mảnh giấy nhỏ nguệch ngạc viết để lại cho Nhi mấy chữ: “Anh phải đi sớm. Hẹn gặp lại em tối thứ Năm”.” Tôi rời thềm nhà bước hẳn ra ngoài hẻm đất. Nắng chan hòa tưới lên mình mẩy tôi vàng hực. Tôi bẻ ngón tay lắc cắc, vặn xương sống lụp cụp, vươn vai ngáp dài mấy cái, hít không khí mát rượi của buổi ban mai cho tỉnh ngủ. Dứt con hẻm tôi bước ra lộ cái bắt gặp lại sự náo nhiệt thường trực của thành phố. Tôi quẹo tay mặt kiếm một con đường nhỏ đi cho yên tỉnh. Nắng! Nắng! Nắng! Thiệt không phải là một ngày để chào quốc kỳ, để giải quyết công vụ và để ngó mặt mấy thằng trốn quân dịch chó má. Một ngày để tắm nắng, để nhìn én liệng trên trời, để ngó mây bay đổi dạng thành nhiều hình ảnh kỳ lạ, để lãng mạn, để yêu, để la, để khóc, hay để làm bất cứ một cái gì đó chứ không phải để gân cổ lên hét “Thanh niên ơi! Ta quyết đi đến cùng… Thanh niên ơi!… Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!” Biết rồi, ta là con rồng cháu tiên do một trăm cái trứng nở ra, năm chục lên núi theo cha, năm chục xuống biển theo mẹ, ta đã từng chém đầu Liễu Thăng, đã từng phá tan giặc Nguyên đánh tan Mông Cổ, đã từng đuổi hết lũ  giặc Minh… Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!

 

Tôi lửng thững đi dọc theo con lộ nhỏ. Thành phố đã thức dậy, một đám người ngồi chùm nhum quanh cái sạp thấp uống cà phê, ăn bánh cuốn chả lụa, kẻ húp cháo lòng còn bốc khói nghi ngút, ai nấy cũng có vẻ hấp tấp để bắt tay ngay vào việc sau khi phủi đít đứng dậy. Một con chó lảng vảng dưới chân thực khách chờ gậm xương, đuôi ngúc ngoắc để kiếm chút cảm tình. Ai nấy đều chăm chú vào thức ăn trước mặt mình. Con chó ngước lên nhìn, đôi mắt thèm khát, đuôi ngoắc lia lại. Tiếng ăn xen lẫn với tiếng uống, tiếng húp xì xụp. Con chó sủa lên một tiếng nhỏ để gây sự chú ý cho thực khách, liền bị nạt cho nín. Than ôi! Trong một buổi sáng đẹp trời như thế nầy, người ta không thể nào rộng lượng hơn với con chó một chút sao? Quăng cho nó một cái xí quách hay một miếng thịt dai chẳng hạn cho bỏ cái công nó cố gắng làm vui lòng khán giả.

Tôi tiếp tục đi, đi thẳng vậy thôi chớ không có mục đích gì rõ rệt, nhứt là đi tới sở làm thì bỏ đi tắm. Đầu đã bớt nặng, tôi cảm thấy yêu đời và hân hoan trong cơn mưa ánh sáng rực rỡ. Nắng khắp nơi, nắng chan hòa, nắng bao dung, nắng rộng lượng, nắng tưới đầu ngọn cây, nắng lăn mình trên thảm cỏ, nắng vút cao trên bức tường vôi trắng, nắng đong đưa trên những chùm bông giấy sai oằn đủ màu sắc, đỏ ối, vàng cam, tím thẫm, trắng tinh. Bỗng có tiếng ai khóc. Một đứa nhỏ gái độ chừng năm tuổi đang ngồi ở thềm đất trước nhà khóc tấm tức, hai tay ôm con búp bê đã gẫy hết hai chưn. Bé ơi! Làm sao mà khóc vậy cưng? Bé khóc con búp bê tật nguyền của mình? Bé khóc vì vấp té? Bé khóc vì mới bị má đánh đòn? Mà sao lại đi đánh đòn em nhỏ trong một buổi sáng rạng rỡ nắng như thế này. Bé dụi mắt, nắng rạng rỡ trên mặt em bé tèm lem nước mắt.

Tôi tiếp tục đi, ngước mặt ngó lên bầu trời xanh thẳm và nắng tươi mướt nhảy múa trên đầu các ngọn cây, như tôi và Nhi ôm khiêu vũ đêm qua, nhưng nắng không ngạt ngào thơm tho mùi son phấn. Nắng trong lành. Nắng tươi tốt. Nắng nhẹ hổng. Cuối đường tôi quẹo trái đi vào con đường lớn. Tôi đi ngang qua một góc phố được Mỹ chuyển thành công sự chiến đấu càng lúc càng nhiều sau Tết Mậu Thân. Nhiều ống xi măng lớn ruột đổ đầy bê tông cốt sắt được dựng quanh ra tới sát lề đường. Tên G.I. đứng gác còn trẻ măng, miệng nhai tóp tép kẹo cao su, báng súng M16 chống bên hông mặt, nòng súng chỉa nghiêng chênh chếch ngó trời, một ngón trỏ đặt trên cò súng trong vị thế sẵn sàng nhả đạn. Này anh lính trẻ kia ơi! Anh có biết vì lẽ nào mà anh hiện diện ở cái xứ sở xa tít đầy muỗi mòng đỉa vắt của người Việt chúng tôi, thay vì giờ phút này có thể anh đang coi tivi màu trực tiếp truyền hình một trận base ball gay cấn ở Los Angeles?

 

Tôi đi ngang qua công sự, từ lỗ châu mai loe ra miệng súng đại liên làm tôi ghê ớn. Nghĩ tới một ngày nào đó mình phải tiến lên dưới hỏa lực, đạn AK và đạn B40 bay ào ào, tôi đâm nổi gai ốc cùng mình. Một đám năm sáu cô gái mặc áo dài trắng, nón lá che đầu đang đạp xe đến trường, nói cười ríu rít như những con chim sẻ — những con chim sẻ mỹ miều và dễ thương biết mấy! Nhớ thuở học trò, ngày nào cũng ra ngồi ở đống cây trước cửa nhà mình để ngắm các nàng tiên áo trắng qua lại. Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ, chim non dấu mỏ, dưới cội hoa vàng. Mặt trời xòe trắng, những chùm tơ nắng quấn quít trên những chiếc ngực thanh tân, trên những quai nón lá vắt dưới những chiếc càm nhỏ duyên dáng. Em tan trường vềbước em thênh thangáo tà nguyệt bạchôm nghiêng cặp sáchvai nhỏ tóc dàiAnh đi theo hoàigót giày thầm lặng

Tiếp tục đi rong chậm rãi. Ngang một đống rác ngùn ngụt xông ra mùi hôi thúi nồng nặc. Một con chó đen vùi đầu trong đống rác, hai cẳng bới tìm một chút cặn thừa của thặng dư thành phố. Tôi dừng bước, con chó không hay biết. Tôi hút gió búng tay lóc chóc. Nó giựt mình đánh thót quay đầu ngó lại, thè lưỡi liếm quanh mõm. Hai mắt lấm lét, đuôi cụp giữa hai đùi sau sợ sệt. Mày sợ tao chi vậy chó? Trong cái xứ sở tang thương này, tao có gì hơn mày đâu mà mày sợ, ngoại trừ tao đứng bằng hai cẳng và khi tè không dở một cẳng lên cao. Nói về cái chứng tưới gốc cây thì tao dám ăn thua với mày, nhứt là khi tao đã tu liền tù tì mười chai 33. Tôi tiến lên một bước tỏ dấu hiệu thân thiện. Con mực thụt lùi rồi hoảng sợ bỏ chạy. Quả thiệt mình là đồ phá đám! Tôi đi nhanh hơn cho khuất mắt cái đống rác đồ sộ bên đường.

Gió từ trước mặt thổi thốc lại, các chùm bông giấy nhuộm nắng đong đưa những chiếc lồng đèn treo khiến cho lòng tôi bâng khuâng nhớ, Tết, cái Tết ấu thơ mà bất cứ một chút gì cũng có thể khiến cho mình hạnh phúc vô biên. Bây giờ liệu còn có được những gì có thể khiến cho tôi sung sướng? Tiền bạc chăng? Rượu chăng? Xì ke chăng? Tôi chưa nếm thử nên không biết. Gái chăng? Đã có những chuyến bay đêm với Nhi, với Nguyên, với Phấn và còn em nào nữa, nhớ sao cho hết. Khoái cảm thì có, còn hạnh phúc thì không. Tìm kiếm lăng xăng. Nhưng tôi tìm gì hay kiếm gì chính tôi cũng không biết. Nói như Nguyễn Đình Toàn:” Tôi có cái mình không thể tìm, tôi tìm cái mình không thể có.” Trong khi chờ gặp gỡ hạnh phúc, tôi ngáp dài liền mấy cái, nước mắt ứa ra. Cơn ghiền cà phê kéo đến. Tôi tấp vào một cái sạp cạnh gốc me uống cà phê bít tất. Người đàn bà hỏi:

-Cậu có có muốn ăn hột gà chiên không cậu? Tui có bưa Bretel ngon hết xẩy.

Trong bụng hãy còn nhờn nhợn, tôi lắc đầu:

-Cảm ơn thím tôi không đói, Nhưng thím cho một giọt bưa vào ly cà phê cho nó thơm.

Mà thơm thiệt. Tôi gọi thêm một ly nữa. Trả tiền đứng dậy đi thêm một khoảng hơn trăm thước, trở ra đại lộ. Xe buýt, xe du lịch, xe xích lô máy, xe hai bánh khua động ầm ĩ. Tôi thả rễu trên vỉa hè. Có tiếng nhạc từ phía trước văng vẳng vọng lại. Tôi tiến lại về phía đó. Dừng lại trước một tiệm bán máy thu thanh, băng nhựa và đĩa hát. Hàng hóa trưng bày thanh lịch trong tủ kiếng. Từ trong tiệm vẳng ra tiếng hát của một nữ ca sĩ. Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau phong thư ngào ngạt hương. Nét bút đa tình lả lơi… Giọng ca trữ tình, lời ca lãng mạn nhuộm thơm ánh nắng. Nhớ phút ngập ngừng lòng giấy viết rằng chờ đến kiếp nào, tình đầu trong gió mùa, người yêu ơi!… Tôi tần ngần sung sướng với hạnh phúc bất ngờ, từng giọt nhạc rớt xuống lao xao, Em nay về đâu? Phong thư còn đây. Nhớ nhau tìm trong ánh sao…” Thần trí hòa trong tiếng nhạc, thân xác trôi nổi bập bềnh, Thời gian như xóa lời yêu thương. Thời gian phai dần theo bao lá thư…

 

Tôi muốn băng qua đại lộ, vỉa hè bên kia rộn nắng, vỉa hè bên này khuất mát. Tiếng hát trở lại điệp khúc văng vẳng đuổi theo……Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau phong thư ngào ngạt hương… Tai còn vấn vương, đầu óc lơ đãng. Đặt chân bước xuống mặt đường nhựa. …chờ đến kiếp nào, tình đầu trong gió mùa , người yêu ơi… Mặt đại lộ chia hai mỗi bên có kẻ trắng hai hàng cho xe chạy. Tôi dợm bước …thời gian xóa dần theo bao lá thư. Ái ân… Một chiếc xe nhà binh chạy vút ngang sát rạt mặt mũi, tóc tôi cuốn theo gió hút dựng đứng. Tôi kinh hoàng thối lui. Một tiếng bánh xe thắng gấp rợn người chợt vang lên rát ruột… người tôi tự động phản ứng ểnh ngược ra trước một cách máy móc, đồng thời một vật gì cạ lên sợi dây nịt làm tôi lao chao muốn té sấp… Một chiếc xe du lịch màu đỏ thẳm lủi vào vỉa hè, dằn xóc một nửa xe trên lề một nửa xe trên lộ mấy lượt, rớt trở lại mặt nhựa, chạy thẳng thêm chừng vài chục bước rồi thắng xịt lại. Trên xe bước xuống một người đàn ông mặc áo sọc xanh, quần xanh đậm, mặt mày cau có giận dữ:

-Đ.m! Bộ muốn tự tử hả cha nội?

Người đàn ông hầm hầm tiến về phía tôi, miệng không ngớt la lớn:

-Đ.m.! Bộ không thấy đèn xanh cho xe chạy hay sao mà khi không băng qua đường bất tử vậy hả?

Tôi lặng thinh. Hắn tiến tới sát mặt tôi, mặt mày đỏ ké:

-May mà tôi cứng tay lái chớ không thôi thì cha nội đã rồi đời rồi, còn tôi thì lủi vô gốc cây bể đầu dập ngực. Cha nội chưa tới số đó, chớ không thôi thì bà hú rồi!

Tôi lí nhí xin lỗi, tim vừa đập bấn loạn, vừa sượng sùng, không biết nói gì để tự bào chữa . Thấy tôi không có cử chỉ gì muốn gây gổ, hắn cũng nguôi giận đôi phần.

-Cha nội hên lắm đó nghe! Chớ không thôi cảng xe hay kiếng chiếu hậu trên vè hất cha nội té sấp trên mặt lộ, không gãy răng thì cũng ói máu.

Tôi lại lí nhí xin lỗi. Hắn bỏ qua, quay gót đi ngược trở lại xe, đóng rầm cửa lại rồi rồ ga vọt thẳng, bánh xe lết rét rét trên mặt nhựa.

Trong bụng ngỡ ngàng, tim vẫn hãy còn đập mạnh, tôi cẩn thận ngó trước ngó sau trước khi thối lui có trật tư lên vỉa hè, đứng ẩn trong bóng mát. Xớ rớ hồi lâu, trong lòng không khỏi tiếc rẻ sao một ngày đẹp trời như thế này mà tuồng như không một ai biết thưởng thức, cứ phóng xe ào ào chạy như trối chết. Bộ gấp lắm sao? Chạy đi giựt giàn, chạy để cố bắt cho kịp chuyến bay, hay chở vợ đang chuyển bụng đẻ? Không thôi vì lý do gì mà gấp dữ vậy? Hiểu không nổi. Sao không chạy từ từ để còn kịp nghe cô ca sĩ đang trổ hết tài nghệ của mình. Tôi trở lại tiệm nhạc, đứng ngó vào tủ kiếng… Chiều tím, chiều nhớ thương ai? Người em tóc dài, sầu trên trên phím đàn, mây bay quan san. Có hay ?

Chao ôi! Sao trong một ngày nắng rạng rỡ như thế này mà lại nỡ đánh đòn em nhỏ? Không thể nuông chìu em thêm một chút nữa hay sao?”…Ai nhớ mắt xanh năm nào, chiều thu soi bóng, nắng chưa phai màu, kề hai mái đâu, nhìn mây tím nhớ nhau… Sao trong một ngày nắng tươi sáng như thế này mà lại tiếc rẻ một chút gân dai với con chó đang ngoắc đuôi trông đợi, đôi mắt nhìn năn nỉ… Từ đấy đàn nhớ thanh âm, chùn dây vĩ cầm. Người xa vắng rồi! Chiều sang em ơi, thương ai hoa rơi lá rơi!”  Sao trong một ngày nắng đẹp đẽ như thế nầy mà lại đi tính chuyện giết nhau! Gã G.I. trẻ măng kia có thù hận  gì với ai mà lại thủ súng trong tư thế sẵn sàng nhả đạn? Không có cách nào êm thắm hơn để chấm dứt cuộc chém giết tập thể đã kéo dài ngót ba chục năm nay trong núi rừng lạnh lẽo, trên đồi đá cháy da, trên sông rạch sình lầy? Làm sao để giảm bớt tốc độ đám nhân loại đang nhắm mắt nhắm mũi chạy theo hiệu năng: Sản xuất, sản xuất cho thiệt nhiều, cho thiệt lẹ. Tiêu thụ , tiêu thụ cho thiệt nhiều, cho thiệt lẹ. Giết người, giết cho thiệt nhiều, cho thiệt lẹ. Tích tắc, nửa giây đốt cháy cả một triệu người thành tro bụi. Làm sao đây? Cứ tiếp tục như vầy mãi sao?

“… Mây gió bốn phương giăng hàng. Mùa thu thêu áo, nếp hoa võ vàng. Và em với chàng, kề vai áo phấn hương… Tôi chợt có một ý nghĩ rất đằm thắm và ngùi ngùi về Nhi — Nhi loài chim ăn đêm, Nhi nhạc khuya sàn gỗ. Nhi không hề biết sáng nay trời nắng đẹp, Nhi không hề hay biết trận ái ân đêm qua suýt nữa đã trở thành lần cuối cùng trong cuộc đời phóng đãng của tôi? Ừ nhỉ, sao tôi không thể dịu dàng với nàng hơn một chút, sao tôi không thể thiết tha với nàng hơn một chút, thay vì chỉ chăm chú vào thân xác của nàng? Tôi đã có làm một chút gì để cho nàng đẹp dạ? Tôi đưa tay ngoắc chiếc taxi. Lên xe đóng mạnh cửa lại: “Anh chở tôi xuống chợ hoa Nguyễn Huệ”. Người tài xế dạ nhỏ, xe từ từ lăn bánh. Bỏ lại sau lưng, tiếng ca dìu dặt văng vẳng dõi theo:

Chiều hỡi! Đàn nhớ mong nhau, tình thương bắc cầu. Người đi hướng nào, tình trong chiêm bao, tóc bay dài gió viễn khơi…

Viết lần đầu tại Sài gòn năm 1970
(Viết lại, Paris 1987).

Kiệt Tấn

 

 

Friday, April 25, 2025

Biết Thuở Nào Nguôi - Nguyễn Cang & Xin Hiểu Dùm - Ngọc Ánh & Khôn Nguôi - Diệp Văn

 THƠ XƯỚNG HỌA GIAO HỮU

Bài xướng:

XIN HIỂU DÙM

(nđt)

 

















Hờn căm uất hận giữa khung trời

Vật vã bao lần với biển khơi

Nỗi khổ lìa quê truyền lưu hận

Niềm đau ruột đứt dở dang thời

Cầu xin thấu hiểu đừng gieo nữa

Chiến trận lan tràn để giỡn chơi

Giặc giã vô tình không kể xiết

Còn bao cách biệt mãi trong đời

Ngọc Ánh Nguoideplongyen

07/04/2025

Họa 1:

BIẾT THUỞ NÀO NGUÔI

(nđt)

Hỗn loạn tràn lan khắp biển trời

Nên đành bỏ nước vượt trùng khơi

Niềm riêng nặng trĩu buồn muôn thuở

Nỗi nhớ trầm luân khổ một thời

Ngẫm lại Nam kỳ thua mất của

Suy cùng Bắc phủ đoạt trò chơi

Trần ai sự thể còn lưu diễn

Vũ trụ dần xoay ắt đổi đời

Nguyễn Cang ( Apr.17, 2025)

 

Họa 2:

 (nđt+ ltđ)            

 KHÔN NGUÔI

Miền nam lỡ vận ngẩng trông trời

Khốn nỗi bao ngườj vượt biển khơi

Dẫu biết ngàn xa sầu vạn thủa

Đành cam não nuột há theo thời

Nhìn qua những tưởng không gì đó

Gẫm lại khôn lường kiểu chúng chơi

Vận thế cơ trời luân chuyển mãi

Hành nhân tích thiện để xem đời

Apr 20, 2025 Diệp Văn

 

Dòng Sông Kỷ Niệm - Nguyễn Cang

DÒNG SÔNG KỶ NIỆM



 














Quê hương tôi có một dòng sông

Hai mùa mưa nắng nước mát trong

Những buổi trưa hè ra đứng đợi

Bên kia em có ngóng chờ mong

 

Mỗi ngày đi học tôi qua sông

Dòng nước mênh mông ngập cả lòng

Đò chiều đưa khách qua bến vắng

Em có qua đò buổi lập đông

 

Thời gian chớp mắt như bóng câu

Chinh chiến tràn lan khó gặp nhau

Dòng sông ngăn cách hai giới tuyến

Thù hận ngày đêm giọt lệ sầu

 

Ta quen nhau ngày đầu chinh chiến

Ta mất em lúc chiến chinh  tàn

Dòng sông xưa vẫn tràn ký ức

Thương nhớ đong đầy thuở nào vơi

 

Đêm nay trăng sáng rọi cầu dừa

Dòng sông lấp lánh mảnh trăng thưa

Thuyền ai đậu bến trên sông vắng*

Có chở trăng về kẻo tối mưa*

 

Mấy mùa thu qua ta vẫn đợi

Dòng sông xưa sóng vỗ lăn tăn

Người xưa đâu giờ tìm chẳng thấy

Kỷ niệm vùi chôn hỡi cố nhân!!!

 

Nguyễn Cang ( Apr. 14, 2025) 

Đời Còn Ngăn Cách - Nguyễn Cang

 ĐỜI CÒN NGĂN CÁCH

(ngũ độ thanh+ giao cổ đối)

 
















Vàng trăng trải lụa đón em về

Mấy độ phai tàn ảo não ghê

Lối cũ mờ, hoa tràn mọi nẻo

Đường xưa ngập nắng,  lỡ câu thề

Mười năm cách trở xa lời hẹn

Nửa  phút  sum vầy đẫm lệ quê

Dẫu biết tình ta là biển rộng

Trường giang sóng vỗ  quản chi nề


Nguyễn Cang  Apr. 20,2025)

Hồn Tử Sĩ & Đến Quy Nhơn - Nguyễn Thị Châu

HỒN TỬ Sĩ

 



















Hồn thiên theo chiếc lá vàng bay

Có nghe ai đó, tiếng thở dài

Đu đưa theo mãi trên cành lá

Gió thổi đem theo nỗi u hoài

 

Các anh, tử đó không thấy về

Hay còn gìn giữ xóm làng quê

Hoặc còn ngồi đó canh ngôi mộ

Gom góp lá vàng xây  ước mơ

 

Giờ ở đây theo gió theo mây

Nỗi buồn ai biết? Có ai hay?

Hồn tử sĩ một đời oanh liệt

Nay tan rồi giấc mộng ngày mai

 

Yên nghĩ đi các anh kính mến

Vẫn còn người tưởng nhớ các anh

Vẫn ghi ơn người con tổ quốc

Trong lòng người anh vẫn rạng danh…!!!

 

23-4-2025

Nguyễn thị Châu

 

ĐẾN QUY NHƠN

 

Ta nghe sóng vỗ bên mình

Quy Nhơn buổi sáng bình minh dạt dào

Tiếng cười tiếng nói ngọt ngào

Sóng reo, sóng vỗ nhấp nhô vào bờ

Non xanh nước biếc lững lờ

Gieo lòng lữ khách lời thơ hữu tình

Quy Nhơn ơi! Ánh bình minh

Chói chang, ấm áp, lung linh sắc màu

Mênh mông tiếng gió đón chào

Hàng Dương xanh mát rì rào đón đưa

Miền Trung đội nắng, đội mưa

Đất cày sỏi đá, lưa thưa xóm nghèo

Đường lên dốc đá cheo leo

Thăm Hàn Mạc Tử nhà thơ si tình

Lời thơ còn đó như in

Trăng vàng người bán, sao còn trên cao?

Người ơi! Người ở nơi nào?

Lời thơ còn mãi theo dòng thời gian

Mây chiều biển rộng thênh thang

Thơ Hàn Mạc Tử  tiếng vang cả đời …!!!

 

 23-4-2025

 Nguyễn thị Châu

  

Tháng Tư Tội Lỗi - Phạm Chi Lan

 

 THÁNG TƯ TỘI LỖI

 

Chủ nhật, 27 tháng 4-1975.

Ðang ngủ ngon thì mẹ gọi thốc dậy. Vẻ mặt nghiêm trọng, mẹ gọi tôi và Biếc ra góc bếp rồi dúi vào tay chị em tôi mỗi đứa một cuộn giấy bạc. Mẹ cho tiền tiêu vặt, muốn mua gì thì mua thỏa thích này. Và không giải thích gì thêm. Cầm cuộn tiền trong tay, tôi bối rối, ngại ngùng. Lần đầu tiên được giữ nhiều tiền, tôi hỏi Biếc làm gì với nó, chị ngơ ngác bảo không biết. Mỗi đứa có 50.000 đồng, số tiền quá lớn đối với một đứa trẻ. Hồi hộp với cảm giác lạ, không biết lấy làm vui sướng hay lo sợ một điều gì mơ hồ đang xảy đến. Số tiền này, chị em tôi có thể hùn mua được chiếc xe đạp mini, một mơ ước ngoài tầm với những ngày trước. Nhà nghèo, chị tôi vẫn mơ có một chiếc xe đạp xinh xinh để đi học và chở tôi đến trường, thay vì phải lội bộ dưới những cơn nắng gắt. Nhưng, lúc này, chiếc mini không còn là giấc mơ hay cần thiết nữa. Chỉ thấy lòng dửng dưng với xấp giấy bạc. Tiền để làm gì bây giờ nhỉ?

Mấy tháng nay tình hình xao động, chung quanh không bình thường, yên ổn như ngày này năm ngoái, những ngày chuẩn bị mùa nghỉ hè. Có nhiều chuyện quan trọng khác, chẳng hạn như cảm giác bất an trong lòng mà tôi không định hình được. Tôi đang thấp thỏm chờ đợi một biến cố tâm lý, cơ thể đứa con gái bắt đầu dậy thì, đang xôn xao với nhiều bồn chồn, lo lắng. Như lần đầu tiên mặc cái áo nịt ngực, xấu hổ tưởng ai cũng đang nhìn mình chằm chằm, xuyên qua lớp áo nhìn thấy hết…

Bà bắp luộc cắp rổ đi ngang, tôi gọi mua một chục cái bắp nóng hổi. 12 cái à, dạ hôm nay con bao cả nhà ăn bắp. Tôi tặng bà luôn số tiền thối lại khá lớn. Gặm một cái và đưa Biếc một cái. Ngô nhạt nhẽo, miệng mồm tôi cũng nhạt nhẽo, không cảm thấy thèm quà vặt. Những chiếc bắp dư thừa nằm lăn lóc trên bàn không ai ngó ngàng tới, ruồi bậu vo ve. Không khí im sững lại. Tôi nghe tiếng thở của mình nặng nề giữa buổi trưa nóng nực.

Biếc có vẻ tư lự, suy nghĩ gì, chị bảo chạy đi đây một tí, sẽ về ngay. Tôi nhắc theo, mẹ dặn không được đi đâu quá một tiếng đồng hồ đấy. Bố mẹ lại thì thào, bàn tính chuyện gì không muốn cho bọn trẻ nghe. Tôi tò mò, không biết bố mẹ đang có chuyện gì quan trọng. Vẻ mặt mẹ rầu rầu đăm chiêu, tôi hồi hộp nhưng không dám hỏi. Ðến chiều, bà chị ở Bến Ðình đạp xe vào, rón rén nhìn trước nhìn sau. Mẹ và chị kéo nhau ra góc thì thầm. Chị Thuận nói nhỏ, “gia đình con thu xếp xong rồi, nhà có 5 người, tiền thì mua vàng hết, chỉ có cái TV và xe honda thì để lại, dấu trong góc vườn, nếu không đi lọt trở lại…” Tôi bàng hoàng, tay nổi gai, rờn rợn khắp người. Cái lo bỗng ập đến, tôi hoang mang vô cùng. Ðiều ghê gớm là gia đình tôi đang tính đi xa, nhưng mà đi đâu? Con Hà hàng xóm chạy sang rủ đi ciné có phim hay đang chiếu, tôi lắc đầu không đi. Cũng không muốn tâm sự gì với nó.



Có điều gì trong tôi đang giằng co, bứt rứt mà không thể nói với ai được. Tôi vẫn giữ trong bụng nhiều điều, Biếc vẫn bảo tôi bày đặt kín đáo, khó tính như bà cụ non. Bà cụ non đang buồn muốn chết… Cả tháng nay tin thời sự nóng bỏng. Tối nào ăn cơm xong tôi cũng phải đọc báo cho bố nghe khan cả cổ. Tôi đọc như con vẹt, toàn những từ ngữ dao to búa lớn, những địa danh khói lửa. Nội dung là trận chiến đang thảm khốc, tới hồi quyết liệt. Báo đăng toàn tin xấu: Huế,  Ðà Nẵng thất thủ, Khe Sanh, Pleiku tơi bời. Bên ta, bên địch người chết như rạ. Lính bỏ áo giáp, súng ống chạy có cờ. Mỹ thì đã bỏ chạy từ kiếp nào. Chữ “Time” tôi đọc là “Ti-me” mặc Biếc che miệng cười. Tham-mờ, nhỏ này quê quá, là tờ Thời Báo của Mỹ đó. Kệ tui, tui đọc bố hiểu là được rồi… Bố mua gần hết nhật trình ở sạp. Ðối với tôi những tin gì liên quan tới chiến tranh, Việt cộng, Giải phóng nằm vùng, Nguyễn văn Thiệu, Dương văn Minh, Mỹ Mẽo… đều chán phèo, tôi đọc như một cái máy, đọc vì được bố trả công, vì cặp kính lão của bố bị gãy càng. Ðọc mà không biết mình đọc gì, đầu rỗng toang. Chỉ chờ đọc xong phần tin tức cho bố, tôi lật ngay trang trong có đăng từng kỳ truyện “Áo mơ phai” của Nguyễn Ðình Toàn, đọc ngấu nghiến. Văn nhẹ nhàng, thơ mộng, hợp với tuổi ô mai hơn. Giọng ông này đêm mà đọc truyện trên đài Quân Ðội thì tuyệt, ru ngủ rất ngon, tối nào chị em tôi cũng dành cái radio nghe nhạc.

Tôi đang chán ghê vì những gì người lớn đang toan tính. Không ai hỏi ý kiến bọn trẻ có muốn đi hay không. Biết đi là trọng đại, ai cũng mơ hồ cảm nhận, vừa thấy thích vừa hoang mang, hồi hộp.

Nhưng một khi bố đã quyết định thì không còn một chọn lựa khác. Mẹ lúc này tiêu tiền phóng khoáng, không hà tiện chắt chiu như lúc thường. Dường như tiền không còn ý nghĩa giá trị trong những ngày loạn lạc, hay mẹ dùng tiền dành dụm bao lâu nay để bù đắp cho chúng tôi những món ngon, vui hưởng những giờ phút còn lại ở nơi này? Mua một lúc 2 ký nhãn và mấy chục cái lạp xưởng, bánh mì, phó mát… mẹ xài sang như dân Saigon có tiền vậy. Gia đình bà chị cả đã kéo ra Cấp tối qua, lễ mễ hành lý, radio, máy hát lỉnh kỉnh.

Biếc tìm được trong thùng cuộn băng nhạc Trịnh Công Sơn, khoái chí. Giọng Khánh Ly khàn khàn, rên rỉ. “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…” Họ nói tất cả đã sẵn sàng, tăng lều đã được dựng lên ở đảo Guam, đảo Wake, Philippine… Người Mỹ đã biết hết thời cuộc. Bố kêu nhức đầu nằm ngả lưng trên phản, bảo tôi mang báo có hình quang cảnh trại tị nạn cho bố xem. Bố ngồi ngay dậy: “Ðây này, tin xác thực có cả hình đây, bác Gián nói không sai. Tình hình không ổn đâu, trước sau gì cũng mất nước. Mình là dân Bắc di cư không thể chần chừ được…”, bố phân trần với mẹ. Mẹ đang loay hoay thu xếp, mẹ buông tay thẫn thờ. Dưới ánh đèn, hình ảnh mẹ chịu đựng như một bức tượng. Miền Trung đã mất cả tuần nay, bố bồn chồn đứng ngồi không yên.

Báo và radio toàn loan tin thời sự, từng thành phố một thất thủ. Người miền Trung bỏ chạy về phía nam, những khuôn mặt thất thần, nhếch nhác, rách rưới, nhà cửa cháy tan hoang… Họ thoát chết vì bom đạn trên quốc lộ số một. Người chết nhiều lắm. Xe tăng Việt cộng đang tiến vào Sàigòn. Xuân Lộc đang tử thủ. Lại nghe đồn giá gạo mắm sẽ lên. “Ôi dào,” mẹ thở ra, “tôi chẳng biết, ông tính sao thì tính…” Người bạn của bố ghé nhà mấy lần có vẻ vội vã, thầm thì với bố điều gì, rồi phóng xe đi ngay. Không khí căng thẳng ngột ngạt một điều gì… Biếc nói bên trường trung học phải nhường phòng lớp cho người di tản.

 

Nghe nhiều chuyện dễ sợ lắm, có người chết hết cả gia đình. Tuần trước, lớp tôi quyên được ít tiền ủy lạo nạn nhân thời cuộc, tôi nhịn tiền quà sáng đóng góp. Các cửa hàng bán đồ khô, gạo, nước mắm đắt như tôm tươi. Ai cũng lo dự trữ thực phẩm. Tối qua mẹ chở về nhà 2 tạ gạo, bố gắt um lên, bà mua làm gì lắm thế. Mẹ cẩn thận bao giờ cũng lo đến cái ăn trước tiên. “Ông có nhớ năm đói không? Tôi phải tích trữ gạo, nước mắm… kẻo chết đói cả lũ.” Bố lắc đầu, đầu hàng mẹ.

Sáng thứ hai, 28 tháng 4, cả nhà thức dậy sớm hơn thường lệ. Bố hô hào chuẩn bị hành lý. Túi lớn túi nhỏ, bóp ví đã đặt ở đầu giường từ đêm qua để khỏi quên. Trời nắng rất đẹp. Trong nắng có một cái gì long lanh mà buồn hiu hắt. Có ai vừa bật cái máy hát, lại nhạc họ Trịnh, giọng Khánh Ly ngân nga, sướt mướt: “Người con gái Việt nam da vàng, yêu quê hương như yêu đồng lúa chín…” Mấy chị gánh hàng rong đi ngang, mẹ gọi mua mỗi người một gói xôi và chén đậu hũ đường. Không ai nuốt được, bảo không đói. Hàng xóm đi lại thơ thẩn, thản nhiên như thường ngày. Vài người nhìn chúng tôi tò mò, dò hỏi. Gia đình Bắc kỳ này lạ lùng, làm cái gì cũng kín kín mở mở, ít ai hiểu. Mà chẳng ai thèm quan tâm đến chuyện người khác trong lúc này. Có ai biết chuyện gì ghê gớm đang xảy ra không? Ðời sống vẫn đang tiếp diễn. Chiến tranh kẻ thù ở nơi khác, ở đây chỉ có giá vàng là tăng, bến tàu thì nhộn nhịp khác thường, và ngư phủ ra giá từng khoang tàu bằng những cây vàng. Tôi cảm thấy có điều gì bứt rứt không yên. “Em chưa thấy quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam…”

Lại dấy lên ý nghĩ so sánh giữa đi và ở. Tội nghiệp họ hay tội nghiệp mình? Có biết ai may mắn hơn ai? Ðám con nít chạy chơi rông ngoài đầu ngõ, trường cho nghỉ học cả tuần nay vì biến động thời cuộc.

Chiến tranh đã mò về tới thị xã du lịch miền biển này. Vũng Tàu mà cũng đi chạy giặc là đánh tới đít rồi. Việt cộng vào sẽ không tha một ai. Ông Hùng là nằm vùng đó, ổng biết hết ai tẻ ai nếp… Những lời truyền miệng hoang mang. Sôi động khắp nơi, thày cô nhớn nhác, hiệu trưởng bù đầu với đám tị nạn thời cuộc lếch thếch, rách rưới, gồng gánh từ Ðà Nẵng vào chiếm ngụ hết cả nhà trường. Họ nằm ngổn ngang, lều chõng la liệt, nấu nướng giặt giũ giống cái trại tị nạn. “Ðàn bò vào thành phố, không còn ai hỏi thăm… Ðàn bò tìm dòng sông, nhưng dòng nước cạn khô…” Cái máy lải nhải, đĩa nhựa đứng tại chỗ không nhảy qua vòng khác được. Rồi người bỗng thấy buồn… Rồi người đã thấy buồn.

Chiến tranh thảm khốc ở đâu đâu chẳng biết, ở đây, tôi nhìn thấy hậu quả. Chiến tranh chính là mi đấy ư? Ôi quê hương  đã lầm than sao còn chiến tranh? Mười giờ sáng, xe lam tới đậu trước cửa nhà, bố chạy ra bảo chờ. Ðại gia đình nhà tôi tất cả 20 người đã tề tựu từ mấy hôm trước. Ðã sẵn sàng cả rồi. Bố dặn túi xách của ai người nấy mang. Trong túi, ai cũng có một số tiền mẹ phát “để dằn túi”. Tôi vẫn còn một bó nhỏ, gài kim băng cẩn thận. Mới tiêu hết có vài nghìn, tiền ăn hàng, mua mấy tập truyện và một đôi dép mới. Tôi mua mấy cuốn Tuổi Hoa đỏ và tím là mấy loại tôi thích nhưng vẫn chưa động tới. Có gì trong nắng mà nhớ…

Nắng lung linh nhảy múa, buổi trưa nóng gắt. Tôi bỗng hoảng hốt nhìn quanh quất, linh tính lần cuối cùng nhìn khung cảnh căn nhà quen thuộc này. Con mèo tam thể chạy đến gạ gạ dưới chân, tôi bồng nó lên vuốt nhè nhẹ. Thôi ở lại nha mèo, sao hôm nay mày nhiều tình cảm thế này. Con Mướp cũng tới meo meo đòi nựng. Tôi vẫn cưng Tam thể hơn vì nó nhu mì, mắt nó trong veo, lim dim nhắm nghiền. Mẹ dục, rồi đẩy tôi lên xe lam ngồi trước cạnh ông tài. Nhìn lại con ngõ một lần cuối, tôi cố thu hết hình ảnh.

Ðến Cầu Ðá chuẩn bị xuống ghe, mẹ khóc, vai mẹ rung nhè nhẹ. Ông anh thứ vẫn còn kẹt ở đơn vị chưa về kịp. Mẹ nói bố chờ đến tối xem anh có về kịp, bố gạt đi bảo không thể chờ, nó lớn tự lo đường đi sau. Bến tàu đông nghẹt người, người ở đâu ra nhiều thế? Trên mặt ai cũng lộ hoang mang, hoảng hốt điều gì. Ghe tàu đủ loại đậu kín các bãi. Bến đậu bẩn thỉu, hỗn loạn, bát nháo. Người ta chen lấn, giành giật, chửi rủa nhau vì không được mang gà vịt, chó, xe honda, tủ lạnh xuống ghe. Nhìn ra biển, tôi thấy lo. Nếu đắm tàu, tôi sẽ níu ai, ai có thể cứu tôi. Lần đầu tiên đi biển trên một chiếc ghe, tôi bỗng thấy khiếp. Tôi không thể bơi, và Biếc thì sợ nước giống con mèo Tam thể. Thuyền chòng chành, ruột gan bắt đầu nhộn nhạo. Chạy một đoạn thì tấp vào một tàu đánh cá lớn, đây là tàu bố tôi mua chỗ do bác Gián môi giới thu xếp.

Sóng lớn, ghe trồi lên dập xuống. Chân tôi mềm oặt không có điểm tựa, tôi cố trèo lên tàu. Người trên thì kéo, ngừơi dưới thì đẩy, ngón tay tôi bị kẹp dập tím, đau điếng. Trên tàu đã chật ních người, ngột ngạt mùi tanh lợm của cá chết và gây gây nặng mùi mồ hôi của mấy gã đánh cá. Sóng lớn, gió nóng và rát bỏng, mặt ai cũng đỏ gay vì say nắng, say sóng. Ðầu mơ màng, tôi ói tận mật xanh. Tôi thiếp đi một giấc dài, tỉnh dậy thấy trời đã tối mịt. Mênh mông trời nước. Một rừng ghe tàu đông nghẹt trên mặt biển, nhấp nháy đèn dầu sáng lung linh như một thành phố nổi. Phía xa, những đốm sáng của những chiếc tàu lớn đen ngòm, lừng lững một góc trời.

Ðệ thất hạm đội Mỹ đó, người ta đang bàn tán, chỉ chỏ. Bụng cồn cào, buồn nôn vì mùi tanh tanh, mùi muối mặn, gió nồng… Tôi nhịn tiểu đã gần một ngày, người bứt rứt khó chịu. Mệt lả, lịm đi không còn cảm giác, không muốn ăn uống, tiêu tiểu như bình thường… Mồ hôi ra rịn ướt, chất cặn trong người thải ra đỡ khỏi tiểu. Biếc ôm khư khư cái túi vải, không biết có gì quí mà ôm chặt không rời, Biếc ngủ gục trên cái túi đó. Tôi gặm một miếng bánh mì cứng như khúc củi, miệng khô rát, đắng ngắt. Chúng tôi ở trên ghe đánh cá đã 2 ngày đêm rồi, tàu cắm neo một chỗ, tay chân tôi tê điếng vì gò bó không nhúc nhích được. Sáng nay, tôi và Biếc phụ họa với chị Cả đòi vào bờ. Mình cứ đậu đây hoài sao, để làm gì chứ, quay về đi bố ơi. Bố quát bảo im miệng, con nít biết gì…

Giữa đêm có tiếng nhốn nháo, mọi người chồm ra tàu nhìn xuống. Một chiếc ghe nhỏ táp lại gần, nhao nhao đòi lên. Ông Biên chủ tàu quát lớn: “Không cho nó lên. Lấy cái chày đâu, đưa tao…” Ông ta đập túi bụi vào đầu người đàn ông bận đồ lính thủy quân lục chiến. Hắn nhảy được lên tàu, mắt long sòng sọc, hắn rút khẩu súng lục, lên đạn, bắn mấy phát lên trời, rồi chộp ngay một đứa bé ngồi ở mạn tàu. “Ð.M. không cho gia đình tao lên, tao quăng con nhỏ này xuống nước.” Bà chủ ghe hét lớn “Ối, không được đụng tới con tao. Cho nó lên đi, ghe còn chỗ đấy…” Họ kéo nhau lên. Nhiều người lầu bầu chửi, ỷ đi lính có súng giỏi uy hiếp. Mệt và chán nản, không ai thèm quan tâm tới ai.

Chúng tôi nằm chồng chất lên nhau, thiêm thiếp trong mỗi tâm trạng riêng. Có tiếng đọc kinh tối của một gia đình ngoan đạo nào trong hầm tàu, tiếng kinh líu ríu quyện với tiếng sóng vỗ đều đặn. Tôi cố làm quen với những đợt sóng ngả nghiêng, chòng chành, tôi dựa đầu lên lưng mẹ. Ðêm ấy bầu trời trong đầy sao. Tôi nhìn những khoảng trống đen trên biển, cảm thấy lạc lõng. Rồi tôi thiếp đi. Giữa đêm tàu bị sóng động, tôi bị nhồi sóng không ngủ lại được. Nằm thao thức, tôi thấy Biếc thò tay vào túi vải, cái túi cựa quậy.

Tôi kinh ngạc chồm dậy. Biếc ra hiệu cho tôi im lặng. Tam Thể hay Mướp? Tam Thể đó. Nó đòi theo. Ðừng nói cho ai biết nghe. Miu miu, nằm im, ngoan nào. Tôi cười đồng loã với Biếc. Sáng 30 rồi, bố thì thào với mẹ, tay ôm cái radio áp sát tai nghe đài. Mẹ vấn lại mái tóc xổ, nhìn hướng vào bờ, trông ngóng. Núi lớn nổi rõ, sừng sững. Ngọn hải đăng đã tắt ngúm từ bao giờ, mặt trời chói chan trồi lên mặt biển. Tôi choàng tỉnh dậy giữa tiếng nhốn nháo ở đầu ghe. Ông Biên chủ tàu đang quát nạt một người đàn bà. “Không được! Bao giờ có lệnh thì tàu chạy.” Ông Biên hách dịch cắp đít bỏ đi.

Có khói lên từ phía cuối ghe, mùi cơm sôi thơm ngào ngạt. Chắc gia đình chủ tàu nấu cơm cho nhau ăn. Ba ngày nay, gia đình tôi chỉ ăn cơm nắm mẹ bới mỗi đứa một bịch. Ăn cơm nắm với ruốc, vừa mặn vừa khô thật khó nuốt. Cái gì vào bụng cũng muốn tống ra ngay. Tôi thấy ngăm ngăm đau ở bụng, cái đau khác thường lắm. Lòng bàn tay tôi lấm tấm rịn mồ hôi, run run. Tôi ráng nín đau, kềm nó lại. Tàu lại có thêm vài người mới lên. Nắng chói gắt, nóng ghê gớm, mặt trời đã lên trên ngọn núi. Bỗng có tiếng nổ ầm ở mé trái, ngọn nước bắn cao tung toé.

Người nhốn nháo, kêu rú thất thanh. Việt cộng pháo kích, bắn từ trong đất liền ra? Rồi tiếng súng đì đạch phát ra từ những tàu ghe đậu cạnh. Chung quanh tàu ghe đã đậu sẵn từ bao giờ, cả hàng ngàn chiếc ghe đánh cá đầy nhóc người. Tôi run bần bật, níu lấy áo mẹ, sợ như chưa bao giờ sợ. Chưa bao giờ nghe tiếng súng, tiếng nổ to và sát bên tai thế này. Tôi nói mẹ quay vào bờ, thôi không đi Mỹ nữa đâu. Người đàn ông đen thui từ dưới hầm ghe chui lên, mắt đỏ ngầu giận dữ, quát lớn: “Tổ cha đứa nào mang mèo lên tàu! Ði biển mà mang mèo theo là xui tận mạng. Ai? Ð. má đứa nào ngu vậy, tao vặn cổ ném xuống biển…” Mặt Biếc tái xanh không còn giọt máu, tay run cầm cập. Bố chợt hiểu. Bố quay nhìn chị em tôi, nghiến răng trừng mắt giận dữ. Mẹ ra hiệu nín im, không được lên tiếng. Tôi nắm chặt tay Biếc. Con Tam Thể chui ra túi từ hồi nào, chạy rông kêu meo meo nên bọn tài công biết được. Biếc cúi đầu, không dám hó hé. Gã đen đủi xấu xí kia túm được Tam thể, xách cổ nó lên boong, mắt nó ngơ ngác, co rúm vì sợ. Gã rủa, rồi ném mạnh con mèo rơi tõm xuống biển. Biếc rú lên, tôi cấu tay chị. Biếc bụm miệng, rung bần bật. Tôi bỗng thấy cơn giận ập đến, nhoài người ra tàu nhìn theo con mèo hiền lành của mình đang ngụp lặn, ngáp ngáp, dãy dụa trên sóng. Nó quào quào yếu ớt, rồi chìm lỉm, mất hút. Tam thể mọi khi rất sợ nước. Biếc mím chặt môi khóc không thành tiếng. Tối nào nó cũng nằm ngoan ngoãn lim dim trong lòng chị khi học bài. Kẻ thù, chiến tranh, quân địch ở đâu?

Tôi vừa nhìn thấy cái mất mát đầu tiên. Con mèo thân thuộc chìm lỉm làm tôi thấy nhói trong lòng. Cơn đau lại quặn lên từ bụng, nó ngâm ngâm như là… mà không phải, tôi không cần đi ra đầu tàu lúc này… Ðầu tôi quay mòng, nhức khủng khiếp.

Giữa trưa, nắng lên nóng gắt. Tiếng radio của ông chủ ghe mở lớn, át tiếng xì xào nói chuyện, bàn tán, cãi nhau. Ông Biên quát mọi người im lặng để ông nghe đài. Dương văn Minh đã đầu hàng. Thôi, thế là hết rồi. Người ta nhao nhao hét nhổ neo mà chạy thôi. Ðám đàn bà con nít sợ hãi, ré khóc um sùm. Mặc ai nấy khóc, nói, quát nạt, chạy tới chạy lui, bứt đầu bức tóc. Tàu nào chung quanh cũng có cảnh tương tự. Một chiếc ghe lớn đi ngang tông cái rầm vào sườn tàu. Tàu chao nghiêng, tiếng rú thất thanh. Ối lạy chúa, Nam mô a di… Ông Biên hét gã tài công nổ máy, chạy gấp. Ðã có lệnh ra khơi. Ðoàn tàu nhổ neo túa ra biển như những chiếc lá tre, trực chỉ phía hải phận quốc tế. Tai tôi lùng bùng giữa nhiều thứ âm thanh hỗn tạp, tiếng hét, tiếng khóc, tiếng đọc kinh, tiếng súng nổ, tiếng pháo kích, tiếng máy tàu, tiếng trực thăng quạt trên đầu…

Có tiếng bàn tán của những người nhanh miệng trước thời cuộc. Việt cộng đã vào Dinh độc lập. Có người ôm mặt khóc. Làn sóng đài thủ đô đang vỗ tay đánh nhịp: Rừng núi dang tay nối lại biển xa… Dương văn Minh chào mừng người anh em từ miền bắc vào giải phóng. Bố đập mạnh tay vào thành tàu: “Khốn nạn!” Không ai còn lòng dạ nào lắng nghe những lời hát, lời nhạc, diễn từ phát ra từ cái radio ấy. Vài thanh niên đứng lên ngồi xuống, nhấp nhổm trông ngóng ra hướng biển xa. Chúng tôi quay nhìn lại trong bờ, đất liền xa dần, ngọn núi Bãi sau chỉ còn là một chấm li ti ở đường chân trời, thu nhỏ rồi mất hút. Giã từ đất liền, giã từ Việt nam.

 

Chúng tôi đã nhấc chân ra khỏi vùng đất quen thuộc, gắn bó. Tôi chợt nhớ tới một câu trong cuốn sách đã đọc. Chữ quê hương bỗng trở nên lạ lùng, khó hiểu đối với tôi kể từ lúc này.

Chiến hạm khổng lồ xuất hiện. Ghe tàu tị nạn bu quanh như đàn kiến. Tàu Mỹ rất lớn, sừng sững như tòa nhà mười tầng. Chúng tôi tiến về phía đó, mọi người trên ghe la ó, mừng rỡ, tay phất cờ Mỹ và cờ vàng ba sọc đỏ. Có tiếng loa phóng thanh từ trên tàu lớn, người thông dịch viên yêu cầu “đồng bào” lần lượt chờ lên tàu theo trật tự.

Không có gì gọi là trật tự trong giờ phút này, người mất nước bỏ chạy như đàn kiến vỡ tổ. Mạnh ai nấy leo, mạnh ai nấy đẩy, đè đạp lên nhau để trèo lên. Lão Biên ra lệnh cho thân nhân ông ta khiêng vali hành lý của họ lên trước. Lão quay lại nạt nộ bố không được mang theo gì hết, đồ đạc lính Mỹ sẽ mang lên sau. Mẹ đỡ tôi trèo qua được cái xà lan dập dềnh sát cạnh cầu thang lên tàu. Một ngọn sóng lớn trồi lên, xà lan chòng chành, tôi bước hụt chân, tiếng mẹ hét lớn. Bỗng một cánh tay lông lá, rắn chắc khoẻ mạnh của ai vừa nhấc bổng tôi lên. Người lính Mỹ bế tôi lên thang dây, những bậc thang mỏng manh, chòng chành, tôi níu chặt ông ta sợ té. Bụng tôi lại đau quặn, lưng mỏi ghê gớm. Tôi thở ra như sắp đứt hơi. Có cảm giác ẩm ướt chảy sướt, mồ hôi vã ra, bàn tay lạnh ngắt. Ðiều lo sợ kinh hãi nhất trong đời tôi đang xảy đến, trời ơi, không ngờ nó lại là lúc này. Tôi cắn răng, kềm tiếng rên.

Mặt tôi tái nhợt. Trời hành tôi là con gái, tôi than thầm. Không dám rên la hay động đậy mạnh. Những gì “người-lớn” chuẩn bị tinh thần về chuyện hành kinh đầu đời con gái, giờ thấy vô lý hết. Tôi bối rối, sợ và cảm thấy tức giận một điều gì ghê gớm, giận vu vơ. Tại sao lại ngay giờ phút này mà không đợi tháng sau, năm sau? Tủi cực, xấu hổ, tôi ngợp với cảm giác choáng váng, nôn nao, cơn đau càng lúc dồn dập. Gập mình bậm miệng… Ðau này có giống cái đau của đàn bà đau đẻ? Tôi không biết làm sao mình qua được những giây phút khốn khổ đó. Tôi chỉ nhớ, người đàn ông Mỹ đó đặt tôi lên chiếc băng ca lúc vừa lên tàu. Có nhiều người tị nạn đã có mặt sẵn ở đó, có lẽ họ di tản trước bằng trực thăng. Họ nháo nhác tìm gọi người thân từ đám người mới lên. Tôi ngất lịm đi. Vì sợ, hay vì đau. Tôi không thể nhớ.

Lúc ấy chỉ kịp ghi nhận hình ảnh mẹ tôi lếch thếch chạy theo đám người Mỹ khiêng tôi trên chiếc băng ca về trạm y tế. Tôi không nhớ cảm giác đau bụng đó kéo dài bao lâu. Người y tá cho tôi uống một viên thuốc và đưa tôi hộp băng vệ sinh. Hình như mẹ thay cho tôi cái quần khác. Tôi mơ màng, nóng sốt giữa nhiều hình ảnh. Tiếng khóc, tiếng người gọi nhau trên loa phóng thanh, tiếng sụt sịt, tiếng gào, tiếng thở dài… Tôi hỏi mẹ gia đình mình đâu hết rồi. Mẹ dìu tôi leo những nấc thang lên tầng trên, tìm mãi mới thấy cả nhà tôi đã chiếm ngụ một góc. Chị Biếc đưa cho tôi hộp lương khô lính Mỹ vừa phát và một cái ca đựng cơm nấu độn với cá hộp nhão nhét. Tôi ngồi thu mình trong góc chiến hạm. Tôi không thấy đói, không có cảm giác gì rõ rệt lúc bấy giờ.

Người ta đổ lên chiến hạm mỗi lúc mỗi đông, tàu đã chứa cả gần mười ngàn người. Bố tức giận khi khám phá tất cả tài sản, đồ đạc, vali xách tay của gia đình tôi đều bị bỏ lại trên ghe, gã tài công đã bỏ chạy về đất liền. Mấy bà chị của tôi bật khóc. Thôi, thế là mất hết hình ảnh kỷ niệm, cùng những món đồ quí mang theo. Không ai còn quần áo thay, trừ bộ đồ duy nhất mặc trên người. Tôi rờ túi, tiền mẹ cho vẫn còn. Những tờ giấy bạc làm được gì cho hoàn cảnh gia đình tôi lúc này?

Một người đàn ông đầu hói mặc áo vest đen lang thang trên boong, bỗng ông ta ôm mặt khóc thảm thiết. Lúc này, người khóc người cười không còn đánh động sự tò mò chung quanh. Ông ta đi một mình, người ta xì xầm bàn tán. Nghe nói là ông chủ nhà băng, mang được nhiều tiền nhưng không mang được một người thân nào. Người đàn ông cầm cặp táp da, ngồi quị xuống. Ông ta loay hoay mở cặp. Cái nắp bật ra, những tờ giấy bạc văng tung toé, toàn giấy bạc mới tinh. Một cơn gió biển lướt ngang, những mảnh giấy bạc bay như bướm lượn. Ðám trẻ nít nhào tới vồ chộp những tờ giấy. Tiền của Việt Nam Cộng Hòa, giờ vô nghĩa như giấy lộn không mua đổi được gì. Một người thủy thủ Mỹ đi ngang, cúi nhặt một tờ bạc, chăm chú ngắm rồi đút vào túi quần. Ðể làm kỷ niệm. “Một ngàn năm nô lệ giặc tàu, một trăm năm đô hộ giặc tây… Hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ để lại cho con…”

Gia tài của mẹ, một nước Việt buồn. Ðêm 30 tháng 4, biển gầm sóng, chúng tôi nằm lăn lóc trong góc tối của chiến hạm. Tương lai về đâu. Ðất liền ở đâu. Những chòm sao đêm vẫn bình thản ngó. Tôi ứa nước mắt, nằm quay mặt vào trong vách. Cơn đau hành kinh của tuổi 13 đã xảy đến đúng cái ngày oan nghiệt. Không biết gọi điều nào là biến cố lớn trong đời tôi. Rồi cứ đến mỗi tháng, khi cơ thể trở mình theo chu kỳ con gái , tôi sẽ lại đau cái đau ngất ngư này. Cơn đau ngấm ngầm của một đổi thay, ùa vỡ. Tôi ghét tôi, tôi ghét thân phận mình trong một đất nước Việt nam đã sinh ra tôi, để phải tủi cực bỏ nó ra đi trong một ngày kinh hoàng nhất. Tôi khóc vùi trong lòng mẹ. “Dạy cho con tiếng nói thật thà, dạy cho con chớ quên màu da, ôi nước Việt xưa…”./.

Viết cho tháng 4 đã 30 năm. Texas, 21 tháng 2-2005

Phạm Chi Lan