Tuesday, April 22, 2025

Ba Tôi - Khóc Cười Với Số Mạng - Thuyên Huy

 

 BA TÔI – KHÓC CƯỜI VỚI SỐ MẠNG

Chấp vá đôi ba mảng vụn thật của một đời người, phần còn lại của câu chuyện, bối cảnh, nhân vật, tình tiết được hư cấu, tưởng tượng

Viết thay cho một người



 


   Ba tôi, tôi thật tình không biết phải nói sao về ông, thật vậy, tôi không biết ông bà nội là ai, ở đâu, nghèo giàu thế nào, ba tôi cũng chưa bao giờ nói với tôi điều đó và tôi cũng chưa lần nào hỏi.

*

   Lớn một chút, tôi biết thêm một chút, ba tôi gốc người Chợ Lách, có một người chị mà tôi kêu là cô ba, bà có tiệm vải lớn đầu chợ quận, ông còn căn nhà ngói âm dương, có cái vườn sau rộng với chừng mấy chục cây dừa, mấy chục cây cau, hai ba cây xoài, cây bưởi, bao quanh cái hồ nước đầy bèo và bông súng, cách bên nhà bà cô một con rạch nhỏ, nghe nói là do ông bà nội để lại, nói để lại cho ông nhưng thật ra, ông đã bỏ đó đi lang thang tứ xứ, từ Cai Lậy, Mỹ Tho, Long Xuyên Châu Đốc, Môc Hóa Bạc Liêu tới miền cao Phước Long Bà Rá, Hớn Quản Ban Mê Thuộc Tuy Hòa, lâu lắm năm khi mười họa mới ghé về, cho nên căn nhà và miếng vườn được anh năm, con của bà cô trông nom, săn sóc cây trái, tới mùa hái, bán cho người ta, chợ xã chợ quận, chợ tỉnh.

   Tôi không nhớ là mình có mặt trong gia đình này từ bao giờ, cho nên chưa biết cái thuở nằm nôi của mình ra sao, tiếng ru, võng đưa kẻo kẹt như thế nào và đã khóc chào đời có giống tiếng khóc của trăm ngàn đứa trẻ khác hay không, Nói ngắn gọn hơn, cái tuổi thơ đầu đời  của tôi không có gì cả trong ký ức của mình và hình như trong suốt chuỗi ngày lớn lên, tôi không cảm thấy có gì là nhớ. Tôi là đứa con duy nhất, gọi là con một, năm tôi ba bốn  tuổi, biết đi biết nói thì ba má tôi đã trên dưới bốn mươi lăm. Giang hồ phiêu bạt tứ xứ rồi không biết vì sao, ông mỏi gối dừng chân xứ này, phải lòng cô gái Trâm Vàng, má tôi đó, ở đó một thời gian, ông quen chân, đi về quanh vùng, rồi tới Hiệp Thạnh này, vào làm cho công ty người Pháp, một công ty lớn, chủ mấy đồn điền cao su, rộng khắp một vùng, sâu vào tới tận Cầu Khởi, Khiêm Hanh.

*

    Ông bà dọn lên Hiệp Thạnh, mua căn nhà căn nhà mái tôn, tường gạch cũ, bên đường từ ngã ba vô, cách khu cư xá công ty chừng đâu đó nửa cây số. Từ nhỏ, tức là từ những ngày lên ba lên bốn, tôi biết bên ngoại nhiều hơn là bên nội, vì cứ một hai tháng ba má, đón xe đò, dắt về nhà ngoại, bà con giòng họ ngoại ở quanh bên nhau, nhà này cách nhà kia không mấy xa, con đường đất mịn chạy quanh chạy co rồi cũng lòng vòng trở lại. Ngoại nghèo hơn hết, chị thứ hai trong mấy người, nên má tôi cũng là chị hai của con mấy ông cậu bà dì khác, má tôi còn người em, cậu ba, còn ở với ngoại. Cậu ba kém may, bị tật quẹo một khúc tay trái và chân khập khiểng, cái thấp cái cao, cậu lủi thủi trồng trọt dưa cà, rau cải, ớt hành quanh nhà, liếp nào cũng xanh mát. Mỗi lần về ngoại, tôi còn nhớ tôi mặc áo ba túi tây và quần sọt cùng màu xám đậm, mang giày da ngon lành, ngồi xe lôi kéo, chở bao gạo và mấy thứ đường muối linh tinh rồi thêm mớ tiền đưa ngoại xài, xe lôi chưa vô tới sân thì tôi đã lớn gọi ngoại ơi ngoại hởi. Ở chơi gần tới chiều mới ra đường cái, đón chuyến xe đò lỡ chót về lại Hiệp Thạnh

    Ba tôi làm thư ký quèn, cho một công ty của người Pháp, có trụ sở chính ở bến Chương Dương dưới Sài Gòn, chuyên lo việc nhận giấy tờ, thư từ, từ trụ sở chính gởi lên hàng tuần bằng xe của công ty, nhận tiền hàng tháng do máy bay loại nhỏ chở lên, thả xuống cái sân rộng trong khu cư xá mà ông giám đốc Tây và nhân viên công ty cùng gia đình ở, khu cư xá này rộng lắm, có hàng rào cao hơn hai tầng lầu, dầy đặc song sắt, nằm cuối ngã ba chợ xã, bên bờ sông lớn, ông chờ mang vào văn phòng, kiểm lại đầy đủ số tiền như đã ghi theo giấy tờ, rồi giao lại cho bác phụ trách phân phối tiền cho các sở, từ đó phát lại cho công nhân, trong số những chú bác nhân viên ở đó, ba tôi là người được ông giám đốc Tây thích và thường gặp hỏi cái này cái kia, chỉ vì ba tôi nói và viết tiếng Pháp không thua gì ổng và nhất là ba tôi có thời đã làm giám thị ở các đồn điền miệt Xa Cam Hớn Quản, Lai Khê, cho nên có chuyện gì về cao su, ông kêu ba tôi ngay.

*

    Tôi không biết ba tôi học trường nào, học tới đâu, vì chưa bao giờ nghe ông nói, nhưng có một điều chắc chắn là ông rất giỏi tiếng Pháp, giỏi từ nói tới viết, không thua một ông Tây nào. Nhà tôi, trong ngăn trong dưới của tủ thờ giữa nhà, chất đầy các bộ truyện Tàu, từ Thủy Hử tới Đông Châu Liệt quốc, Tam Quốc Chí tới các truyện của Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương, Bình Nguyên Lộc, nằm ở đó nhưng ít khi thấy ông đọc, má tôi thì cũng chưa thấy bà đọc cái gì, nên tôi chẳng biết cũng  bà có đi học hay không, thật tình tôi cũng không màn biết tới.

    Từ nhỏ, ba tôi dạy tôi biết đọc biết viết trước rành rẻ nên vào trường tiểu học xã tôi học ngay lớp tư, nhảy lớp năm. Ông dạy tôi chút ít tiếng Pháp từ lúc đó, tôi có thể nói năm ba chữ, sáu bảy câu thường qua lại với ông, nhớ có lần ông dắt tôi theo ăn tiệc sinh nhật của bà vợ ông Giám đốc  trong cư xá, gặp bả tôi chạy ngay lại, bà đưa tay bắt tay tôi cười, tôi nhanh miệng chào bằng tiếng Pháp “Chào ông”, bà cười ngặt nghẽo “không, không. chào bà” rồi ôm hôn tôi mấy cái, ông Giám đốc cùng ba tôi cũng cười theo. Tôi còn nhớ, lúc này ba tôi độ chừng một hai năm thì ông về Chợ Lách, ngày sắp đi tôi đòi theo, ông bắt tôi phải học thuộc cả một lô chữ tiếng Pháp, từ cơ thể người ta, đầu mình tay chân tới đồ đạc trong nhà, cái bàn cái ghế, trước khi đi, tôi đọc cho ông nghe, quên vài chữ không sao, ông hài lòng, ôm tôi xoa đầu không nghỉ. Cũng nhờ ba tôi dạy mà sau này, tiếng Pháp đã giúp tôi học hành kha khá trên đại học.

    Thời hồi còn Tây cai quản ở Sài gòn, chồng của người dì ba, con gái của bà dì, em thứ năm của ngoại, muốn làm cảnh sát. Ông dượng này học ít, tiếng tây lõm bõm được ba tôi, khi về Trâm Vàng, dạy thêm ba mớ nhưng viết thì còn lạng quạng, dượng muốn đi lính cảnh sát Tây, nhờ ba tôi viết đơn xin vô, rồi dượng đem xuống Sài Gòn nộp. Vài ngày sau, quan sếp cảnh sát kêu dượng tới, không cho biết là cho hay không mà hỏi ai viết thư xin việc đó, dượng tình thật thưa là ba tôi, ông quan gật gù bảo, về kêu ba tôi tới đây, cho ông ta nói chuyện. Gặp ba tôi, quan sếp tây, mới mấy câu mở đầu đã không chần chừ cho dượng tôi làm và kêu ba tôi vô cảnh sát luôn, quan sếp sẽ sắp cho ông làm chức lớn gì đó. Về nhà, khi dượng tôi vào làm, ba tôi nhắn với quan sếp Tây, cám ơn nhưng không thích nghề này. Sau này dượng ba hình như làm tới chức phó trưởng ty cảnh sát của một quận nào đó ở Sài Gòn, tôi còn nhớ lần xuống ở nhà dượng, đi thi vào trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc thì buổi sáng, dượng lái xe jeep chở tôi tới chỗ thi, rồi cho một anh cảnh sát khác tới rước về bằng xe ‘vét pa”. Ba tôi vẫn như cũ, cũng cứ là một viên thư ký quèn không hơn không kém nhưng xem ra ông rất yêu đòi, không thấy ông buồn phiền gì hết.

*

    Lúc còn ở Trâm Vàng, chưa lên Hiệp Thạnh, ba tôi hùn vốn với ông bạn dưới Trãng Bàng, mua xe đò lớn chạy đường Sài Gòn Vũng Tàu, thời đó là thời quân Bình Xuyên của ông Bảy Viễn kiểm soát vùng Vũng Tàu Bà Rịa, xe chạy êm xuôi trót lọt mấy chuyến, khách khá đông, cũng chạy giành khách trên đường với mấy xe khác, ba tôi theo xe thâu tiền, người tài xế và anh lơ là cháu của ông bạn.

    Một ngày xế trưa, khi xe vào tới bến ở Vũng Tàu đâu đó, ba tôi cùng hai người kia đang dọn dẹp trong xe để đi ăn như thường lệ, thì có một tốp lính Bình Xuyên súng ống lăm lăm tới, hỏi chủ xe, ba tôi nhận, họ bảo có lệnh bắt ông vì tội dám giành giựt khách đi đường với xe của Bình Xuyên, ba tôi cũng không ngờ, vì từ khi theo xe ông đâu biết xe nào của Bình Xuyên đâu, họ thúc ké ông, dẩn đi, anh tài xế cũng như anh lơ đứng mặt mài tái mét, ngồi trên xe như trời trồng, nhìn theo không biết làm cái gì bây giờ, tốp lính Bình Xuyên dẩn ông đi về hướng Bải Sau.

*

    Họ nhốt ông tại một căn đầu dãy nhà tường, vài ba anh lính khác đi qua đi lại ngoài sân, trong căn nhà có cái giường cây cũ suôt đêm đó, sáng sớm hôm sau, chừng năm giờ, trời còn sương mờ, hai anh lính Bình Xuyên, ông bị trói thức ké như hồi bị bắt ở bến xe, trên đường dẫn ông ra bải biển, thì một người từ dưới bải đi lên, quần xà lỏn, choàng cái khăn tắm trên vai, chắc vừa tắm lên đi tới, người này lên giọng, bảo đứng lại, xem ra cấp chỉ huy, hỏi chuyện gì đây, một trong hai anh lính trã lời, dạ đem đi xử bắn vì dám giành khách xe đò với xe mình, người chỉ huy hất hàm để anh ta coi.

    Mặt trời vừa có chút hé hồng lên từ đường chân trời ngoài biển, có thể nhìn thấy mặt nhau. Ba tôi thở dài thôi chắc phen này không sống rồi, anh chỉ huy bổng dưng đứng sửng, nhìn ông “anh tư Bền phải không “ anh gằn giọng một lần nữa “phải anh tư Bền không?”, ba tôi nói thầm “thôi chắc chết thiệt rồi”. Hai anh lính vẫn còn đứng chờ, anh chỉ huy tới gần hơn, nắm tay ba tôi “anh tư, thằng ba Chẩn đây, anh hổng nhớ sao, thằng ba Chẩn đây”, anh quát người lính, cổi dây ra mau “đây là anh tao, đứa nào đụng tới ảnh thì chết với tao nghe chưa”, hai anh lính dạ dạ rồi đứng lùi xa ra chờ. Anh chỉ huy đi song đôi với ba tôi lên dãy nhà hồi nãy, anh ta quay lại ra lệnh, ra bến xe đưa hai người của anh tư vô đây, hai anh lính dạ một tiếng lớn rồi nhanh chân bỏ đi, mặt trời lên rực nắng, lấp lánh trên mặt biển, nước biển một màu xanh biên biếc. Vừa đi, vừa lén nhìn mặt anh ta, ba tôi lặng thinh, anh ta nói gì, dáng bộ phân bua với ba tôi nhiều lắm, ông chợt nhớ và nhận ra, vết thẹo trên má trái của anh chỉ huy, đúng là “thằng ba Chẩn’ mà ông đã gặp nhiều năm trước, lâu rồi.

*

    Hồi đó, lang bạt tới Cai Lậy, mùa dưa hấu, ghe xuồng tấp nập vô ra bến sông, trời chắc cũng lưng lửng sáng, ngồi trên quán cơm, chưa đông người,  nhìn xuống, thiên hạ hò hét bu quanh hai chiếc ghe tam bản chất đầy dưa hấu, tò mò đi xuống, hai ba người đàn ông đang vây đánh một anh thanh niên, túi bụi, có cả dao cả rựa, anh thanh niên thế cô chống đở, nổi máu bất bình, vốn có chút võ nghệ cao, ông xắng tới, vừa đánh trả che cho anh thanh niên, thế võ gì đó của ông đã hạ gục mấy người kia, đầu cổ máu me không thua gì đầu cổ của anh thanh niên, ba tôi lấy mấy cái dao, cái rựa quăng xuống sông, đở anh thanh niên dậy, dìu lên bờ, ông cổi áo thun, thấm nước lau mặt mài anh cho bớt máu, có cái vết thẹo sâu cũ bên má trái.

    Hỏi ra cớ sự thì biết, họ đánh anh ta vì anh giành người mua dưa hấu của họ, lên quán cơm, anh tỉnh lại, hai người hỏi qua lại quê quán tuổi tên, ba, anh tư Bền, anh ta, thằng ba Chẩn, và cũng từ hôm đó, suốt mấy hôm ở Cai Lậy, bên chợ đều một tiếng hai tiếng anh tư chú tư Bền nể nang. Hai người cà phê cơm nước tới chiều, chiếc ghe của mấy người đánh anh ba Chẩn, hình như cũng bán được dưa, đã rời đi từ lâu, ghe dưa của anh ta cũng có người mua mảo hết, anh bịn rịn chia tay ba tôi , xuống ghe chào, hẹn còn có dịp gặp lại, sẽ không bao giờ quên cái ơn cứu tử này, đứng trên bờ nhìn xuống, anh ba Chẩn lui ghe ra sông, vẫy tay mà nước mắt rưng rưng, ba tôi không gặp lại anh ta từ đó.

*

    Anh tài xế và anh lơ cũng vừa vô tới, anh ba Chẩn, mời họ ngồi, hỏi han đôi ba câu, ba tôi mĩm cười nhìn, “người quen, không có gì đâu”, nghe ba tôi nói mà sắc mặt vẫn còn lo sợ. Trời đã trưa, anh ba Chẩn đưa ba tôi và hai người phụ xe ra một tiệm cơm ngoài bải Trước, cơm trưa xong, đưa ba người ra bến xe, từ giã, anh ôm lấy ba tôi thật chặt “em coi vùng này, xe anh cứ chạy thoải mái, em ra lệnh rồi, ai đụng tới anh thì có em ngay”. Xe chạy đi rồi, ngó lại anh ba Chẩn còn đứng đó. Khó lòng bình an lần sau, cái may không đến hai lần, trong thời buổi nhiểu nhương này, ba tôi quyết định bán xe và không làm nghề này nữa.

*

    Năm tôi lên năm đầu trung học, ba tôi lại hùn hạp với một ông bác bà con xa bên ngoại, là nhà ba tôi gởi ở trọ học, mở cái xưởng cưa máy ở ngoại ô  tỉnh lỵ, chuyên cung cấp cây ván cho mấy người thầu xây cất nhà cửa khắp trong tỉnh, công việc xuôi chèo mát mái mấy tháng đầu, sắm thêm xe chở hàng cho khách, không những mấy người thầu mà ai muốn tự dựng tự sửa nhà đều tới mua ngay xưởng hay đặt trước, công nhân chừng mươi người, làm ăn đàng hoàng, vui vẻ. Đùng một cái, không biết vì đâu, xưởng cưa bị cháy, thiêu rụng cả máy móc, cây ván cưa cắt sẳn cho khách, ngay mấy cái xe chở cây cũng hư hết phân nửa. Ba tôi và ông bác không biết nói gì hơn, lắc đầu chịu trận, tôi nghiệp mấy người công nhân, giờ phải đi tìm việc khác, ba tôi và ông bác gom góp tiền tặng cho họ một số ít gọi là lộ phí chia tay. Với ba tôi, nói trắng tay thì không hẳn vì ông vẫn còn làm việc cho công ty Pháp ở Hiệp Thạnh, còn số tiền lương hàng tháng như những năm tháng qua. Năm sau, bà ngoại mất, chôn trong miếng đất chung của giòng họ, cậu ba không có vợ, còn lại một mình, lo chuyện mồ mả, ba tôi ít khi về Trâm Vàng, má tôi về thường hơn sau ngày đó, tôi học trên trường tỉnh và cũng lớn bộn rồi, thỉnh thoảng một vài lần theo bà, thăm cậu ba vậy thôi, và cũng ít khi gặp mặt đám con của cậu dì, họ cũng vậy, gặp nhau ngoài đường chưa chắc nhận ra nhau.

*

    Đồn điền sao su của nhà bị hư hại gần hết phân nửa, đồn điền này ba tôi mua lại đất của ai đó, cũng được mười mẫu hơn, nằm xa xa bìa ranh nội ô tỉnh lỵ, cách núi chắc cũng nửa tiếng đường xe chạy, nhờ số tiền phụ giúp của ông Tây giám đốc công ty thêm, ba tôi đi về săn sóc lo từng hột giống, cây ươn, bón phân nhổ cỏ suốt hơn năm năm trời, từ ngày cây con mới nẫy mầm, vừa bắt đầu khai thác với ba bốn người làm phụ, xem ra êm xuôi, đùng một cái trận chiến chận Bắc quân tiến vào tỉnh lỵ, lúc gần đây cuộc chiến dai dẳng từ mấy năm qua đã lan rộng và có phần khốc liệt hơn, máy bay oanh tạc của VNCH đã dội bom cũng như xe tăng, cày nát đồn điền sau mấy ngày đụng trận.

    Cầm cái đơn cùng vài giấy tờ chứng nhận khác của làng xã, tờ đơn khiếu nại về sự việc xãy ra đưa cho dì sáu, vợ của cậu sáu, con ông cậu bảy, em của ngoại, nhờ cậu lên tiếng, giúp cho sớm có tiền bồi thường. Cậu sáu, tôi gặp hai ba lần khi về nhà bà ngoại, cậu có người con trai lớn, học cùng lớp và bằng tuổi tôi ở trường quận, nhưng chưa lần nào nói chuyện nhiều ngoài năm ba câu chào hỏi, vậy thôi. Trước đây cậu làm thư ký ngoài văn phòng quận, hiện tại thì cậu đang là dân biểu tại quốc hội  trong ủy ban gì đó.

   Dì cầm mớ giấy tờ, lẩm bẩm đọc rồi nhìn tôi, tôi mĩm cười chờ. Dì không cười giọng hơi gắt, có vẻ không muốn nhận hay sao đó, dì nói ba tôi không biết gì hết, làm lộn xộn, mệt cho cậu sáu, vốn không có thiện cảm với dì từ lâu, khác với tình cảm thân mật của tôi với mấy dì khác, con bà dì năm, tôi không nhịn được đáp trả, dì chữ nghĩa tới đâu, chưa đầy lá mít mà dám xúc phạm ba tôi, dì có biết ai dạy chữ cho cậu sáu bao nhiêu năm, ai đã làm cho cậu đắc cử chức vụ dân biểu này không, tôi bỏ đi ra cửa, quay lại, dì đứng nhìn theo, giận như nãy, nói lớn cám ơn, dì muốn làm gì đó thì làm, rồi bước nhanh ra khỏi nhà.

   Về chuyện cậu sáu đắc cử, chính ba tôi là người đi vận động, nói chuyện với mấy trăm công nhân đồn điền Tây, và người dân mấy xã chung quanh cũng như bạn bè tại quận lỵ, hết ngày này qua ngày kia trước ngày bầu cử, điều này, cậu sáu biết rành hơn ai hết, cho nên từ đó khi ba tôi cần giúp, cậu sẳn sàng làm ngay. Mấy ngày sau đó, khi từ Sài Gòn về thăm nhà, lúc này tôi đang học năm đầu đại học, ba tôi cho biết, nói mà cười, dưới nhà ngoại, dì sáu đi than phiền với bà con chung quanh, là tôi hổn hào, mắng miết dì, không biết phép biết tắt gì cả, vậy thôi.

*

    Gom góp chút vốn liếng còn, ba tôi mướn người, cũng những người công nhân cũ dọn dẹp, phát quang cây cỏ, sứa lại nhà máy, giếng nước của đồn điền, làm lại từ đầu. Ông không nói gì về kết quả bồi thường nhờ cậu sáu lo giùm, không nghe ông nhắc tới, ông vẫn đi về, vẫn còn làm cho công ty Tây như cũ, trên đồn điền giờ có một chú người Bắc, hiền lành vui vẻ, từ đâu đó ở Bình Long về thay ba trông coi mọi thứ nên ba tôi không bận rộn lắm. Chú này vốn là phu cạo mủ ở Hớn Quản thời ba tôi còn làm giám thị ở đó, không có tiền đóng thuế thân thời Tây, không vợ con, trốn chui trốn nhủi, thấy tội nghiệp, ba tôi đóng cho rồi đem chú về ở chung nhà, sau khi ba tôi nghỉ làm, chú muốn theo nhưng ông vẫn còn giang hồ đó đây nên hai người chia tay, chú khóc sướt mướt, ba tôi cũng quên dần chuyện cũ.

    Công việc vừa tạm yên, qua Tết năm đó, vào hè bải trường thì má tôi mất, vì bệnh xơ gan có từ trước tái phát, công ty chở bà xuống nhà thương Saint Paul dưới Sài Gòn, bà nằm đó, vợ chồng ông giám đốc vào thăm hỏi ba bốn lần, nhưng cũng đành thôi, bà không qua khỏi. Xe công ty đưa bà về làm đám tang ở Hiệp Thạnh rồi đem về chôn bên cạnh mộ bà ngoại ở Trâm Vàng.

*

    Cuối năm thứ ba đại học, ba tôi nghỉ làm, dọn hẳn về trên tỉnh, ông bán căn nhà ở Hiệp Thạnh, tiền ông cho cậu ba, em má tôi. Ngày cuối ông tới từ giã vợ chồng ông giám đốc Tây thì cùng lúc đó họ cũng đang chuẩn bị về nước nay mai, ba tôi ở lại với họ thật lâu, ra về ông giám đốc Tây đưa cho ba tôi cuốn sổ tay nhỏ, có ghi địa chỉ bên Pháp, ở Ba Lê, và một số chi tiết gì đó, dặn khi cần có thể thư cho ông biết.

   Chiến cuộc bây giờ lớn hơn, ác liệt và trận chiến bùng lên khắp mọi miền, tiếng súng tiếng pháo nghe gần hơn, thường hơn đêm cũng như ngày, đường xá đi lại không còn dễ dàng như trước, đồn điền nhà tôi có ngày làm có ngày nghỉ vì những cuộc hành quân của quân VNCH, ba tôi xem ra có phần buồn nản, suốt những năm khôn lớn, đây là lần thứ hai thấy ông buồn, lần đầu tiên là ngày má tôi mất.

    Cuối tháng ba, tình hình chiến sự trở nên quyết liệt, một số tỉnh địa đầu giới tuyến, miền trung rồi tới cao nguyên lần lượt mất, quân VNCH triệt thoái, thối lui, chống đở nhưng xem ra không thành công, các nơi còn lại và cả Sài Gòn hoảng loạn nghẹt thở. Ba tôi mất vì bệnh đau bao tử quá nặng, dù trước đ ây đã được cắt bớt, sau mấy hôm nằm nhà thương tỉnh, trước ngày tôi chuẩn bị thi ra trường. Đám tang trên tỉnh, chú người Bắc thay tôi lo, mặc dù tôi có mặt, bạn bè không còn mấy ai, nhưng công nhân nhiều lắm, nhất là công nhân của công ty cao su Pháp trước kia, có tiếng khóc sụt sùi và tiếng gọi tên ông da diết.

*

   Tôi đưa ba về chôn bên cạnh mộ má, gần ngoại, cũng như lần đứng trước mộ má, cuối đời người, ông bà bôn ba mưu sự rốt cuộc, không được gì, chỉ có được một vành khăn tang trắng duy nhất là tôi, và tôi chỉ là một đứa con nuôi.

 

Thuyên Huy

Mt Dandedong - Buồn cho một kiếp người 2025

   

  

   

   

  

   

 

 

  

   

   

   

   

   

   

   

  

 

 

No comments: