BA TÔI – KHÓC CƯỜI VỚI SỐ MẠNG
Chấp vá đôi ba mảng vụn thật của một đời
người, phần còn lại của câu chuyện, bối cảnh, nhân vật, tình tiết được hư cấu,
tưởng tượng
Viết thay cho một người
Ba tôi, tôi thật
tình không biết phải nói sao về ông, thật vậy, tôi không biết ông bà nội là ai,
ở đâu, nghèo giàu thế nào, ba tôi cũng chưa bao giờ nói với tôi điều đó và tôi
cũng chưa lần nào hỏi.
*
Lớn một chút, tôi biết
thêm một chút, ba tôi gốc người Chợ Lách, có một người chị mà tôi kêu là cô ba,
bà có tiệm vải lớn đầu chợ quận, ông còn căn nhà ngói âm dương, có cái vườn sau
rộng với chừng mấy chục cây dừa, mấy chục cây cau, hai ba cây xoài, cây bưởi, bao
quanh cái hồ nước đầy bèo và bông súng, cách bên nhà bà cô một con rạch nhỏ, nghe
nói là do ông bà nội để lại, nói để lại cho ông nhưng thật ra, ông đã bỏ đó đi
lang thang tứ xứ, từ Cai Lậy, Mỹ Tho, Long Xuyên Châu Đốc, Môc Hóa Bạc Liêu tới
miền cao Phước Long Bà Rá, Hớn Quản Ban Mê Thuộc Tuy Hòa, lâu lắm năm khi mười
họa mới ghé về, cho nên căn nhà và miếng vườn được anh năm, con của bà cô trông
nom, săn sóc cây trái, tới mùa hái, bán cho người ta, chợ xã chợ quận, chợ tỉnh.
Tôi không nhớ là
mình có mặt trong gia đình này từ bao giờ, cho nên chưa biết cái thuở nằm nôi của
mình ra sao, tiếng ru, võng đưa kẻo kẹt như thế nào và đã khóc chào đời có giống
tiếng khóc của trăm ngàn đứa trẻ khác hay không, Nói ngắn gọn hơn, cái tuổi thơ
đầu đời của tôi không có gì cả trong ký ức
của mình và hình như trong suốt chuỗi ngày lớn lên, tôi không cảm thấy có gì là
nhớ. Tôi là đứa con duy nhất, gọi là con một, năm tôi ba bốn tuổi, biết đi biết nói thì ba má tôi đã trên
dưới bốn mươi lăm. Giang hồ phiêu bạt tứ xứ rồi không biết vì sao, ông mỏi gối dừng
chân xứ này, phải lòng cô gái Trâm Vàng, má tôi đó, ở đó một thời gian, ông
quen chân, đi về quanh vùng, rồi tới Hiệp Thạnh này, vào làm cho công ty người
Pháp, một công ty lớn, chủ mấy đồn điền cao su, rộng khắp một vùng, sâu vào tới
tận Cầu Khởi, Khiêm Hanh.
*
Ông bà dọn lên Hiệp
Thạnh, mua căn nhà căn nhà mái tôn, tường gạch cũ, bên đường từ ngã ba vô, cách
khu cư xá công ty chừng đâu đó nửa cây số. Từ nhỏ, tức là từ những ngày lên ba
lên bốn, tôi biết bên ngoại nhiều hơn là bên nội, vì cứ một hai tháng ba má,
đón xe đò, dắt về nhà ngoại, bà con giòng họ ngoại ở quanh bên nhau, nhà này
cách nhà kia không mấy xa, con đường đất mịn chạy quanh chạy co rồi cũng lòng
vòng trở lại. Ngoại nghèo hơn hết, chị thứ hai trong mấy người, nên má tôi cũng
là chị hai của con mấy ông cậu bà dì khác, má tôi còn người em, cậu ba, còn ở với
ngoại. Cậu ba kém may, bị tật quẹo một khúc tay trái và chân khập khiểng, cái
thấp cái cao, cậu lủi thủi trồng trọt dưa cà, rau cải, ớt hành quanh nhà, liếp
nào cũng xanh mát. Mỗi lần về ngoại, tôi còn nhớ tôi mặc áo ba túi tây và quần
sọt cùng màu xám đậm, mang giày da ngon lành, ngồi xe lôi kéo, chở bao gạo và mấy
thứ đường muối linh tinh rồi thêm mớ tiền đưa ngoại xài, xe lôi chưa vô tới sân
thì tôi đã lớn gọi ngoại ơi ngoại hởi. Ở chơi gần tới chiều mới ra đường cái,
đón chuyến xe đò lỡ chót về lại Hiệp Thạnh
Ba tôi làm thư ký
quèn, cho một công ty của người Pháp, có trụ sở chính ở bến Chương Dương dưới
Sài Gòn, chuyên lo việc nhận giấy tờ, thư từ, từ trụ sở chính gởi lên hàng tuần
bằng xe của công ty, nhận tiền hàng tháng do máy bay loại nhỏ chở lên, thả xuống
cái sân rộng trong khu cư xá mà ông giám đốc Tây và nhân viên công ty cùng gia
đình ở, khu cư xá này rộng lắm, có hàng rào cao hơn hai tầng lầu, dầy đặc song
sắt, nằm cuối ngã ba chợ xã, bên bờ sông lớn, ông chờ mang vào văn phòng, kiểm
lại đầy đủ số tiền như đã ghi theo giấy tờ, rồi giao lại cho bác phụ trách phân
phối tiền cho các sở, từ đó phát lại cho công nhân, trong số những chú bác nhân
viên ở đó, ba tôi là người được ông giám đốc Tây thích và thường gặp hỏi cái
này cái kia, chỉ vì ba tôi nói và viết tiếng Pháp không thua gì ổng và nhất là
ba tôi có thời đã làm giám thị ở các đồn điền miệt Xa Cam Hớn Quản, Lai Khê,
cho nên có chuyện gì về cao su, ông kêu ba tôi ngay.
*
Tôi không biết ba
tôi học trường nào, học tới đâu, vì chưa bao giờ nghe ông nói, nhưng có một điều
chắc chắn là ông rất giỏi tiếng Pháp, giỏi từ nói tới viết, không thua một ông
Tây nào. Nhà tôi, trong ngăn trong dưới của tủ thờ giữa nhà, chất đầy các bộ
truyện Tàu, từ Thủy Hử tới Đông Châu Liệt quốc, Tam Quốc Chí tới các truyện của
Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương, Bình Nguyên Lộc, nằm ở đó nhưng ít khi thấy ông đọc,
má tôi thì cũng chưa thấy bà đọc cái gì, nên tôi chẳng biết cũng bà có đi học hay không, thật tình tôi cũng
không màn biết tới.
Từ nhỏ, ba tôi dạy
tôi biết đọc biết viết trước rành rẻ nên vào trường tiểu học xã tôi học ngay lớp
tư, nhảy lớp năm. Ông dạy tôi chút ít tiếng Pháp từ lúc đó, tôi có thể nói năm
ba chữ, sáu bảy câu thường qua lại với ông, nhớ có lần ông dắt tôi theo ăn tiệc
sinh nhật của bà vợ ông Giám đốc trong
cư xá, gặp bả tôi chạy ngay lại, bà đưa tay bắt tay tôi cười, tôi nhanh miệng
chào bằng tiếng Pháp “Chào ông”, bà cười ngặt nghẽo “không, không.
chào bà” rồi ôm hôn tôi mấy cái, ông Giám đốc cùng ba tôi cũng cười theo.
Tôi còn nhớ, lúc này ba tôi độ chừng một hai năm thì ông về Chợ Lách, ngày sắp
đi tôi đòi theo, ông bắt tôi phải học thuộc cả một lô chữ tiếng Pháp, từ cơ thể
người ta, đầu mình tay chân tới đồ đạc trong nhà, cái bàn cái ghế, trước khi
đi, tôi đọc cho ông nghe, quên vài chữ không sao, ông hài lòng, ôm tôi xoa đầu
không nghỉ. Cũng nhờ ba tôi dạy mà sau này, tiếng Pháp đã giúp tôi học hành kha
khá trên đại học.
Thời hồi còn Tây
cai quản ở Sài gòn, chồng của người dì ba, con gái của bà dì, em thứ năm của
ngoại, muốn làm cảnh sát. Ông dượng này học ít, tiếng tây lõm bõm được ba tôi,
khi về Trâm Vàng, dạy thêm ba mớ nhưng viết thì còn lạng quạng, dượng muốn đi
lính cảnh sát Tây, nhờ ba tôi viết đơn xin vô, rồi dượng đem xuống Sài Gòn nộp.
Vài ngày sau, quan sếp cảnh sát kêu dượng tới, không cho biết là cho hay không
mà hỏi ai viết thư xin việc đó, dượng tình thật thưa là ba tôi, ông quan gật gù
bảo, về kêu ba tôi tới đây, cho ông ta nói chuyện. Gặp ba tôi, quan sếp tây, mới
mấy câu mở đầu đã không chần chừ cho dượng tôi làm và kêu ba tôi vô cảnh sát
luôn, quan sếp sẽ sắp cho ông làm chức lớn gì đó. Về nhà, khi dượng tôi vào
làm, ba tôi nhắn với quan sếp Tây, cám ơn nhưng không thích nghề này. Sau này
dượng ba hình như làm tới chức phó trưởng ty cảnh sát của một quận nào đó ở Sài
Gòn, tôi còn nhớ lần xuống ở nhà dượng, đi thi vào trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc
thì buổi sáng, dượng lái xe jeep chở tôi tới chỗ thi, rồi cho một anh cảnh sát
khác tới rước về bằng xe ‘vét pa”. Ba tôi vẫn như cũ, cũng cứ là một viên thư
ký quèn không hơn không kém nhưng xem ra ông rất yêu đòi, không thấy ông buồn
phiền gì hết.
*
Lúc còn ở Trâm
Vàng, chưa lên Hiệp Thạnh, ba tôi hùn vốn với ông bạn dưới Trãng Bàng, mua xe
đò lớn chạy đường Sài Gòn Vũng Tàu, thời đó là thời quân Bình Xuyên của ông Bảy
Viễn kiểm soát vùng Vũng Tàu Bà Rịa, xe chạy êm xuôi trót lọt mấy chuyến, khách
khá đông, cũng chạy giành khách trên đường với mấy xe khác, ba tôi theo xe thâu
tiền, người tài xế và anh lơ là cháu của ông bạn.
Một ngày xế trưa, khi
xe vào tới bến ở Vũng Tàu đâu đó, ba tôi cùng hai người kia đang dọn dẹp trong
xe để đi ăn như thường lệ, thì có một tốp lính Bình Xuyên súng ống lăm lăm tới,
hỏi chủ xe, ba tôi nhận, họ bảo có lệnh bắt ông vì tội dám giành giựt khách đi
đường với xe của Bình Xuyên, ba tôi cũng không ngờ, vì từ khi theo xe ông đâu
biết xe nào của Bình Xuyên đâu, họ thúc ké ông, dẩn đi, anh tài xế cũng như anh
lơ đứng mặt mài tái mét, ngồi trên xe như trời trồng, nhìn theo không biết làm
cái gì bây giờ, tốp lính Bình Xuyên dẩn ông đi về hướng Bải Sau.
*
Họ nhốt ông tại một
căn đầu dãy nhà tường, vài ba anh lính khác đi qua đi lại ngoài sân, trong căn
nhà có cái giường cây cũ suôt đêm đó, sáng sớm hôm sau, chừng năm giờ, trời còn
sương mờ, hai anh lính Bình Xuyên, ông bị trói thức ké như hồi bị bắt ở bến xe,
trên đường dẫn ông ra bải biển, thì một người từ dưới bải đi lên, quần xà lỏn,
choàng cái khăn tắm trên vai, chắc vừa tắm lên đi tới, người này lên giọng, bảo
đứng lại, xem ra cấp chỉ huy, hỏi chuyện gì đây, một trong hai anh lính trã lời,
dạ đem đi xử bắn vì dám giành khách xe đò với xe mình, người chỉ huy hất hàm để
anh ta coi.
Mặt trời vừa có
chút hé hồng lên từ đường chân trời ngoài biển, có thể nhìn thấy mặt nhau. Ba
tôi thở dài thôi chắc phen này không sống rồi, anh chỉ huy bổng dưng đứng sửng,
nhìn ông “anh tư Bền phải không “ anh gằn giọng một lần nữa “phải anh
tư Bền không?”, ba tôi nói thầm “thôi chắc chết thiệt rồi”. Hai anh
lính vẫn còn đứng chờ, anh chỉ huy tới gần hơn, nắm tay ba tôi “anh tư, thằng
ba Chẩn đây, anh hổng nhớ sao, thằng ba Chẩn đây”, anh quát người lính, cổi
dây ra mau “đây là anh tao, đứa nào đụng tới ảnh thì chết với tao nghe chưa”,
hai anh lính dạ dạ rồi đứng lùi xa ra chờ. Anh chỉ huy đi song đôi với ba tôi
lên dãy nhà hồi nãy, anh ta quay lại ra lệnh, ra bến xe đưa hai người của anh
tư vô đây, hai anh lính dạ một tiếng lớn rồi nhanh chân bỏ đi, mặt trời lên rực
nắng, lấp lánh trên mặt biển, nước biển một màu xanh biên biếc. Vừa đi, vừa lén
nhìn mặt anh ta, ba tôi lặng thinh, anh ta nói gì, dáng bộ phân bua với ba tôi
nhiều lắm, ông chợt nhớ và nhận ra, vết thẹo trên má trái của anh chỉ huy, đúng
là “thằng ba Chẩn’ mà ông đã gặp nhiều năm trước, lâu rồi.
*
Hồi đó, lang bạt tới
Cai Lậy, mùa dưa hấu, ghe xuồng tấp nập vô ra bến sông, trời chắc cũng lưng lửng
sáng, ngồi trên quán cơm, chưa đông người, nhìn xuống, thiên hạ hò hét bu quanh hai chiếc
ghe tam bản chất đầy dưa hấu, tò mò đi xuống, hai ba người đàn ông đang vây
đánh một anh thanh niên, túi bụi, có cả dao cả rựa, anh thanh niên thế cô chống
đở, nổi máu bất bình, vốn có chút võ nghệ cao, ông xắng tới, vừa đánh trả che
cho anh thanh niên, thế võ gì đó của ông đã hạ gục mấy người kia, đầu cổ máu me
không thua gì đầu cổ của anh thanh niên, ba tôi lấy mấy cái dao, cái rựa quăng
xuống sông, đở anh thanh niên dậy, dìu lên bờ, ông cổi áo thun, thấm nước lau mặt
mài anh cho bớt máu, có cái vết thẹo sâu cũ bên má trái.
Hỏi ra cớ sự thì biết,
họ đánh anh ta vì anh giành người mua dưa hấu của họ, lên quán cơm, anh tỉnh lại,
hai người hỏi qua lại quê quán tuổi tên, ba, anh tư Bền, anh ta, thằng ba Chẩn,
và cũng từ hôm đó, suốt mấy hôm ở Cai Lậy, bên chợ đều một tiếng hai tiếng anh
tư chú tư Bền nể nang. Hai người cà phê cơm nước tới chiều, chiếc ghe của mấy
người đánh anh ba Chẩn, hình như cũng bán được dưa, đã rời đi từ lâu, ghe dưa của
anh ta cũng có người mua mảo hết, anh bịn rịn chia tay ba tôi , xuống ghe chào,
hẹn còn có dịp gặp lại, sẽ không bao giờ quên cái ơn cứu tử này, đứng trên bờ
nhìn xuống, anh ba Chẩn lui ghe ra sông, vẫy tay mà nước mắt rưng rưng, ba tôi
không gặp lại anh ta từ đó.
*
Anh tài xế và anh
lơ cũng vừa vô tới, anh ba Chẩn, mời họ ngồi, hỏi han đôi ba câu, ba tôi mĩm cười
nhìn, “người quen, không có gì đâu”, nghe ba tôi nói mà sắc mặt vẫn còn
lo sợ. Trời đã trưa, anh ba Chẩn đưa ba tôi và hai người phụ xe ra một tiệm cơm
ngoài bải Trước, cơm trưa xong, đưa ba người ra bến xe, từ giã, anh ôm lấy ba
tôi thật chặt “em coi vùng này, xe anh cứ chạy thoải mái, em ra lệnh rồi, ai
đụng tới anh thì có em ngay”. Xe chạy đi rồi, ngó lại anh ba Chẩn còn đứng
đó. Khó lòng bình an lần sau, cái may không đến hai lần, trong thời buổi nhiểu
nhương này, ba tôi quyết định bán xe và không làm nghề này nữa.
*
Năm tôi lên năm đầu
trung học, ba tôi lại hùn hạp với một ông bác bà con xa bên ngoại, là nhà ba
tôi gởi ở trọ học, mở cái xưởng cưa máy ở ngoại ô tỉnh lỵ, chuyên cung cấp cây ván cho mấy người
thầu xây cất nhà cửa khắp trong tỉnh, công việc xuôi chèo mát mái mấy tháng đầu,
sắm thêm xe chở hàng cho khách, không những mấy người thầu mà ai muốn tự dựng tự
sửa nhà đều tới mua ngay xưởng hay đặt trước, công nhân chừng mươi người, làm
ăn đàng hoàng, vui vẻ. Đùng một cái, không biết vì đâu, xưởng cưa bị cháy,
thiêu rụng cả máy móc, cây ván cưa cắt sẳn cho khách, ngay mấy cái xe chở cây
cũng hư hết phân nửa. Ba tôi và ông bác không biết nói gì hơn, lắc đầu chịu trận,
tôi nghiệp mấy người công nhân, giờ phải đi tìm việc khác, ba tôi và ông bác
gom góp tiền tặng cho họ một số ít gọi là lộ phí chia tay. Với ba tôi, nói trắng
tay thì không hẳn vì ông vẫn còn làm việc cho công ty Pháp ở Hiệp Thạnh, còn số
tiền lương hàng tháng như những năm tháng qua. Năm sau, bà ngoại mất, chôn
trong miếng đất chung của giòng họ, cậu ba không có vợ, còn lại một mình, lo
chuyện mồ mả, ba tôi ít khi về Trâm Vàng, má tôi về thường hơn sau ngày đó, tôi
học trên trường tỉnh và cũng lớn bộn rồi, thỉnh thoảng một vài lần theo bà,
thăm cậu ba vậy thôi, và cũng ít khi gặp mặt đám con của cậu dì, họ cũng vậy, gặp
nhau ngoài đường chưa chắc nhận ra nhau.
*
Đồn điền sao su của
nhà bị hư hại gần hết phân nửa, đồn điền này ba tôi mua lại đất của ai đó, cũng
được mười mẫu hơn, nằm xa xa bìa ranh nội ô tỉnh lỵ, cách núi chắc cũng nửa tiếng
đường xe chạy, nhờ số tiền phụ giúp của ông Tây giám đốc công ty thêm, ba tôi
đi về săn sóc lo từng hột giống, cây ươn, bón phân nhổ cỏ suốt hơn năm năm trời,
từ ngày cây con mới nẫy mầm, vừa bắt đầu khai thác với ba bốn người làm phụ,
xem ra êm xuôi, đùng một cái trận chiến chận Bắc quân tiến vào tỉnh lỵ, lúc gần
đây cuộc chiến dai dẳng từ mấy năm qua đã lan rộng và có phần khốc liệt hơn,
máy bay oanh tạc của VNCH đã dội bom cũng như xe tăng, cày nát đồn điền sau mấy
ngày đụng trận.
Cầm cái đơn cùng
vài giấy tờ chứng nhận khác của làng xã, tờ đơn khiếu nại về sự việc xãy ra đưa
cho dì sáu, vợ của cậu sáu, con ông cậu bảy, em của ngoại, nhờ cậu lên tiếng,
giúp cho sớm có tiền bồi thường. Cậu sáu, tôi gặp hai ba lần khi về nhà bà ngoại,
cậu có người con trai lớn, học cùng lớp và bằng tuổi tôi ở trường quận, nhưng
chưa lần nào nói chuyện nhiều ngoài năm ba câu chào hỏi, vậy thôi. Trước đây cậu
làm thư ký ngoài văn phòng quận, hiện tại thì cậu đang là dân biểu tại quốc hội trong ủy ban gì đó.
Dì cầm mớ giấy tờ, lẩm
bẩm đọc rồi nhìn tôi, tôi mĩm cười chờ. Dì không cười giọng hơi gắt, có vẻ
không muốn nhận hay sao đó, dì nói ba tôi không biết gì hết, làm lộn xộn, mệt
cho cậu sáu, vốn không có thiện cảm với dì từ lâu, khác với tình cảm thân mật của
tôi với mấy dì khác, con bà dì năm, tôi không nhịn được đáp trả, dì chữ nghĩa tới
đâu, chưa đầy lá mít mà dám xúc phạm ba tôi, dì có biết ai dạy chữ cho cậu sáu
bao nhiêu năm, ai đã làm cho cậu đắc cử chức vụ dân biểu này không, tôi bỏ đi
ra cửa, quay lại, dì đứng nhìn theo, giận như nãy, nói lớn cám ơn, dì muốn làm
gì đó thì làm, rồi bước nhanh ra khỏi nhà.
Về chuyện cậu sáu đắc
cử, chính ba tôi là người đi vận động, nói chuyện với mấy trăm công nhân đồn điền
Tây, và người dân mấy xã chung quanh cũng như bạn bè tại quận lỵ, hết ngày này
qua ngày kia trước ngày bầu cử, điều này, cậu sáu biết rành hơn ai hết, cho nên
từ đó khi ba tôi cần giúp, cậu sẳn sàng làm ngay. Mấy ngày sau đó, khi từ Sài
Gòn về thăm nhà, lúc này tôi đang học năm đầu đại học, ba tôi cho biết, nói mà
cười, dưới nhà ngoại, dì sáu đi than phiền với bà con chung quanh, là tôi hổn
hào, mắng miết dì, không biết phép biết tắt gì cả, vậy thôi.
*
Gom góp chút vốn liếng
còn, ba tôi mướn người, cũng những người công nhân cũ dọn dẹp, phát quang cây cỏ,
sứa lại nhà máy, giếng nước của đồn điền, làm lại từ đầu. Ông không nói gì về kết
quả bồi thường nhờ cậu sáu lo giùm, không nghe ông nhắc tới, ông vẫn đi về, vẫn
còn làm cho công ty Tây như cũ, trên đồn điền giờ có một chú người Bắc, hiền
lành vui vẻ, từ đâu đó ở Bình Long về thay ba trông coi mọi thứ nên ba tôi
không bận rộn lắm. Chú này vốn là phu cạo mủ ở Hớn Quản thời ba tôi còn làm
giám thị ở đó, không có tiền đóng thuế thân thời Tây, không vợ con, trốn chui
trốn nhủi, thấy tội nghiệp, ba tôi đóng cho rồi đem chú về ở chung nhà, sau khi
ba tôi nghỉ làm, chú muốn theo nhưng ông vẫn còn giang hồ đó đây nên hai người
chia tay, chú khóc sướt mướt, ba tôi cũng quên dần chuyện cũ.
Công việc vừa tạm
yên, qua Tết năm đó, vào hè bải trường thì má tôi mất, vì bệnh xơ gan có từ trước
tái phát, công ty chở bà xuống nhà thương Saint Paul dưới Sài Gòn, bà nằm đó, vợ
chồng ông giám đốc vào thăm hỏi ba bốn lần, nhưng cũng đành thôi, bà không qua
khỏi. Xe công ty đưa bà về làm đám tang ở Hiệp Thạnh rồi đem về chôn bên cạnh mộ
bà ngoại ở Trâm Vàng.
*
Cuối năm thứ ba đại
học, ba tôi nghỉ làm, dọn hẳn về trên tỉnh, ông bán căn nhà ở Hiệp Thạnh, tiền
ông cho cậu ba, em má tôi. Ngày cuối ông tới từ giã vợ chồng ông giám đốc Tây
thì cùng lúc đó họ cũng đang chuẩn bị về nước nay mai, ba tôi ở lại với họ thật
lâu, ra về ông giám đốc Tây đưa cho ba tôi cuốn sổ tay nhỏ, có ghi địa chỉ bên
Pháp, ở Ba Lê, và một số chi tiết gì đó, dặn khi cần có thể thư cho ông biết.
Chiến cuộc bây giờ lớn
hơn, ác liệt và trận chiến bùng lên khắp mọi miền, tiếng súng tiếng pháo nghe gần
hơn, thường hơn đêm cũng như ngày, đường xá đi lại không còn dễ dàng như trước,
đồn điền nhà tôi có ngày làm có ngày nghỉ vì những cuộc hành quân của quân
VNCH, ba tôi xem ra có phần buồn nản, suốt những năm khôn lớn, đây là lần thứ
hai thấy ông buồn, lần đầu tiên là ngày má tôi mất.
Cuối tháng ba, tình
hình chiến sự trở nên quyết liệt, một số tỉnh địa đầu giới tuyến, miền trung rồi
tới cao nguyên lần lượt mất, quân VNCH triệt thoái, thối lui, chống đở nhưng
xem ra không thành công, các nơi còn lại và cả Sài Gòn hoảng loạn nghẹt thở. Ba
tôi mất vì bệnh đau bao tử quá nặng, dù trước đ ây đã được cắt bớt, sau mấy hôm
nằm nhà thương tỉnh, trước ngày tôi chuẩn bị thi ra trường. Đám tang trên tỉnh,
chú người Bắc thay tôi lo, mặc dù tôi có mặt, bạn bè không còn mấy ai, nhưng
công nhân nhiều lắm, nhất là công nhân của công ty cao su Pháp trước kia, có tiếng
khóc sụt sùi và tiếng gọi tên ông da diết.
*
Tôi đưa ba về chôn
bên cạnh mộ má, gần ngoại, cũng như lần đứng trước mộ má, cuối đời người, ông
bà bôn ba mưu sự rốt cuộc, không được gì, chỉ có được một vành khăn tang trắng
duy nhất là tôi, và tôi chỉ là một đứa con nuôi.
Thuyên Huy
Mt Dandedong - Buồn cho một kiếp người 2025

No comments:
Post a Comment