LÁ DIÊU BÔNG, CHIẾC LÁ HUYỀN THOẠI
Thi sĩ “Lá diêu bông” đã ra đi
từ ngày 06 tháng 5 năm 2010
Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt,
(sinh 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang – mất 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội),
Nhà thơ Hoàng Cầm. Ảnh: Nguyễn
Đình Toán
Lá Diêu Bông
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
– Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
– Đâu phải lá Diêu Bông
Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời!…
…ới Diêu Bông!…
1959
Chiếc Lá Huyền Thoại
Lá Diêu Bông, một sản phẩm từ trí tưởng
tượng của nhà thơ Hoàng Cầm đã làm nên huyền thoại. Chiếc lá ấy mang theo câu
chuyện của thi nhân: “Tôi còn nhớ mồn một một buổi chiều mùa đông… Chị đi về
phía cánh đồng chiều còn trơ cuống rạ. Những dãy núi xanh xanh mờ xa in hình
như dao khắc trên nền trời cuối hoàng hôn. Bí mật, tôi lặng lẽ lần theo chị.
Tôi thấy chị thẩn thơ tìm đồng chiềụ Cuống rạ. Rồi chị lẩm bẩm một mình, dầu chị
biết chắc tôi lẵng nhẵng theo sau lưng : Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông, từ nay
ta gọi là chồng…”.
Huyền thoại bắt đầu từ mối tình của cậu
bé 8 tuổi yêu người con gái tên Vinh đang độ trăng rằm và sau này tác giả viết:
Lá Diêu Bông là chiếc lá huyền thoại, chiếc lá ngây thơ về một tình yêu đầy mộng
mị thời thơ ấu. Huyền thoại khi Hoàng Cầm làm bài thơ này (theo hồi kí của tác
giả) do thần linh đọc và nhà thơ chép lại: “ riêng có bài thơ Lá Diêu Bông, duy
nhất một bài này là những lời vẳng bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa đêm mùa
rét 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ 6 oát”, …Và
xung quanh việc tiếp nhận cũng rất nhiều ý kiến trái ngược nhau với nhiều cách
diễn giải khác nhau… Nhưng sức sống của thi phẩm không phải là những huyền thoại
quanh nó mà chính là những xúc cảm, chiêm nghiệm về tình yêu mang triết lý sâu
xa mà phải đến hơn 30 tuổi thi nhân mới nhận ra. Phải chăng vì lẽ đó mà 25 năm
sau bài thơ mới ra đời.
Lá Diêu Bông là biểu tượng của tình
yêu, tình yêu đích thực, nồng nàn, đắm say mà con người luôn khao khát mỏi mong
trong cuộc đời có một lần bắt gặp. Hẳn trong thời điểm còn tồn tại những chiếc
váy buông chùng cửa võng thì những quan niệm về tình yêu, hôn nhân còn rất
phong kiến, lạc hậu và người phụ nữ thường chịu cảnh gả bán, ép duyên. Người
con gái vùng quê Kinh Bắc vốn rất đa tình và chắc hẳn cảm nhận được duyên phận
éo le của bao kiếp hồng nhan nên ôm trong tim một mơ ước : người tìm được lá
Diêu Bông, tức là người yêu mình thực sự, sẽ trở thành phu quân. Mong ước ấy là
khởi đầu cho cuộc kiếm tìm suốt cuộc đời của thi nhân và của người thiếu nữ
:
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ …
Chị bảo: đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
từ nay ta gọi là chồng
Cái éo le của duyên phận, cái bi kịch của tình yêu là người
tìm thấy lá không phải đối tượng của chị và không đúng thời điểm :
Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày:
Đâu phải Lá Diêu Bông
Mùa Đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu,
trông nắng vãn bên sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười
xe chỉ ấm trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn
Có lẽ người tìm lá dù nhiều năm tháng
trôi qua vẫn chỉ là một loại, nhưng cách nhìn của chị trong mỗi thời điểm lại rất
khác nhau. Đó cũng là những sắc thái tình cảm thể hiện qua lời đối thoại, đó
cũng là tâm trạng của người thiếu nữ khi nhìn vào tình yêu của người em dành
cho mình. Khoảng thời gian : hai ngày, một năm sau, ngày cưới chị, khi chị đã
có ba mặt con – khoảng thời gian thử thách tình yêu, khoảng thời gian đủ để nhận
ra một tấm lòng. Và tương ứng với quãng thời gian ấy là những chuyển đổi về xúc
cảm của người con gái vùng Đình Bảng.
Hai ngày sau lời chị tuyên bố em tìm
ra lá chị chau mày nói không phải lá Diêu Bông ; Cái chau mày không hẳn vì người
tìm lầm lẫn khiến chị không hài lòng mà cái chau mày mang hờn trách số phận
cũng như không muốn tin người đem tình yêu, hạnh phúc cho mình chỉ là một thằng
em và một vật quý giá đến vậy thì đâu dễ dàng có nhanh thế.
Đến một năm sau, chị không bảo là
không phải lá Diêu Bông mà chỉ là cái lắc đầu không muốn nhận, không thể nhận
vì còn chờ đợi một bóng hình nào đó sẽ mang đến cho mình chiếc lá định mệnh và
hạnh phúc. Song, cái thẩn thơ tìm chứa đầy mơ mộng, cái ánh mắt nhìn đong nặng
khát khao đã không thể tìm thấy một nửa cho riêng mình, người con gái ấy đành
lên xe hoa. Khi nhìn lại chiếc lá trên tay của người em thơ dại chỉ biết cười
buồn, chấp nhận phận số “xe chỉ ấm trôn kim”- mọi việc đã an bài, duyên phận đã
định sẵn, tình yêu không còn chỗ trong cuộc đời.
Và cho đến khi có ba mặt con, người
thiếu phụ không dám nhìn vào tình yêu mà mình từng trông đợi; Cái xòe tay, phủ
mặt của người thiếu nữ thật bi đát. Bi đát vì tình yêu đến vào thời điểm ấy sao
mà trớ trêu, xót xa đến thế. Lỡ làng rồi, muộn quá rồi tình ơi…nhìn vào càng
chua xót, đắng cay. Người con gái hiểu được một trái tim chân thành, một tấm
lòng thơ dại yêu mình tha thiết nhưng lại không thể nhận lấy, không thể đáp trả.
Điều này trái khoáy như những trái ổi trong vườn mà chị là một trái chín quá tầm
tay em; còn em chỉ là một trái ương bị tình làm gỉ máu :
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
— Xin Chị một quả chín!
Quả chín quá tầm tay
— Xin Chị một quả ương
Quả ương chim khoét thủng
(Qua vườn ổi)
Từ xưa đến nay những thiên tình sử để
đời thường là những bi kịch. Bi kịch nảy sinh từ những mâu thuẫn bởi khoảng
cách của hai dòng họ trong chuyện tình Romeo và Juliet; khoảng cách giữa đức
tin, danh vọng và tình yêu trong Tiếng chim hót trong bụi mận gai; khoảng cách
giữa các đẳng cấp trong xã hội và các quan niệm cổ hủ trong Mùa tôm hay Tình
yêu thời thổ tả…Và, trong Lá Diêu Bông khoảng cách đó là lứa tuổi. Bi kịch dành
cho chị xuất phát từ tình yêu say mê, thơ ngây, thủy chung của người em. Tình
em càng mãnh liệt bao nhiêu thì càng làm cho chị đắng cay, khổ sở bấy nhiêu. Phải
chi em hãy để cho chị tin rằng không bao giờ có lá Diêu Bông, không tồn tại một
tình yêu đích thực thì chị sẽ an lòng, cúi đầu yên phận. Cái lá em cầm, cái bằng
chứng cụ thể về một tình yêu chị hằng khao khát là mũi khoan khoét sâu vào tim
chị, là lời nhắc nhở những mơ ước không thành, là nơi níu kéo quãng đời hoa mộng,
là hiện thực nghiệt ngã của số phận…Vậy mà, em cứ hành hạ chị trong suốt cuộc đời,
từ khi con gái đến lúc xế tà.
Bi kịch dành cho em là một ảo tưởng về
tình yêu, hạnh phúc. Ảo tưởng có được tình yêu nên suốt đời em tìm kiếm chiếc
lá Diêu Bông. Lòng ngây thơ trong trắng của em tin vào lời chị hứa để em xem
chiếc lá mình có như là bùa hộ mệnh, như tấm vé duy nhất qua cửa thiên đường.
Chị từng biết em sẵn sàng đi đêm tướng điều, sĩ đỏ để đổi xe hồng
đưa chị tới quê em; nhưng chị sẵn sàng phủ nhận sự thực ấy. Đến năm lần bảy lượt
chị chối từ và bảo rằng không phải. Chị không dám nói với em chị đã nuốt lời mà
bắt em trọn kiếp ôm mộng tưởng :
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió nghe vi vu vút gọi
Diêu Bông hời …
… ới Diêu Bông … !
Bài thơ không chỉ dừng lại ở câu chuyện
tình lãng mạn, bi thương mà như còn ẩn chứa bao suy ngẫm về thân phận làm người:
Con người luôn phải đối mặt với bao trái ngang, oái oăm của định mệnh; hành
trình của loài người là hành trình kiếm tìm hạnh phúc, nỗi khát khát khao về hạnh
phúc tình yêu muôn đời là niềm khát khao lớn nhất ; và cũng có thể bài thơ còn
mang một triết lý sâu xa: con người luôn bị ảo tưởng dày vò và tự hủy hoại mình
bởi những ảo tưởng đó.
Cả người chị và đứa em trong câu chuyện
đều hoài vọng về một điều không thực và tự dối mình về những điều không thực
đó. Với chị, chị hiểu rằng làm gì có một tình yêu chân thành trong cái xã hội
chưa thoát khỏi cái váy đụp váy xòe, khi thân phận người phụ nữ chỉ như tấm lụa
đào phất phơ giữa chợ, như thân hạc bị chôn chân đầu đình, như cá rô thia ra
sông mắc lưới, vào đìa mắc câu…Còn với em, nằm chơi vơi giữa hai bờ thực ảo. Thực
vì nghĩ mình đã tìm thấy lá mà vốn dĩ lá không có thực. Ảo vì tự xác nhận là lá
Diêu Bông nhưng kết cục vẫn phải đi tìm, tìm mãi…
Vậy ra, chiếc lá có thể là bất cứ loại
nào nhưng quan trọng là lời minh xác của người yêu cầu. Thế là nảy sinh thêm một
bi kịch nữa. Đó là bi kịch giữa hiện tồn và nhận thức, giữa không và có. Vậy bi
kịch không chỉ nảy sinh từ khoảng cách giữa hai đối tượng mà nảy sinh từ chính
bản thân của mỗi người. Phải chăng mỗi thân phận người đã là một bi kịch? Bi kịch
giữa mơ ước và hiện thực; bi kịch về chính sự tồn hữu của mình.
Lá Diêu Bông là một bài thơ ngắn gọn,
lời lẽ giản dị nhưng chứa nhiều ẩn ý thâm trầm, sâu sắc. Hình ảnh thi nhân
trong thi phẩm trở thành hình ảnh chung của con người: suốt đời đi tìm tình
yêu, cái đẹp.
Trần Thanh Hà
Nguồn: văn học nghệ thuật

No comments:
Post a Comment