Monday, September 29, 2025

Nhứt Phá Sơn Lâm - Sơn Nam

 

NHỨT PHÁ SƠN LÂM




 

Trời vừa hừng sáng là khu rừng bắt đầu huyên náo. Từ sáu tháng nay, trước sự xâm chiếm của lớp người “tay rìu” bao nhiêu chim cò, rắn, rít, khỉ, chồn, heo rừng phải nhượng bộ rút lui.

Bọn tay rìu vào rừng kinh ngang kinh dọc dưới sự điều khiển của cặp rằng. Tất cả cặp rằng đều do một ông “chủ đường” chỉ huy. Ðường có nghĩa là con kinh lớn tập trung bao nhiêu củi đã cưa sẵn thành từng khúc hai tấc rưỡi hoặc một thước. Muốn có một đường củi như vậy phải là tay rất có thế lực đối với nhà cầm quyền thực dân thời bấy giờ.

Họ đấu giá một lô rừng cúp, loại rừng mà nhà nước cho phép khai thác cứ hai mươi hoặc hai mươi lăm năm một lần.

 

Sau khi đấu giá được, việc cấp bách nhứt là mộ nhân công (tay rìu) vì chung quanh khu rừng nói trên rất ít dân cư. Phải có nhân công thật nhiều mới khai thác xong đúng thời gian cam kết với nhà nước. Vì vậy, người chủ đường phải mộ nhiều nhân công từ Cần Thơ, Hà Tiên, Long Xuyên… đem xuống tận cái lô rừng cúp rạch Thứ Sáu, làng Ðông Thái, tỉnh Rạch Giá này.

o0o

Anh Tư Bình Thủy tốc nóp, ngồi dậy. Anh ngáp dài, nhìn rừng, nhìn nước rồi từ từ ngả lưng xuống với ý định dỗ lại giấc ngủ, bụng nghĩ thầm:

-Làm thêm đôi ba thước củi cũng chưa đủ trả nợ. Không khéo, lại lao lực sanh bịnh tim, bịnh phổi mà mang khốn…

Cum! Cum! Cum!

Tiếng búa bổ vào gốc tràm bắt đầu vang lên từ đầu đến cuối rừng nghe còn nhặt hơn tiếng mõ thầy chùa tụng kinh.

Ðùng! Ðùng! Ðùng!

Từng thân cây ngã xuống liên hồi mặt nước rung chuyển, sóng gợn lên chạy dài, vỗ vào vách chòi của anh nghe lát chát.

Các “tay rìu” bắt đầu nói chuyện cho qua cơn mệt nhọc. Anh Tư Bình Thủy nghiêng tai vào đầu nóp, lắng nghe tỏ rõ từng tiếng một:

-Rừng này gốc của ông Gia Long. Hồi xưa Gia Long cũng như mình…

Ðó là giọng của Hai Cờ Ðỏ. Gọi là Cờ Ðor không phải vì cầm cờ Cộng sản đi biểu tình, nhưng vì quê quán anh này ở Cờ Ðỏ – một địa phương thuộc đồn điền của Tây “Êmory.” Anh có giấy chứng nhận riêng biệt của hãng Tây. Theo lời anh khoe khoang thì giấy đó mạnh hơn giấy thuế thân, bảo đảm không sợ bất cứ một thầy hương quản nào. Giọng Hai Cờ Ðỏ nói sang sảng:

-Ðố các cha vậy chớ rừng này hồi đời xưa có vua Gia Long đi ngang qua không?

Có tiếng cãi lại:

-Túng tiền thì lại đây, tôi cho mượn đỡ vài cắc, chớ đừng nói dóc. Nói phải có sách, mách phải có chứng…

-Dân ở Cờ Ðỏ không bao giờ nói dóc. Ðể tôi nói lại. Số là xưa kia… Gia Long bị Tây Sơn rượt, ngài phải dùng ghe biển mà chạy từ Cà Mau ra Phú Quốc. Chiếc ghe của ngài gọi là long thuyền… Ngài đứng trước mũi ghe, ngóng vào bờ mến tiếc lắm, vì ngài muốn làm vua ở đất liền chớ nào có mộng làm chúa ở cù lao…

Ai nấy nhốn nháo lên:

-Nghe lòng vòng quá. Nói cho lẹ thử coi… Muỗi cắn gần chết đây nè? Bà con nào cho tôi mượn bếp un, quạt khói lên dùm…

-Tôi nói ông Gia Long ngóng vô bờ, dòm dáo dác cái cụm rừng của tụi mình đương đứng bây giờ. Rồi ổng day qua nói với đình thần tả hữu:”Sơn bất cao, thủy bất thâm, phù sa chi địa nhơn tác bất thành tu hú giả. Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá, cao phi viễn tẩu giả nan tàng…”

-Cắt nghĩa cho mau. Ở đây ai mà biết chữ nho.

Hai Cờ Ðỏ cười dòn:

-Câu đó ngụ ý về địa lý. Gia Long nói xứ Nam Kỳ này không có núi cao, không có sông sâu. Còn đất phù sa thì dở quá, vô dụng. Ðến đỗi móc đất lên nắn con tú hú để thổi cũng không kêu. Ðó là “bất thành tu hú giả.” Duy có hai nghề phá sơn lâm đâm Hà Bá là dễ làm ăn. Nhưng lưới trời lồng lộng không ai chạy khỏi: phá rừng, chài cá khiến con người phải nghèo mạt…

Cả bọn cười vang lên:

-Hay! Hay! Bây giờ tới phiên ông Tư Châu Xương nói cho anh em nghe một chuyện khác.

Nghe đến tên ông Châu Xương, anh Tư Bình Thủy chợt sáng mắt lên. Ông này nước da đen ngăm, mặt mày hung tợn nhưng lòng dạ thiệt thà. Trong số tay rìu quen biết chỉ có ông là tử tế với anh nhứt. Bằng cớ là hôm trước lúc anh đau rét suốt ba, bốn ngày, ông cho đứa con gái lại nấu cháo và cho tiền để mua mấy chai thuốc phát lãnh hoàn. Cô gái ấy tên là Mịn, tuy đen đúa nhưng có duyên. Lúc ban đầu Mịn kêu bằng chú. Anh phải đính chánh lại rằng tuổi anh còn nhỏ, mới có hăm ba vì quá lăn lóc với sanh kế nên mau già đó thôi.

Sau rốt, Mịn chịu gọi anh bằng anh, Mịn săn sóc châu đáo lắm, nhiều đêm ngồi quạt khói un muỗi cho anh đến quá mười giờ đêm mà không về. Những đêm về khuya đó, anh không bao giờ nghe tiếng ông Tư Châu Xương rầy con gái. Trái lại, có đêm nhiều khi cô Mịn bơi xuồng đến thăm anh một lần thứ hai.

-Ba của em sợ anh đắng miệng, biểu em đem qua anh điếu thuốc rê này. Ba nói hễ khi nào anh hút thấy ngon là trong mình bớt đau.

Ðêm thanh vắng, giữa tứ bề rừng bụi, anh Tư lúc ấy thấy vui sướng không cùng. Anh cố tình nói một câu để dọ thử tấm lòng cô Mịn:

-Làm ơn thì làm ơn cho trót. Không lẽ tôi phải bước xuống sàn lại đằng bếp un để châm thuốc hút. Nhờ em đốt dùm.

Mịn e thẹn:

-Hồi giờ, em đâu biết đốt thuốc. Hay là em gắp cục than cho anh.

-Tội nghiệp. Bộ cô muốn đốt tôi luôn sao? Có gì là đắng. Cô cứ ngậm vô miệng, hút một hơi cha cháy trước.

Và Mịn đã ngoan ngoãn nghe lời của anh. Ðiếu thuốc rê hôm đó ngon làm sao!

Cô Mịn đã xuống về từ lâu mà anh còn ngồi đó, tiếc cái tàn thuốc đã cháy tới da tay, tâm trí mơ màng nhớ đến đôi mắt của Mịn, đôi mắt đen như nước rừng, có đôi vì sao chiếu xuống ngời lên lấp lánh…

Ông Tư Châu Xương bắt đầu kể chuyện. Anh Tư Bình Thủy lập tức ngồi dậy. Nghe có tiếng cưa củi, anh đoán chắc hôm nay thế nào cũng có cô Mịn đến giúp cha.

Ông nói:

-Hai Cờ Ðỏ nói dứt cái sấm truyền của vua Gia Long. Bây giờ tôi xin nói tiếp về lúc Tây qua đánh thành Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ. Tôi cắt nghĩa tại sao lính Tây có mang mỏ neo ở bâu nói, tại sao trên đồng bạc trắng của Tây có chạm hình người đàn bà…

“Năm đó, Tây kéo tàu binh tới bến Long Hồ. Tụi nó bắn súng lên. Bên này, binh của An Nam mình lập tức nã đại bác thần công xuống. Hai bên kịch chiến khá lâu. Lính Tây chết nhiều quá. Quan đề đốc của Tây ra lịnh kéo neo rút lui về Mỹ Tho.

Thừa cơ, bên mình bắn súng như mưa bấc. Lính thủy Tây ráng sức kéo neo nhưng không xuể. Vì vậy, tàu chạy thối lui không được. Dè đâu, lúc đó trên tàu Tây một con đầm xuất hiện ra, tay cầm cờ phất tới. Ðó là vợ của quan đề đốc đứng ra thay chồng để xua binh đổ bộ lần thứ hai. Nhờ vậy, Tây thắng, chiếm thành Long Hồ. Sau đó, tụi nó nhớ ơn cái mỏ neo với con đầm nên mới ra lịnh ghi lại kỷ niệm… Bởi vậy, đàn ông nhiều khi cần có đàn bà giúp mới làm được việc lớn. Và ở đời, nhiều khi cái chuyện rủi ro như cái mỏ neo nọ lại biến thành dịp may…”

Ông Tư Châu Xương dứt lời, ai nấy cười vang. Có người chêm vô một câu:

-Bây giờ tới phía Tư Bình Thủy. Tư Bình Thủy đâu rồi? Nó mê ông lắm đó ông Tư.

Anh Tư ngồi trong này nín khe, lắng nghe ngoài rừng thiên hạ gọi anh ngày một gấp!

-Ðâu rồi? Hay là thua bài cào hồi tối rồi ngã luôn. Hồi tối, tôi thua hai chục đồng, nó thua có năm đồng, nhằm nhè gì. Ông Tư Châu Xương đâu? Kêu… thằng rể của ông thức dậy coi…

Anh Tư Bình Thủy lắng nghe chờ sự phản ứng của ông Tư Châu Xương. Nhưng êm tịnh, chập sau, thấy Hai Cờ Ðỏ chống xuồng tới chòi. Anh giả vờ như ngủ mới thức dậy mà nói:

-Bữa nay bịnh quá, tôi muốn ngủ luôn. Kêu ra có chuyện gì không?

-Ra rừng rồi hãy biết. Ông già vợ của mầy chờ ở ngoải.

-Ðừng nói bậy, ông bắt lỗi thì sao?

-Cam đoan không bắt lỗi. Thằng Tư mâỳ biết không? Hồi nãy ông nói: đàn ông cần có đàn bà mới lập sự nghiệp được. Chắc là ổng muốn mở hơi gả con gái cho thằng Tư mầy.

Anh Tư Bình Thủy lội xuống rừng. Nước rừng quá lạnh, ngập khỏi lưng quần, khiến anh tỉnh táo lại. Anh cầm búa lội qua gốc tràm gần đó. Nể lời yêu cầu của người chung quanh, anh không thể chối từ:

-Tôi chỉ biết bài thơ ông Tiều. Bà con có đọc Lục Vân Tiên đều biết. Tôi không muốn nói ra vì nó chua chát quá. Tay rìu đời nay là ông Tiều đời xưa đầu thai lại chớ gì…

Tiều rằng: Vốn lão tinh thông,
Một mình thơ thẩn non lòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gia mặc lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quí mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.

Giọng của Tư Bình Thủy khá trong trẻo nên hấp dẫn được người nghe. Mặc dầu đó là tâm sự của người xưa nhưng những người lưu lạc ngày nay cũng nhờ đó mà sống lại đôi phút giây mát mẻ, thơ mộng. Họ im lặng nhìn nhau, chờ đợi lời bình luận sôi nổi. Cô Mịn liếc qua Tư Bình Thủy như khâm phục, hãnh diện.

Nhưng từ trong rừng, kìa tên cặp rằng Be chống xuồng ló ra. Hắn mặc áo bành tô vàng, miệng ngậm ống vố, hất hàm lên:

-Ê Tư Bình Thủy nói dóc cái gì đó? Thằng này bữa nay bày đặt o mèo nữa hả? Thi phú của mầy ăn nhập vào đâu?

Tư Bình Thủy trợn mắt nhìn cặp rằng Be. Hắn nhếch mép:

-Nói chơi không được nữa hả? Tao cho mầy hay: Cô Mịn muốn có hạnh phúc thì hãy tìm một người giống như tao. Cô sẽ có áo bông quần lãnh.

Rồi hắn day lại cô Mịn mà cười:

-Phải vậy không cô Mịn? Cưa củi làm chi mà áo rách vai, rách ngực. Người ta thấy da, thấy thịt của cô kìa… Cô dòm lại coi… trắng xát.

Nhanh như chớp, Tư Bình Thủy xách búa lội nước đùng đùng lại gần xuồng cặp rằng Be mà chửi:

-Ỷ làm cặp rằng hả? Ðồ tục tỉu! Tao chém mầy!

Cái chuyện cầm búa hăm he chém người như thế ra rất thường giữa cuộc làm ăn hỗn độn này. Ông Châu Xương, ông Hai Cờ Ðỏ thấy chưa cần can thiệp, vì ông biết cái tật xỏ lá của cặp rằng Be. Ðúng vậy, hắn vội vã chống xuồng ra xa rồi dừng lại, nói vài câu để cứu vớt thể diện:

-Bà con ơi! Thằng con nít thất học này làm gì mà biết thi phú, kinh sử. Nó nói dóc.

Tư Bình Thủy nói lớn:

-Thằng nào nói dóc? Chú mầy mới là thằng nói dóc. Hồi qua Bình Thủy rủ tao xuống đây, mầy nói ở dưới này sướng lắm. Sao mầy không nói ở dưới này muỗi mòng đỉa vắt nước ngập ngang lưng quần, nhà cửa không có. Mầy lại còn bày đặt chứa bài cào lấy xâu. Mồ hôi nước nắt của dân tứ xứ bị mầy cướp ráo.

Cặp rằng Be đành đuối lý, chống xuồng đi. Hắn nói với lại:

-Tao cho Tây hay. Nó vô bắn nát óc mầy. Xứ này, xứ của tây mầy biết chưa?

“Xứ này, xứ của Tây.” Mấy tiếng đó khiến cho ai nấy cười rộ lên, cười chua chát thiếu điều ra nước mắt. Gió rừng ngừng lại. Nước rừng bừng tỉnh soi rõ từng lá cây, dáng người. Chập sau, ông Tư Châu Xương nói ôn tồn:

-Mình dốt nát không biết tích Gia Long tẩu quốc, tích Tây đánh thành Long Hồ, nhưng chắc chắn mình không bao giờ nói một câu quá trật lất như thằng cặp rằng đó. Hơi đâu mà phiền, Tư Bình Thủy ơi! Trăm sự chỉ vì sinh kế. Ông Tiều này xưa nào có lúc rảnh rang tâm trí. Hồi nãy đọc thơ Lục Vân Tiên, cháu quên mấy câu trước: Mình rằng: đây đó hỏi han, xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau. Nhưng ông Tiều không được rảnh: Tiều rằng: chẳng dám nói lâu, bởi vì còn phải vào rừng đốn củi bán hầu chợ phiên.

Trăm sự cũng bởi đồng tiền. Bây giờ, mưu kế hay nhứt là tối nay cháu lại nhà bác. Bác chỉ cho ni tấc từng cây cột, cây kèo. Mình nến thừa dịp này mà ăn cắp… của Tây một bộ cột. Cứ đốn sẵn, nhận lấp dưới sình. Hôm nào thuận lợi, mình sẽ lưu đi. Mai kia mốt lại, cuộc phá sơn lâm này mãn, chắc chắn thế nào mình cũng lời được một cái sườn nhà. Cháu chịu vậy không?

Anh Tư Bình Thủy liếc sang cô Mịn rồi cúi đầu trả lời nhỏ:

-Dạ, bác thương con cháu. Con cháu đội ơn bác không hết chớ có dám cãi lại bao giờ.

Sơn Nam

 

 

Chèo Xuồng Chị Về Ngoại - Nguyễn Đạm Luân

 Chèo Xuồng Chị Về Ngoại




Cánh Đồng Cà Mau , Vựa Cá Mắm Thiên Nhiên Trời Dành Cho Dân Việt - Vương Hồng Sễn

 

 Cánh Đồng Cà Mau, Vựa Cá Mắm Thiên Nhiên Của Trời Dành Cho Dân Việt




 

Ăn Cơm Mới, Nói Chuyện Cũ: Hậ­u Giang – Ba Thắc được Vương Hồng Sển viết năm 1974, duyệt lại năm 1978; là những gì ông chưa viết trong Hơn Nử­a Đời Hư, và cũng được gọi là hồi ký.

Những nếp sinh hoạt, các sự kiện, nhân vậ­t và đất đai thủy thổ của Miền Nam cũ, đặc biệt là vùng Hậ­u Giang hồi đầu thế kỷ trước được kể lại và so sánh với thời điểm ông viết. Các mốc thời gian lùi dần theo dòng hồi ức, cũng tiện cho người đọc hôm nay — khi đọc, sẽ đặt mình ở điểm “giữa” tức khoảng năm 1974); chúng ta có cái lợi thế được thấy quá khứ của một vùng dất mới và cả “tương lai” mà tác giả lúc đó chưa thể biết.

oOo

Con sông lớn Mỹ Công (Mékong) từ Tây Tạng chạy suốt trên bốn ngàn cây số bề dài, như con rồng chín khúc (Cửu Long giang), xuyên qua Tây Tạng, Trung Hoa, Lào quốc, Cam-bu-chia và Việt Nam. Khi nhập vào đất Nam, nó chia làm hai nhánh con sông Tiền và con sông Hậu, và đèo thêm hai cái “túi thật lớn” chứa giữ nước dư ối là vùng Tháp Mười về sông Tiền và vùng Cà Mau về sông Hậu. Nhờ hai túi nầy đủ sức chứa nước thặng dư vào mùa nước đổ mà Miền Nam khỏi nạn lụt như Miền Bắc đã bị con sông Nhĩ Hà làm khổ mỗi năm. Nghĩ trời sanh cũng ngộ: sanh ra sông dữ thì có đất hiền, bù qua chế lại. Trên Miền Bắc, đê bọc sông và khi đê vỡ thì cả vùng ngập lụt chết chóc. Trái lại ở Cam-bu-chia nhờ có Biển Hồ (Tonlé sap), mỗi năm chứa nước từ cao nguyên chảy xuống, bao nhiêu cũng rút về đây rồi sẽ chảy đi nữa. Biển Hồ là cái túi “lộc trời” dành sẵn: cá tôm lúc nhúc kẹo lền, nuôi đủ một dân tộc. Sở dĩ ngày xưa Đế Thiên Đế Thích được xây dựng là nhờ người Cao Miên cổ đã biết lựa vị trí gần hồ cá tôm Tonlé sap.
Nhớ lại câu hát xưa:

“Nam Vang đi dễ, khó về,
Đàn ông có vợ, đàn bà có con
”.

Câu nầy có đến hai nghĩa: nghĩa thứ nhứt, vì xứ dễ làm ăn, cá tôm rẻ mạt cho nên đàn ông lấy vợ, đàn bà lấy chồng rồi ở luôn trên ấy. Nghĩa thứ hai là ngụ ý đàn ông trai tráng đất Việt lên Nam Vang xứ Thổ, thường đi làm cá mắm trên Biển Hồ cực nhọc vô ngần và bởi lấy vợ tại chỗ, sanh phương lập nghiệp dính gốc dính rễ luôn trên ấy. (Trừ phi ngày nay chiến chinh chánh trị không cho phép, chớ trước kia cách nay vài chục năm Sài Gòn và Nam Vang có xe đò chạy liền liền hằng bữa, người dân có một giấy thông hành tùy thân là lên xuống thong thả, không đợi phép tắc gì).

Người dân Việt ở Nam Vang thuở ấy vẫn được kính trọng và chiếm nhiều địa vị quan trọng trong chánh phủ cũng như trong nhiều ngành kỹ nghệ, trừ có ngành thương mại là luôn luôn vẫn ở trong tay người Trung Hoa nắm giữ.

Còn nói gì đàn bà con gái Việt, làm gì nước da cũng trắng và vóc giạt cũng thanh hơn gái Thổ, cho nên đừng lên đất Nam Vang thì thôi, chớ bước chân lên rồi là khó có đường về, dầu tệ cũng được chấm ngay, rồi sanh con đẻ cháu, chằng chịt dây tình, làm sao nói ra mà về đất Nam lại nữa?

Mặc dầu vấn đề chánh trị ngày nay chia cách chớ trong xã hội bình dân, người Miên và người Việt không quá chia cách như nhiều người lầm tưởng. Sự đồng hóa và sự giống nhau rất gần, nhứt là ở đất Hậu Giang, kể từ Châu Đốc xuống tận mũi Cà Mau, người Miên, người Việt vẫn sống chung đụng với nhau từ nhiều đời và ít khi có xảy ra chuyện rắc rối. Người Miên có tánh hay mắc cỡ và ít nói, cho nên biết tánh họ rồi thì người Việt ở chung với họ lâu năm cũng tập tánh ít nói và bắt chước sụt sè như họ cho dễ làm ăn dễ thù tạc vãng lai. Duy khi nào có tửu nhập tâm, có vài ngụm ba xi đế “khai khẩu”, thì khi ấy mặc tình cho đôi bên “phá thạch”, cười nói như bắp rang, và hết sụt sè. Nghĩ cũng ngộ cái câu liên lạc làm cho hai dân tộc càng thêm khắng khít nhau lại là tiếng chửi thề qua lại, thế mà không giận. Và có lẽ vì ít nói nhưng giỏi thực hành, nên thốt ra tiếng nào là có kết quả tiếng đó. Cho nên đừng lấy làm lạ sao giống Việt lai Miên và Miên lai Việt ngày nay quá đông đảo như vậy.

Nghĩ cho hai giống dân, một đàng chịu nhiều văn hóa Ấn, ấy là người đàng Thổ, và một đàng hấp thụ nhiều văn hóa Tàu, ấy là người Việt, thế mà hai giống nầy hạp nhau đáo để và rất thích nhau vì xét ra vẫn có nhiều tiểu tật và nhiều đức tánh như nhau. Có thể nói không có dân nào có máu mê cờ bạc và mê rượu trà hơn người Miên và người Việt Miền Nam.

Họ nghèo sát giường sát chiếu, có khi gia tài chỉ còn một cái nóp làm sự nghiệp duy nhứt, ban đêm trải ra, chun vào đó mà ngủ vừa tránh muỗi đốt muỗi thiêu, vừa được ấm áp khỏi tốn chăn mền bề bộn, và mất tiền. Ban ngày cuốn lại quảy lên vai với ba mớ áo quần không đáng mấy đồng tiền, thân làm “con gặt” nổi trôi, đến mùa lúa chín, từ Tân Anh Vũng Gù, từ Vĩnh Long, Ba Càng, quảy nóp thả bộ xuống gặt mướn và cắt lúa chín cho các chủ điền lớn miệt Hậu Giang, Sốc Trăng, Bạc Liêu. Thế là trong đoàn làm gì cũng có một vài anh tài tử, vai quảy nóp, tay xách lưỡi hái, còn tay kia ôm trum trum một con gà nòi đá độ. Đó là con vật cưng nhứt trong đoàn, vừa là anh quân canh trung tín đánh thức giấc buổi rạng đông, vừa là lá cờ đại diện của nhóm dân nghèo, đến xứ lạ cáp và đá với gà Miên. Thua thì đồng thua tiền, hùn góp chút ít mua vui, còn nói gì thắng thì hỷ hạ hả hê cả đám. Có khi họ đem ống tiêu ống sáo theo, và khi ấy mặc sức xuy tiêu và đờn ca hát hò.

Người Miên cũng có con gặt của họ và cây lưỡi hái Miên vẫn có vẻ mỹ thuật và làm công phu hơn cây lưỡi hái của ta nhiều. Cây lưỡi hái Việt là một cháng hai có hai nhánh, thường là của cây ổi hay cây duối, cắt cưa rồi tra lưỡi thép bén là xong. Đó là khí cụ của nhà nông ta dùng mà cắt lúa gọn gàng từ nhiều đời lưu truyền lại. Cây lưỡi hái của người Miên vẫn khéo hơn nhiều. Họ lựa cho được một nhánh ổi già vừa tay cầm, phải có hình cong chữ “S”, họ cưa đúng cỡ, đem về cạo gọt tron bén, thui lửa rơm cho cây mau lên nước và cây mau có màu đen láng bóng, nơi hai đầu nhọn họ lại khắc sâu hình ốc sên cho thêm vẻ mỹ thuật, xong xuôi rồi mới tra lưỡi thép, có khi họ lại bịt bạc nơi khúc giữa chỗ cầm tay, và cây lưỡi hái ấy họ truyền tử lưu tôn nhiều đời trân trọng như một gia bảo. Đến mùa thì lấy xuống dùng, mãn mùa thì vắt vách thoa dầu dừa để gần bếp có khói xông cho khỏi mối mọt ăn.

Con gà nòi Miên cũng khác về tánh tình và khả năng. Gà Việt lanh lẹ chém dữ nhưng dở chịu đòn. Gà Miên tuy chậm chạp ít chém nhưng đá đòn chắc nịch, thêm giỏi tài chịu đựng, không bao giờ bỏ chạy bậy, và có nhiều độ khi đá đến nước khuya, con gà chém dữ bị đánh đau thấm đòn rồi bỏ chạy êm, trong khi ấy con gà lẽ đáng thua nhờ gan lỳ giỏi đứng chịu đòn, thét rồi con gà kia ít gan lỳ hơn bỗng vụt bỏ chạy và con gà đáng thua lại được cuộc, “phản độ” là vậy.

Người Miên và người Việt củi lụt làm ăn đã biết dư nhau những tiểu tật của mình nên càng gần nhau càng dễ tha thứ cho nhau và đã thầm lén đôi bên mua giống của nhau rồi gầy đúc lại giống mới. Gà Miên mái pha gà nòi trống Việt hoặc gà nòi Miên cáp với mái Việt sanh ra giống nòi lai mà đại diện trứ danh là gà nòi đất Cao Lãnh, vừa chém nhạy cựa, vừa giỏi chịu đòn. Tôi nếu không hư, thì đã không sa đà kết thúc đột ngột sánh người với thú và luận rằng xưa nay “nhơn vật đạo đồng”, và người Việt cũng như người Miên có lợi mà tương thân tương trợ nhau hơn là nghe lời đệ tam nhơn rồi cấu xé, chia rẽ nhau.

Tại Miền Nam còn sót nhiều câu hát:

Ai đua Sông Trước thì đua,
Sông Sau có miếu thờ vua thì đừng
”.

Đây là câu hát nhắc lại công lao vua Cao Hoàng Nguyễn Ánh đối với dân chúng miệt Hậu Giang.

Còn như câu:

Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc,
Gió nào độc bằng gió Nam Vang
”.

(cũng hát: “Đất nào dốc bằng đất Nam Vang”)

Ngọn gió thổi sang lạc vợ xa chồng,
Nằm đêm nghĩ lại nước mắt ròng ròng tuôn
”.

Câu nầy hiểu theo địa dư thì đời đàng cựu tại Châu Đốc xưa có đèn và cờ “Thủ ngữ” làm lịnh, còn đất Cao Miên vẫn cao ráo và dốc hẳn hơn Miền Ba Thắc đồng bằng. Hiểu một cách khác thì là lối tỷ hứng ám chỉ một đôi vợ chồng nào đó vì sinh kế chia tay nhau, kẻ lên Cao Miên tìm sở làm rồi ở luôn trên đó lập gia đạo mới, khiến cho người đàn bà bị bỏ rơi than thân trách phận, nghe mà não nuột.

Trở lại đề tài “Vùng Cà Mau là vựa cá mắm thiên nhiên”, thì có lẽ xứ Hậu Giang quả đúng là đất lành. Mấy năm trước cá mắm không biết làm sao cho hết. Mùa nước đổ tôm càng xứ Sa Đéc nhiều cho đến đỗi lấy thùng thiếc đong mà bán và năm 1927-1928, lúc tôi còn làm việc ở đó tôi từng mua một đồng bạc đến bốn thùng thiếc tôm tươi, thứ thùng mười tám lít. Còn bắp trái trên cây bẻ xuống bán mỗi trăm là hai cắc bạc (0$20) thiệt là rẻ mạt. Muốn ăn tôm càng tươi nướng lửa lò, chỉ cần sắm đủ đồ gia vị và rượu ngon rồi đề huề cùng năm ba bạn tri âm xuống tam bản chống ra ruộng nước ngập mùa tháng tám tháng chín sẵn đêm thanh gió mát trăng nước đầy thuyền, mặc tình vừa ca hát vừa chống chèo lựa mấy chiếc xuồng câu giăng của mấy chị mười lăm mười sáu tuổi, trả năm ba xu cao lắm là một cắc một hào rồi trút hết cả giỏ tôm càng, tha hồ nhậu nhẹt.

Lò sẵn lửa sẵn vừa ấm vừa vui, tay nướng tôm tay nâng chén rượu, tôm chín bẻ đầu vứt bỏ cục đen đen còn lại gạch tôm chan một muỗng nước mắm ngon, kê miệng húp gạch vô tới đâu béo tới đó, thiệt là khoái khẩu, khoái tận mây xanh. Ăn xong đầu tôm, lấy một miếng bánh tráng (bánh đa), vói lấy con tôm lột vỏ bỏ đuôi kẹp mấy cọng rau thơm rồi chấm hết vào tô nước mắm, cười nói giòn tan, canh càng khuya trăng càng tỏ, rượu càng thêm hứng chí, quên hết sự đời. Thiệt rất khác với cảnh ngày nay, ban đêm không dám nói ra khỏi mùng mà còn sợ tai họa từ đâu bay đến. Tính coi năm 1928, ở Sa Đéc, bốn thùng thiếc tôm giá một đồng bạc, còn nay một con tôm ướp lạnh trả ba trăm bạc, không bán, nên ngày nay cái thú ăn tôm càng nướng chỉ còn trên giấy trắng, và trong trí nhớ.

Theo con nước đổ, xuống nữa là tới Chợ Vãng (Vĩnh Long), có cá thu cá hồng con thì kho rục (như) con thì nấu mẳn ngon lành. Xuống thêm chút nữa và gặp mùa gió bấc lai rai có sa mù nhiều, ấy là mùa cá cháy của vùng Trà Ôn, Cầu kè chạy dài xuống Vàm Tấn (Đại Ngãi, Sốc Trăng). Đây là con cá đặc biệt và ngon nhứt của xứ Hậu Giang, xưa không tiến vua được vì chài lên khỏi nước là cá đã chết không rộng không để dành được phút nào. Nhưng một con cá cháy tươi, mười cỗ cơm Tàu Chợ Lớn không đổi. Cá cháy xương rất nhiều, thêm xương có cháng hai rất dễ xóc vào miệng vào mồm, những kẻ láu táu là biết với nó. Duy thịt cá tươi thì ngon ngọt vô cùng, và không biết mua gặp cá bủn thì nuốt không vô. Cá cháy trống, ăn nướng nguyên con dầm nước mắm Hòn là ăn quên thôi, nếu có chút bơ thoa vào là ngon tuyệt. Cá cháy mái, đến mùa đẻ lên sanh trên sông Hậu khúc Trà Ôn, Đại Ngãi, bụng trứng óc nóc, khi vớt lên được, hoặc nấu cháo là ngon đáo để, hoặc kho một lửa với nước dừa, ăn với bún thì và không kịp đếm, hoặc ăn với cơm thì cơm bới quên thôi. Nhưng tôi xin dặn nhỏ, đừng vì lạ miệng mà ăn quá chén, nhứt là lựa trứng ăn nhiều, qua bữa sau ngồi đâu rịn đó, nhớ đem tã theo mà lót! Trứng cá cháy có rất nhiều dầu, nên béo ngon là phải. Tiếc thay từ ngày có binh lửa, cá nầy biến mất trên con sông Hậu, kẻ thì nói vì giờ thiết quân luật quá nghiêm, người chài lưới không ra đúng giờ nên không bắt được cá, kẻ khác, khoa học hơn, thì cho rằng khúc sông từ Đại Ngãi lên Trà Ôn bị tàu chạy xả dầu quá nhiều, nước bị ô nhiễm, cá cháy sống không được nên đã di cư nơi khác. Con cá cháy ở Vũng Tàu, một đôi khi cũng có bán, nhưng thịt cứng không ngọt, có lẽ vì cá nầy ở biển mặn, không bì con cá cháy ở Trà Ôn sống lâu ngày trong nước ngọt nên thịt có khác.

Xuống thêm nữa thì tới miệt Bạc Liêu, tôm lóng và tép bạc kẹo lền đầy sông, ăn tươi không hết phải phơi khô, còn vỏ tôm thì lấy làm phân bón trồng dưa hấu bán tết và trồng rau cải. Xứ Bạc Liêu có rất nhiều cá chốt và một thi sĩ vô danh nào đã để lại một câu hát độc địa:

“Bạc Liêu nước chảy lờ đờ,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều Châu
”.

Lấy cá chốt là loại ăn bẩn ăn do đem so với người Tiều, tức người Trung Hoa sanh trưởng ở huyện Triều Châu, thì ác miệng thật. Nếu tác giả câu nầy từng thấy gái Tàu gốc Tiều lai Miên, thì ắt không sáng tác câu hát ác độc kia.

Từ Bạc Liêu đi một đỗi gặp một cánh đồng thấp phì nhiêu vô cùng, nhưng đặc biệt là nước sông rạch đều một màu đen thâm gần như mực xạ. Tiếng Cao Miên gọi “srock tực khmau”, dịch “sốc nước đen”. Ông bà chúng ta Việt hóa thành Cà Mau, chớ không phải “Cà Mâu” như nhiều đồng bào thường viết và đọc.

Như đã nói, sình sát bên thuyền, hai đứa đi sau đẩy một cái thúng thật lớn trong có nước lấp xấp chứa đầy cá, còn hai đứa đi trước thì chuyên việc bắt cá cho vào thúng. Mà chớ chi chúng nó bắt một cách khổ nhọc thì cũng đành, đàng nầy chúng nó làm như giả ngộ, bắt dễ ợt mà cá ở đâu để chúng bắt được quá nhiều. Nhiều thật nhiều chớ không chơi. Tính coi chúng nó lấy tay vét sơ dưới bãi một lỗ trũng tròn tròn như lòng chảo, vừa bằng một cái rổ trẹt trẹt, chúng bẻ sơ hai lá dừa nước che lúp xúp cho mát cái trũng, xong rồi một đứa lấy tay bốc một bốc cám rắc sơ sài nơi miệng trũng, – tôi viết chưa hết câu, – thế mà không biết cá ở đâu thoạt tuông vào “nghe một cái ồ”, cá đầy nhóc lỗ trũng và toàn cá ôi là cá, lúc nhúc nhảy soi sói, chúng nó chỉ còn xúc qua thúng rồi đẩy cái rổ tới trước, tiếp tục cái việc bắt cá dễ như trò chơi mà có ăn thiệt. Thiệt là quá sức tưởng tượng.

Tuy vậy, cái xứ cá đầy thúng nầy, nước vẫn đục và đen ngòm, truy ra vì đó là nước ứ đọng từ lâu năm trong những gốc mục của rừng dừa nước quanh năm chầy tháng lá dừa và bẹ dừa nước mục nát hết đi và tiết ra một chất mủ đen làm cho nước dưới chưn rừng dừa cũng đen theo, chảy lờ đờ quanh đi lộn lại, cũng hoàn chỗ cũ. Nước nầy xem lại chứa đựng rất nhiều sinh vật, đặc biệt nhứt là con ba khía, tức một loại cua còng nhỏ con, tới mùa nó leo lên cây không biết cơ man nào mà kể. Người thổ dân bắt ba khía cho muối vào làm ra thứ mắm để ăn quanh năm và dân nhà giàu Ba Thắc không nệ hà đãi khách sang bằng mắm ba khía khi nêm chanh ớt cho dịu, vì ba khía để dành lâu “ăn rất bắt cơm”. Ngoài ra trong nước còn chứa loại cá nước mặn và vô số tôm tép cua rùa, v.v…

Nước ấy tuy đen vì là nước trầm thủy, nhưng không độc. Người xứ Cà Mau vẫn dùng để ăn để uống và pha trà, duy người lạ đến đây thấy vẫn ngờ ngợ nhát uống. Coi vậy mà đó là nước mưa pha lá dừa nước, uống không sanh bịnh tật duy màu khó coi, không như nước nơi rừng khác thấy trong veo đẹp mắt mà uống độc bất ngờ. Cũng vùng Cà Mau có giống tràm mục lưu lai nhiều đời, lá rụng cây ngã giữ nước đọng lại rồi nát thành bùn, biến ra một chất “than đá non” “nê thán” (tourbe), xắn vuông vắn phơi cho khô, chụm rất tốt. Đó là một nguồn hoa lợi rất lớn về tương lai mà nước ta chưa khai thác vậy.

Vương Hồng Sển

(Chọn Lọc số 10 ngày 30-1-1966)
(Duyệt 2 VI 78)

Nguồn: E-Book Biên Khảo

 

 

Quán Ba Cô - Huỳnh Kim Thanh

 

Quán Ba Cô



     Hồi đó, thời chiến tranh vừa mới leo thang, tôi đang sống gần vùng sông Vàm cỏ Đông, Long An. Con đường từ Đức Hòa đi Lương Hòa là một lối mòn trải đá đỏ nối Vàm Cỏ Đông và hương lộ đi Hựu Thạnh từ Đức Hòa. Hai bên đường đất đỏ là vườn mía hoặc khóm còn không thì chỉ có năng dại mọc đầy hầu hết quanh năm. Phương tiện di chuyển thời đó là xe Lam (Lambretta) hoặc xe thổ mộ ( xe ngựa kéo). Xóm Lương Hòa được hai danh tiếng: nhất là có khóm ngọt như đường, hai là gái đẹp. Các nàng thiếu nữ Lương Hòa thời đó được tiếng là biết cách ăn diện, ăn mặc đúng thời trang, nói năng hiền hòa dễ thương. Lúc tôi còn học lớp nhất trường làng, có học chung hai cô người Lương Hòa, phải nhận là thiên hạ đồn đại chẳng sai.
    Trở lại câu chuyện cuối thập niên sáu mươi, Lương Hòa là một xóm nhỏ đang trong đà vươn lên, dân chúng dọn về từ nhiều nơi làm địa phương nhỏ nầy ngày thêm phồn thịnh. Hàng quán đủ loại mọc lên như nấm. Dọc bên con kinh nhỏ chảy ra Vàm Cỏ Đông có một quán cốc gọi quán Ba Cô. Như cái tên đã biểu lộ, quán này được cai quản bởi ba cô thiếu nữ tuổi chừng hai mươi đến hai mươi mấy.
    Không ai rõ tông tích của ba cô hàng nước cả. Chỉ biết mỗi người có một nét đẹp khác nhau, đúng như câu trong Kiều:
    Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
     Cô trẻ nhất tên là Phượng, tính tình liến thoắng, nhanh nhẹn, lúc nào cũng cười tươi như hoa mới nở. Cô kế tên là Nhung, tính thùy mị ít nói, có mái tóc bồng bềnh, dài đen kịch như dòng suối ban đêm. Cô thứ ba tên Lan. Nàng lúc nào cũng mang nét buồn sâu kín. Ánh mắt u ẩn như những nàng kiều nữ trong truyện Liêu Trai.
     Từ lúc có quán Ba Cô, xóm nhỏ ven sông trở nên rộn rịp khác thường. Các chàng lính địa phương cũng như các chàng hải quân khi tàu về ngang đều hay tới lui la cà, ăn nhậu hoặc tán tỉnh ba nàng. Có chàng tán tỉnh lộ liễu, có chàng đi nước trầm lặng hiền buồn. Nhưng ba nàng thì hầu như chưa chấm ai cả...
    Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi như nước sông Vàm cỏ lặng lờ cuốn đi mang theo phù sa và đám lục bình hoặc những cành tràm mục nát hay những tàu dừa nước. Các chàng cứ tán tỉnh ba cô nhưng chưa chàng nào được rơi vào mắt các giai nhân.
    Mùa mưa đến làm mát mẻ cả một vùng quê hẻo lánh. Nước sông dâng cao mang thêm nguồn sống cho cả một vùng sông rạch miền Nam. Một buổi chiều khi bóng đêm vừa sắp bủa giăng trên xóm nhỏ gần quán Ba Cô, một chàng từ phương xa tới, đến ngồi vào một góc trong cùng của quán cốc, gọi bia 33, uống tì tì chẳng nói, chẳng rằng. Trong quán cũng có vài chàng lính địa phương, vài anh hải quân lạc đàn ngồi ăn nhậu.
    Lần đầu tiên, có người để ý sẽ thấy một nụ cười kín đáo nở trên môi nàng Lan. Nàng đến bàn người khách lạ và hai người thù thì với nhau khá lâu, không ai nghe được đàm thoại của hai người.
    Trời chợt đổ mưa tầm tã. Sấm chớp liên miên làm át cả tiếng cười nói trong quán Ba Cô. Người khách lạ rời quán từ lúc nào không ai hay biết. Nàng Lan trở về quầy ngồi. Mái tóc nàng xõa dài trên bờ vai tròn lẳn, màu đen huyền hoặc như bóng đêm ngoài kia. Tiếng nhạc buông lơi, khắc khoải gợi nỗi buồn xa xứ. Hai người đẹp kia vắng bóng đêm nay.

° ° °

    Vài hôm sau, xóm nhỏ ven sông nhộn nhịp hơn. Các tiểu đĩnh HQ về nhiều hơn trước. Các nàng trong quá Ba Cô bỗng dưng vui vẻ hơn mọi khi. Khách tứ chiếng giang hồ về đông đảo, tới lui tấp nập. Nghe đâu sắp có cuộc hành quân gì đó, địa điểm chính xác không ai biết.
    Một trong những cây si của cô Lan có chàng Thiếu úy quân báo tên Bảo. Chàng này thì cũng thuộc hạng ít nói, trầm lặng. Thường thường sau giờ trực hay công tác, chàng hay đến ngồi vào một xó tối khuất những ánh mắt tò mò của bọn đàn ông khác, uống bia lai rai. Thỉnh thoảng liếc người đẹp Lan đang ngồi ở quầy tính tiền.
    Chiều nay trong quán còn có vài tên cố vấn Mỹ. Lúc đầu ai cũng nhìn tụi Mỹ một cách tò mò. Sau thì chẳng ai thèm để ý nữa. Điều mà ai cũng hơi ngạc nhiên là các nàng đều nói thạo tiếng Anh. Ở chỗ hẻo lánh như thế này mà có người thạo tiếng Anh thời đó thì cũng kể là hi hữu. Các nàng đột nhiên tỏ ra thân thiện với khách hơn trước nhiều. Đêm đó, nếu có ai tinh ý sẽ thấy khi quán đóng cửa, chàng Bảo vẫn ở nán lại qua đêm. Tờ mờ sáng hôm sau, bác bảy ở gần xóm thấy chàng Bảo rời quán Ba Cô và biến dạng sau vườn mía bên hông nhà bác Tư thợ mộc..
    Trời tháng mười mang gió lạnh về trên vùng quê hẻo lánh. Dòng sông Cái vẫn trôi lặng lờ nặng trĩu phù sa. Mùa khô như những người quen với chiến cuộc miền Nam hay gọi cũng là mùa chiến tranh sôi động hơn. Những đơn vị chính qui bắt đầu xâm nhập từ biên giới Việt Miên và tấn công các đơn vị Cộng Hòa. Cuộc hành quân được đồn đại mấy tuần qua không hề thấy xảy ra.
    Quán Ba Cô vẫn tấp nập như bao giờ. Có khác hơn trước chăng là lúc nầy nàng nào cũng có một anh bồ: Nàng Lan và chàng Bảo, nàng Nhung và một Thiếu Úy truyền tin, còn nàng Phượng thì khăng khít với một chàng Quan, thiếu úy HQ trong toán giang đĩnh hay lui tới trong vùng.

° ° °

    Đêm nay trời im gió. Vầng trăng thượng tuần nằm vắt vẻo trên đám dừa nước bên kia sông. Dòng sông Cái chảy lừ đừ mang nặng phù sa bồi đắp lên mọi vùng sông lạch. Tiếng côn trùng hòa lẫn tiếng cóc nhái, ễnh ương ra rả như một dàn nhạc hòa tấu đang trổi khúc nhạc thiên nhiên. Quán Ba cô đã đóng cửa từ lâu. Những túp nhà tranh le lói đèn, phản ảnh trên mặt sông làm tăng vẻ đìu hiu hoang vắng của vùng quê hẻo lánh. Có tiếng đối thoại của hai người sau bờ giậu um tùm sau quán Ba cô.
- Anh không nên đi ngày mai.
- Tại sao?
- Nguy hiểm lắm.
- Sao em biết là nguy hiểm?
- Em biết
- Nhưng anh không thể từ chối lệnh trên, hơn nữa, anh không nghĩ rằng những lo sợ của em có căn cứ.
- Em không thể cho anh biết nhiều hơn thế. Tin hay không tùy anh.
    Rồi hình như hai người chia tay ngay sau đó.
Cơn mưa cuối mùa chợt đổ xuống như thác lũ. Những tàu dừa dong đưa trong bóng tối như những cánh tay ma quái. Vài cơn chớp lóe lên trên vòm trời sẩm tối, soi sáng mặt sông đang cuồn cuộn chảy. Rồi bóng tối trở về bao trùm cả một vùng quê.

° ° °

Cuộc hành quân bắt đầu sáng sớm hôm sau khi mọi người còn mê ngủ. Địa điểm hành quân chỉ được tiết lộ sau này, cách Trà Cú không xa. Tiếng súng liên thanh từ gunship và tiểu đĩnh hải quân vang động cả một vùng. Những người dân trong vùng Lương Hòa thì thầm to nhỏ vài ngày sau đó. Cuộc sống trở lại bình thường như những ngày trước kia. Quán Ba Cô lại đón tiếp các chàng chiến binh từ nhiều binh chủng. Một điều đáng chú ý là người ta không còn thấy chàng sĩ quan truyền tin lui tới quán Ba Cô. Có người nói chàng bị thuyên chuyển đột ngột. Có người bảo rằng chàng bị tử thương trong trận đánh vừa rồi. Còn chàng thiếu úy HQ thì bị thương nơi bả vai.

° ° °

    Buổi sáng ban mai rực rỡ chan hòa theo từng giọt nắng sớm tràn ngập trên bãi dừa ven sông, bao trùm ruộng mía, loáng loáng trên mặt sông Cái. Những chiếc ghe đi buôn dập dìu trên sông. Đoàn giang đĩnh đã đi về hậu cứ gần hết, chỉ còn vài chiếc lẻ tẻ. Quan rảo bước về quán Ba Cô. Chàng phải gặp Phượng để nói việc quan trọng.
Quán có vẻ vắng hơn mọi hôm. Phượng ngồi một mình ở quầy tính tiền. Tiếng nhạc tình đong đưa, khắc khoải gợi nhớ thủa hẹn hò nào xa xôi, hiu hút. Chàng tiến đến quầy, nhìn Phượng nói khẽ:

- Anh muốn nói chuyện riêng với em.
- Ngay bây giờ?
- Nếu được
    Rồi nàng mang bia và đem đến bàn, ngồi xuống cạnh Quan. Hai tia mắt nhìn nhau dò xét.
- Anh muốn biết do đâu mà em biết được bọn nầy sắp hành quân?
- Mọi người ai lại không biết. Mấy đàn em của anh nói bô bô cả tuần trước.
- Nhưng tụi nó chỉ biết sơ sơ thôi, đâu biết nhiều về địa điểm và chi tiết khác..
- Thì người khác cho biết chi tiết rõ hơn..
    Quan ngập ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Anh muốn nói những gì em biết về bên kia cơ.
- À..Em không thể cho anh biết nhiều về chuyện này được.
- Tại sao?
- Bí mật nhà nghề.

- Em muốn nói em có người quen bên kia?
- Không nói được!
    Im lặng bủa vây chỗ hai người đang ngồi. Quan nhìn ra xa về phía bờ sông, suy nghĩ bâng quơ. Chàng tự hỏi có nên tiếp tục cuộc đối thoại hay không. Nắng mai bây giờ chan hòa mặt sông, những con đò đưa khách đã bắt đầu tấp nập. Tiếng cười nói vang dội cả một vùng phụ cận. Quan lẵng lặng uống hết ly bia rồi đứng lên và trả tiền. Chàng bước ra khỏi quán quên cả lời từ giã. Phượng lặng nhìn theo, không thắc mắc một lời.
    Quan rảo bước về phía con đê dọc vườn mía ngang hông quán Ba Cô. Chàng tự nghĩ, tình cảnh trở nên phức tạp hơn chàng tưởng. Lần đầu tiên chàng nghĩ đến sự phức tạp của chiến tranh. Giới tuyến trở nên nhạt nhòa khó phân biệt hơn bao giờ. Biết đâu người bạn gái mình tin tưởng lúc này chính là người đang làm cho bên kia. Biết đâu mình đã hớ hên tiết lộ những gì không nên tiết lộ. Còn những tên đàn ông khác, những tên đang theo tán tỉnh ba cô hàng ven sông..Họ đã nói gì với nhau, chỉ có trời mới biết..Mỹ nhân kế của bên kia chăng? Mà sao cả ba cô đều dẹp duyên dáng và nói tiếng Anh thạo nơi vùng quê hẻo lánh này? Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng trong ý nghĩ mà câu trả lời ổn thỏa thì không tìm ra.. Còn nàng Lan và nàng Nhung thì sao. Hay họ cùng một tổ?
    Đang nghĩ ngợi miên man thì Quan thấy nàng Lan đang đứng thì thầm với một chàng nào mặt hơi quen giữa chiếc cầu tre vắt vẻo nối qua con lạch nhỏ cách chỗ chàng đi chừng trăm thước.Chắc chắn mình đã gặp chàng này đâu rồi, Quan tự nghĩ. À, chàng chợt nhớ ra. Anh chàng nầy chính là anh khách lạ ngồi uống tì tì ở một góc tối vài tuần trước chớ ai xa lạ! Quan giả vờ như không nhìn thấy hai người và rảo bước về phía con đê đẫn về phía bờ sông Cái.
    Nắng đã lên cao. Vài cụm mây trắng trôi lang thang về phương trời vô định. Những người dân quê đang làm việc cần cù trong ruộng mía hoặc vườn cây trái xa xa. Con nước đang lên tràn đầy sức sống. Quan trở về bãi đậu của chiến đĩnh.

° ° °

    Đêm tối như mực. Con nước ròng đã rút đi gần hết chu kỳ. Bầu trời đầy mây màu chì xám xịt.. Quán Ba Cô đã đóng cửa từ lâu. Vài ngọn đèn le lói từ những ngôi nhà lá ven sông. Đoàn tiểu đĩnh đã ra khơi tuần tiễu vùng phụ cận, trừ hai chiếc trừ bị còn nằm hậu cứ. Quan phải ở lại hậu cứ đêm nay. Sĩ quan trưởng toán là một người mới đổi về từ hải đội.
    Chia cắt ca trực xong đâu đấy, Quan lặng bước dọc bờ sông và đến ngồi trên bệ gỗ bên bến đò ngang. Bến đò đã ngưng hoạt động từ lúc bảy giờ tối. Lờ mờ trong bóng đêm, chàng thấy mơ hồ những hòn đá cuội nằm phơi trên bãi cát dưới chân cầu. Những người dân địa phương đã về với gia đình. Con đường đất dọc bờ sông vắng tanh, không một bóng người.
    Chàng đốt một điếu thuốc, nhìn ra mặt sông. Gió hây hây mát. Cơn thủy triều bắt đầu lên. Mùi hơi nước chen lẫn mùi bùn đất từ mé sông đưa lên quen thuộc, gần gũi như vùng quê hiền hòa, mộc mạc chàng đã từng biết gần một năm nay. Bỗng nhiên một bàn tay để lên vai chàng và một giọng nói đàn bà khẽ nói
- Anh..
    Khuôn mặt Phượng hiện ra gần gũi, thân yêu. Đây là một gặp gỡ bất ngờ, lý thú, Quan tự nghĩ.
- Em tới lâu chưa?
- Em vừa tới thôi.
    Chàng cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn, thon mềm của người con gái. Mùi tóc quen thuộc chen lẫn mùi nước hoa thoang thoảng như múi hương dạ lý.
- Em cần gặp anh, có điều quan trọng.
    Quan nhìn mặt Phượng trong tối, dò xét.
- Em cứ nói.
    Chàng nghĩ đến lần gặp gỡ trước, băn khoăn.
- Anh có biết là bọn anh sắp bị nguy đến nơi không?
- Em muốn nói.
- Anh nhớ anh chàng đi với chị Lan hồi sáng này không?
- Em theo dõi anh từ sáng à?
- Không phải vậy, nhưng anh trả lời đi rồi em nói tiếp.
- Anh có nhớ ra hồi sáng..
- Chàng này là người của tỉnh ủy.
- Em muốn nói chàng thuộc phe bên kia?
- Đúng vậy..
- Sao em biết?
    Chàng nhớ là mình đã hỏi câu này rồi, cùng đề tài.
- Em làm cùng chiến tuyến như anh, phòng phản gián.
- Còn hai cô kia thì sao.

- Họ chỉ là trá hình từ trung ương gửi xuống.
- Nhưng sao em lại tiết lộ tông tích với anh.
- Em tin tưởng nơi anh.
- Em có biết là em vừa vi phạm qui luật quân đội không?
- Đại để là như vậy.
- Có nghĩa là..
- Em tin anh.
    Im lặng giây lâu. Quan lặng nhìn ra sông. Dòng sông chảy đen ngòm trong bóng đêm, đầy đe dọa, thử thách. Chàng chưa biết phải nói gì đây thì Phượng nói tiếp.
- Anh cũng đừng thắc mắc khi thấy chàng này có vẻ thân thiện với chị Lan, vì hai người biết nhau từ trước.
- Nhưng đường lối của Lan có rõ ràng không? Em hiểu anh muốn nói gì rồi chứ?
- Em nghĩ rằng nàng cũng là phía bên ta chính gốc.
    Quan trầm ngâm giây lát.. Chàng tự nghĩ, trong thế giới tranh tối, tranh sáng của cuộc chiến hiện nay, biết đâu là sự thật.
- Nhưng điều chính em muốn nói với anh hôm nay là gì?
- Hắn đang dụ bọn em tham gia phục vụ bên kia.
- Em nghĩ sao?
- Em phải giả vờ hợp tác với hắn.
- Một công tác nguy hiểm.
- Thì nghề nghiệp phải vậy.
- Em hãy còn nói loanh quanh lắm.
- Chàng bắt tụi này theo dõi bí mật hành quân của tụi anh.
- Tùy trình độ nào chứ.
- Chi tiết.
- Có điều anh không hiểu, nếu chàng này từ tỉnh ủy gửi xuống, sao lại tấn công mục tiêu quân sự. Anh tưởng là trách vụ và lãnh vực chính phải là chính trị mới phải.
- Em nghĩ bên sau chàng còn có những toán đặc công khác.
- Anh có ý kiến này. Nhưng em phải giữ kín đừng tiết lộ cho ai biết., em hứa với anh nhé.
- Em hứa..
    Rồi chàng ghé sát tai Phượng thì thầm to nhỏ.

    Đêm trở nên sâu thẩm, bưng bít như lời đối thoại của hai người lúc đó. Rồi hai người từ biệt vội vã như chiếc hôn giã biệt.
Quan trở về nơi đậu tàu. Phượng quay gót về phía quán.

° ° °

    Buổi họp xảy ra một cách tình cờ như mọi ngày. Trong quán tấp nập như mọi khi. Các chàng lính từ các binh chủng nhậu nhẹt, nói năng ồ ào như những lần trước. Lan ngồi riêng một góc với chàng cán bộ, chăm chú nghe.
- Cô phải biết rằng chúng tôi cần sự họp tác của các cô. Lần này, nhờ các cô theo dõi chi tiết cuộc hành quân Coronado do Mỹ chủ động, chắc chắn bọn lính tầu thủy phải biết chi tiết.
- Em không chắc là tìm được những chi tiết tin tức hành quân đâu.
- Thì nhờ cô cố gắng.
- Thì để xem.
    Rồi chàng uống cạn ly bia và tất tả ra về. Lan nhìn ra cửa, ái ngại. Buổi chiều đã tắt nắng từ lâu.
Chàng cán bộ bước nhanh về phía ruộng mía như mọi lần trước. Con đường đất vắng tanh. Hai bên lề cỏ dại mọc đầy. Chàng nhìn dáo dác trước sau. Chung quanh vắng lặng như tờ, ngoại trừ tiếng gió xào xạc trong ruộng mía.
    Đột nhiên có vài bóng người chợt xuất hiện từ phía trước và phía sau chàng cán bộ. Tất cả đều mặc đồ đen như nông dân thường. Nhưng khác một đều là họ đều võ trang bằng súng tiểu liên ngắn nòng, dùng cho lực lượng biệt kích. Trong nháy mắt, tên cán bộ bị trói gô, không kịp rút khẩu súng lục Tiệp Khắc dắt sau lưng. Rồi toán biệt kích áp giải tên cán bộ xuống một giang tốc đĩnh đậu sau đám dừa nước dưới con lạch nối ra sông Vàm Cỏ.
    Chiếc giang tốc đĩnh biến dạng trong đêm đen.

° ° °

    Sự sống lại trở về với khu xóm ven sông. Rất ít người biết được biến cố xảy ra chiều hôm đó.Quán Ba Cô vẫn tấp nập như bao giờ.
Bẵng đi một dạo, vào một buổi tối không trăng sao, Bác Bảy ở gần quán Ba Cô chợt nghe có ai la inh ỏi:
- Cháy nhà! Cháy nhà!
    Bác nhìn ra thì đã thấy lửa rực trời phát ra từ Quán Ba Cô. Vài người đàn ông trong xóm chạy ra chữa cháy. Nhưng khi họ đến nơi thì quán đã bị thiêu rụi. Mùi tro than bốc lên khét nghẹt cả một vùng. Các cô chủ quán không ai thấy tăm hơi.
    Mấy hôm sau có người nghe nói các cô đã về quê thăm bà con hồi tuần trước. Không ai biết đích xác họ từ đâu tới. Cũng không ai biết phải làm cách nào cho họ hay là quán của họ đã bị cháy ra tro.

Huỳnh Kim Khanh

 

Monday, September 22, 2025

Còn Thương Cau Dừa - Thuyên Huy

 

Còn Thương Cau Dừa

Chuyện không thật từ bối cảnh tới người

 

    Sáng sớm thứ bảy, Liêm ra bến xe miền Tây đón xe đò đi Cai Lậy. Chiều hôm qua, anh chị tư Đặng nhờ người quen xuống Sài Gòn, ghé nhắn là ba má anh theo chuyến tàu chở cau dừa đang neo ở bến chợ dưới đó. Cuối xuân rồi mà hai bên đường từ cầu Bến Lức xuống, vẫn còn lơ thơ vài cụm mai vàng nở muộn. Dăm ba câu đối đã phai màu giấy đỏ, đong đưa hững hờ theo chiều gió sớm trước cửa hai ba căn nhà ngói cũ dọc theo trụ sở xã Mỹ Đức Tây, đám ruộng bên kia đường mùa này lấp xấp nước, trơ gốc rạ.

*

    Xuống xe tại ngã ba vào chợ ngay dốc cầu Long Định, Liêm len đám đông đi nhanh xuống bến vựa. Ghe tàu đủ loại, lớn nhỏ bỏ neo chật cứng cả một khúc sông rộng. Giờ này nước chưa lớn mấy, đám con nít đi theo ghe tắm sông sớm ồn ào la hét vang rân phía sau chợ vựa. Người lên người xuống không ngớt, nhờ một anh khuân vác đang ngồi nghỉ chân, ngay đầu cái cầu ván mỏng nối ghe này qua ghe kia, Liêm tìm ra ghe cau dừa nhà mình không khó.



    Xuống tới thì ba má anh và chị tư Đặng không có đó, chỉ có chú ba Muộn, người lái ghe tam bản cho nhà Liêm, đang quét dọn trong khoang trong, chú gốc dân Quảng Trị, không vợ con, nghèo, có tật chân đi hơi khập khễnh, trôi giạt đi làm mướn tận trên đồn điền cao su Chup bên Miên, rồi lại ngược xuống Bến Cầu, làm người quét dọn, coi giữ đình làng, không rượu, không cờ bạc, không thuốc lá, ba Liêm thương tình cảnh của chú khi đi cùng trên đình,  kêu về phụ giúp lo vườn dừa, vườn cau nhiều năm qua, chú thật thà, lương thiện, “có một nói một có hai nói hai” nên ba má cũng như anh chị tư Đặng thương lắm, miếng cơm miếng cá, cái bánh cái trái gì cũng để dành cho chú. Cau dừa đã giao cho chủ vựa xong xuôi rồi nên ghe trống trơn, nhẹ bổng. Hai chú cháu ngồi trên mui ghe chuyện trò chờ. Nắng lên trải dài trên sông, hai ba đám lục bình trôi lặng lờ theo vài con sóng nhỏ nhấp nhô loanh quanh mạn ghe. Trời đứng gió.

*

    Theo lời chú ba Muộn, xế trưa chú lái ghe về Bến Cầu. Ba má Liêm sẽ đi xe đò lên Sài Gòn. Má Liêm tay cầm hai ba bịch cam đi trước, chị tư Đặng tay xách tay quàng gì đó, ì ạch theo sau xuống ghe. Cả hai nhìn anh cười toe toét. Bà hỏi anh ta nhiều thứ mà không cần phải trả lời. Chú sáu bỏ vào trong khoang ghe, chị tư kéo cái cửa hầm nhỏ phía trước, bỏ vội mớ đồ xuống rồi thong thả khoát nước sông rửa tay. Hai má con ngồi bên nhau trên mui ghe nhìn trời cao sông rộng không bao lâu thì ba Liêm về tới.

    Trời đã gần giữa trưa. Ba má Liêm đi vòng ghe coi lại đồ đạc, dặn dò chú ba vài ba việc trước khi chú nhổ neo. Anh bắt tay chú từ giã hẹn gặp lại chú ở Bến Cầu. Gia đình Liêm và chị tư Đặng đi lên khỏi đầu cầu ván chợ vựa rồi, chú sáu vẫn còn đứng trên đầu ghe nhìn theo. Bóng chú nghiêng nghiêng, nhấp nhô theo từng con sóng. Nước bắt đầu lớn.

*

    Xe đò từ miền Tây lên bị kẹt tại cầu Bến Lức cũng khá lâu. Trên cầu, chừng mươi anh lính địa phương quân chạy tới chạy lui, súng bồng súng mang chỉ chỏ mấy đám lục bình rậm lớn dưới sông, nổi lềnh bềnh quanh chân cầu xi măng. Trời lưng lửng xế trưa thì đường được lưu thông bình thường. Xe đò từng chiếc chầm chậm qua cầu, anh lính ngồi gát trong cái chòi canh đưa tay chào, cười một cách bình thản.

*

    Về đến Sài Gòn, xuống xe đầu ngã ba Trần Quốc Toản – Nguyễn Tri Phương, Liêm lửng thửng đi trước, ba má và chị tư Đăng thong thả theo sau, ngó quanh ngó quẩn. Ông anh họ của Tuấn, ông chủ nhà mà anh được Tuấn, học cùng lớp cùng trường dẩn về ở ké, về Long An từ chiều thứ sáu, nhà vắng, Tuấn loay hoay quét dọn gì đó ngoài hiên, thấy ba má Liêm chưng hửng, vồn vã chào tiếng một tiếng hai. Liêm chưa kịp sắp xếp mấy túi xách vào góc nhà cho gọn thì Tuấn đã lăng xăng thúc giục ba má anh cũng như chị tư Đăng đi rửa tay rửa mặt.

    Trời cũng lấp xấp về chiều, ba má Liêm nằm nghỉ tạm trong phòng, chị tư bắt ghế ngồi, nhìn người qua kẻ lại trên đường, ra chiều thích thú. Liêm cũng kéo ghế ngồi bên cạnh chị, chị hỏi han đủ chuyện của Sài Gòn từ xe cộ tới đèn đường. Tuấn bỏ đi đâu đó, trong nhà lặng im. Có tiếng má anh ho khan từ trong, chị tư Đặng đứng dậy đi vào. Nghe tiếng ba anh hỏi chị tư gì đó, Liêm đứng dậy thì ông cũng vừa bước ra.

*

     Trời hâm hấp nóng, tuy là cái nóng gượng cuối ngày nhưng vừa đủ làm oi bức. Ba Liêm ngồi xuống cái ghế chị tư ngồi khi nãy, anh đứng tựa vào tường, bên khung cửa sổ. Vẫn giọng nói ung dung thong thả, ông hỏi Liêm vài câu về chuyện học hành của anh và của Tuấn cũng như đám bạn bè trong đó có cả Thu Giang, cô bạn gái của Liêm. Tuy cung cách ông không khác xưa bao nhiêu nhưng cố nhìn kỹ thì ông giờ đã già đi lắm rồi, tóc ông bạc trắng không có một chút gì lấm tấm đen như trước.

    Tuấn trở lại nhà có Thu Giang, bạn gái của Liêm mà ba má biết rồi và Trang, bạn gái Tuấn theo. Hai cô đẩy xe Honda vào trong sân, cúi đầu chào ông rồi đứng xớ rớ bên cạnh Liêm chờ. Liêm đứng dậy kéo hai cô vào trong nhà, Tuấn cũng theo vào. Chị tư liếc trộm Thu Giang nhiều lần, má anh hỏi han đủ thứ, anh im lặng để mặc cho hai cô lời ra lời vào.

*

    Chiều xuống, trời bỗng dưng dịu hẳn, một vài cụm mây xám dật dờ ờ phía bên kia sông, che vội che vàng đôi dăm ba sợi nắng chiều về muộn. Cả nhà thả bộ ra cái quán cơm xích lô trên đường Bà Hạt mà bọn Liêm thường ăn, bà chủ tiệm thấy có người lạ theo, chạy ra, vồn vã chào, cũng như thường lệ bà ghé tai nói nhỏ mấy câu gì đó với Thu Giang rồi cười tũm tĩm. Ba Liêm mời Tuấn ly bia, anh ta không dám chối từ, năn nỉ Liêm chia phân nửa. Má Liêm ăn không nhiều nhưng bà vui ra mặt. Thấy bà vui anh cũng vui lây. Chị tư cứ thong thả ăn, nhìn người qua kẻ lại.

    Đêm đó, gần khuya Thu Giang và Trang mới ra về, Liêm và Tuấn ngồi lặng im trong bóng đêm trước hiên nhà, ngọn đèn đường vàng trước căn nhà có cái truyền hình lớn vẫn lờ mờ như xưa, bên trong nhà đã có tiếng người ngái ngủ. Hai thằng khẽ đẩy cửa vào. Trời vừa có đôi chút gió đêm, hai ba con chó hoang sủa vài tiếng khô khan trên đường lớn. Xe vẫn còn chạy ngoài phố dù là đã quá nửa khuya. Sài Gòn hình như chưa chịu ngủ.

*

     Sáng Chủ nhật, Liêm đưa ba má và chị tư ra bến xe thật sớm vì ông bà muốn đi cho kịp chuyến xe đầu, giờ này đường xá vắng tanh, phố phường lặng im lờ mờ trong màn sương cuối đêm lành lạnh. Gần cuối mùa xuân rồi mà trời vẫn chưa chịu có nắng, ngồi chờ trong dãy quán cốc bên lề bến xe, nhìn ba má thong thả hớp ngụm cà phê, hơi nóng bốc lên như khói cơm chiều, chợt dưng Liêm thấy thương làm sao cái hơi nóng mờ đục này trong những ngày anh còn nhỏ xíu ở chợ Bến Cầu.




*

    Ba Liêm có thói quen thức sớm, đốt ngọn đèn dầu để trên cái bàn hương trước hiên nhà, rồi thả bộ qua cái quán hủ tiếu của chú ba Xiêng ngồi uống cà phê với mấy người bạn già quanh xóm. Lần nào Liêm thức sớm thì ông dẫn anh ta theo, cho ngồi cái ghế cao kế bên, ông sớt chút cà phê sửa vào cái ly nhỏ xíu, Liêm vừa ăn khúc giò-cháo-quẫy nóng vừa uống cà phê ngon lành, cho đến khi dưới bến ghe cuối chợ người buôn người bán bắt đầu nhóm và cũng là lúc mặt trời chầm chậm hé lên ở phía bên kia miệt trời biên giới.

*

    Bàn bên cạnh, anh tài xế và mấy người lơ cũng vừa ăn uống xong, tay mồi thuốc lá, miệng réo hành khách lên. Xe từ từ ra bến, đèn đường Lê Văn Duyệt giờ này cũng vừa tắt, chị tư Đặng ngồi gần cửa sổ xe vói tay vẫy chào đôi ba cái.

    Liêm đứng đó nhìn theo cho đến khi chiếc xe đò khuất mất, chiếc xe buýt sớm vừa ngừng ở trạm bên kia đường, công nhân làm ca đêm xuống đông nghẹt bên lề. Liêm lửng thửng thả bộ về nhà, nhìn đường phố thức giấc muộn của một sáng Sài Gòn xem sao, nhất là một sáng Chủ nhật.

    

Thuyên Huy

Cũng là một chuyện cũ - Đêm cuối hạ 2025

Chờ Lá Cuối Cùng Rơi - Thuyên Huy

 Chờ Lá Cuối Cùng Rơi




Tiểu Luận Về Truyện Kiều Qua Thơ Văn - Nguyên Thủy Sưu tầm

 

Tếu luận về Truyện Kiều qua thơ văn.

(Tức: Đoạn Trường Tân Thanh dưới cái nhìn… méo mó nghề nghiệp trong lĩnh vực Y học: medical, pharmaceutical and psychological field).





Như nhà học giả Phạm Quỳnh đã từng nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn” đủ để cho chúng ta thấy giá trị văn học rất lớn mà tác phẩm nghệ thuật nầy đã đóng một vai trò rất là quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam. Thật vậy tác phẩm “ Đoạn Trường Tân Thanh” của cụ Nguyễn Du đã đi sâu vào tâm khảm của người Việt đến mức mà nhiều câu thơ trong tuyệt tác phẩm nầy đã được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần đến nổi nhiều lúc chúng ta cứ tưởng rằng đó chính là những câu ca dao, tục ngữ xuất phát từ lòng dân gian mà ra.

Một vài dẫn chứng cho sự việc nầy là giới học sinh, sinh viên thường ngâm hai câu thơ sau đây:

“ Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”

Mà nhiều khi lại quên rằng đó chính là hai câu thơ mở đầu cho tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh. Hoặc mỗi độ Xuân về thì chúng ta lại thường hay nghe:

“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”

Ngay cả đến lão Năm chèo đò của DK74 cũng đã từng thốt lên hai câu thơ … cải cách của Truyện Kiều khi muốn nói về cái Phố Rùm Beng của chúng ta:

“ Bắt um xùm phải um xùm ( “ Bắt phong trần phải phong trần,
Cho rùm beng mới được phần rùm beng. “ Cho thanh cao mới được phần thanh cao “ )

Nếu muốn bàn luận một cách nghiêm chỉnh về tác phẩm Truyện Kiều thì đã có không biết bao nhà văn, học giả đã từng đề cập hay đã từng viết những bài phê bình rất là có giá trị. Trong phạm vi của bài nầy người viết chỉ muốn nói về khía cạnh… tếu của nó thôi và dĩ nhiên là những lời bàn… Mao Tôn Cương nầy hoàn toàn không dựa trên một căn bản nghiên cứu hay khoa học nào cả và nếu một vài ý kiến hay suy nghĩ trong bài vô tình có lỡ xúc phạm đến các bạn thì cũng xin bỏ qua cho.
Sau khi đã “đôi lời phi lộ” bằng cách nhập đề theo lối lung khởi để hy vọng không bị… ”giũa” một cách te tua sau nầy thì bây giờ xin mời các bạn vào đọc cho vui.
    Khi đọc Truyện Kiều chắc ai cũng nhớ là gia đình Vương viên ngoại có ba người con: con trai thứ là Vương Quan, em của Thúy Kiều và Thúy Vân, nhưng chắc ít người biết Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em… sinh đôi vì đó là hai đứa con đầu lòng:
“Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”
    Thúy Kiều nhanh nhẫu, lẹ làng… chui ra trước nên được làm chị, Thúy Vân lề mề, chậm chạp hơn nên phải chịu làm em.
Nếu ai may mắn lấy được chị em Thúy Kiều hay Thúy Vân thì nếu nhà có lỡ bị… cúp điện cũng không thành vấn đề lắm vì da của hai nàng trắng quá có thể thay thế ngọn đèn…néon:
“ Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
    Người Việt Nam phải là da vàng, mũi tẹt, cho nên nếu da của hai chị em Thúy Kiều mà trắng như tuyết thì có thể nghi ngờ là hai chị em bị chứng bệnh bạch tạng ( albinism ).
    Khi đọc tới đoạn mấy chị em Thúy Kiều đi tảo mộ trong tiết thanh minh thì có một chi tiết cho thấy là Thúy Kiều có thể bị triệu chứng bịnh thận (overactive bladder ??? ) ngay khi ở cái lứa tuổi đôi mươi mà hậu quả sẽ là một “urgent urination” vì khi lâm vào tình trạng… khẩn cấp quá thì bắt buộc phải… trút bầu tâm sự liền ngay tại chỗ, không chần chờ được thêm một giây phút nào cả cho dù phải làm cái việc đó ngay… giữa đồng ( vì người viết là dân Nam… cọ , không dám quơ đũa cả nắm, nên phát âm chữ s hay x cũng đều như nhau. Do đó tĩnh từ “sè sè “ sẽ trở thành… động từ “xè xè” ):
“ Sè sè ( xè xè ) nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
    Bãi chiến trường bỏ lại sau khi Thúy Kiều đã… trút bầu tâm sự. Ngọn cỏ bị đụng nước ammonia (NH4OH ) nên bị cháy vàng đi, rồi cộng thêm hiện tượng… thẩm thấu nên lan truyền cả một vùng đất rộng lớn. Một nhân viên kiểm lâm đang tự hỏi ai đã vi phạm đến môi sinh một cách tai hại như vầy.
    Trong ngành Y học có một chứng bệnh gọi là “ bipolar disorder” ( hay còn có tên “ manic depression “ ) mà người mắc phải có thể bị rơi vào hai trạng thái extreme, cực kỳ trái ngược nhau ( khi vui vui dữ, khi buồn buồn ghê ), không biết đây có phải là dấu hiệu của Thúy Kiều hay không vì chỉ vừa nghe người em nói về hoàn cảnh của Đạm Tiên thì Thúy Kiều đã rơi lệ một cách thật dễ dàng:
“ Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.”
    Tự cổ chí kim, con người ai lại không muốn mình có một… ngoại hình thật là “hoành tráng”, cộng thêm một tài năng xuất chúng để có thể làm được những việc đội đá vá trời, nhưng dưới cái nhìn của một ông thầy xem tướng (tướng sĩ) thì nếu cái sắc hay cái tài đó mà bộc lộ ra một cách quá đáng thì phần số của cuộc đời mình cũng không tốt lắm. Nhân vật Thúy Kiều của Đoạn Trường Tân Thanh quá đẹp và quá tài giỏi đã thấy ngay từ thuở còn bé nên không tránh khỏi cái thuyết “Hồng nhan đa truân” hay “Tài hoa bạc mệnh”:
“ Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa”
    Khi Thúy Kiều khảy đàn cho Kim Trọng nghe, mặc dầu là tiếng đờn rất hay nhưng lúc đó thì Kim Trọng đâu còn lòng dạ nào để mà thưởng thức nữa. Lý do dễ hiểu là vì Kim Trọng đang bị lên cơn… đau bụng vì chàng ta bị chứng loét bao tử kinh niên ( chronic gastric ulcer):
“ Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu .
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày “
Cho nên cũng rất muốn khen nhưng không nói nên lời:
“ Rằng: Hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào !
Lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người ?”
    Thúy Kiều khảy đàn cho Kim Trọng, ngồi nghe đàn mà mặt mày cứ nhăn nhó vì có lòng dạ nào để mà thưởng thức đâu.
Rồi cái số “Hồng nhan bạc phận” của nàng Kiều bắt đầu từ đây khi hai người phải chia tay nhau vì người nhà vừa báo tin là người chú của Kim Trọng qua đời:
“ Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.
Đem tin thúc phụ từ đường,
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề”
Cho nên: “ Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi !”

( Tình trạng nầy sao giống các SIS và BRO74 vào dịp Hội Ngộ vào tháng Năm năm ngoái quá ).
Còn đây là một Kim Trọng tân thời lão Năm chèo đò cũng đang trong tình trạng “khi vò chín khúc khi chau đôi mày” ( Các bạn có thấy hai thế ngồi sao giống nhau quá không? Nhưng lão Năm thì… enjoy hơn vì: “Giữa đồng mát, gió hiu hiu thổi” ).
    Vương viên ngoại bị thằng bán tơ vu oan giá họa nên Thúy Kiều đành phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc tội cho cha già và cả gia đình. Tên nầy dưới cái nhìn của Bác sĩ Hào thì thuộc loại “Testosterone deficiency” tại vì cụ Nguyễn Du đã mô tả hắn như sau ( thuộc loại no hair man) :
“Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
Thầy tớ Mã Giám sinh
“ Hỏi tên rằng: Mã Giám sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang”
    Sống trên cõi đời nầy mấy ai lại không muốn sống trong cảnh nhung lụa sang giàu. Phụ nữ thì thích làm đẹp cho mình bằng những món nữ trang, châu báu. Còn con cháu ông Adam thì lại thích những “viên ngọc” ( xanh, vàng hay cam) để…hổ trợ cho mình khi đến một lứa tuổi nào đó mà người đời hay gọi là “lực bất tòng tâm”. Khi Thúy Kiều bị bán vào lầu xanh thì khi đó người đọc mới khám phá ra rằng các viên thuốc Viagra, Cialis hay Levitra… đã có từ cả trên hai trăm năm về trước. Để chứng minh cho sự việc nầy chúng ta thấy Tú bà đã chỉ dạy cho Thúy Kiều phải biết cách dụ dỗ các khách làng chơi bằng cách lén bỏ những viên thuốc nầy vào ly rượu:
“ Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều”
Có như vậy thì mới:
“ Này con thuộc lấy nằm lòng,
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề .
Chơi cho liễu chán, hoa chê,
Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời “.
Tú bà đang… truyền nghề lại cho Thúy Kiều.
Cuộc đời “năm chìm, bảy nổi, chín lênh đênh” của Thúy Kiều đã những tưởng là có thể chấm dứt khi Thúc Sinh bắt đầu xuất hiện. Đó là một người những tưởng rất là chịu chơi tại vì:
“ Thúc sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không”
Nhưng đau đớn thay, đó là con người… chơi chịu và có một bà vợ không ai khác hơn là Hoạn Thư :
“ Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư”
    Bà nầy nổi tiếng rất là ghen và qua nhân vật nầy chúng ta có đuợc một triết lý về Tâm lý học:
“ Ớt nào mà ớt chẳng cay,
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”.
Chính Hoạn Thư đã nhìn nhận như sau :
“ Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,”
    Bàn về Truyện Kiều mà không nói đến Từ Hải thì quả là một thiếu sót lớn lao. Đó là một chàng trai:
“ Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.”
    Nhân vật Từ Hải nầy nếu được đặt dưới cái lăng kính của một nhà Tâm lý học thì có một cái đặc tính rất là… bình thường mà hình như tất cả các ông đều mắc phải: mê gái và dại gái.
Nếu nói về vụ nầy thì ca dao Việt Nam cũng đã từng đề cập đến:
Bắt thang lên hỏi ông Trời,
Đem tiền cho… gái có đòi được không,
Ông trời ngao ngán… thở dài:
“Tao mà còn đòi không được, nói chi là… mầy “.
    Nếu nói cho có vẻ văn chương hơn một chút thì ta có hai câu đối sau:
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách ( Mưa không xiềng xích cầm chân khách )
Sắc bất ba đào dị nịch nhân ( Sắc không sóng gió, đảo điên lòng người )
Từ Hải: một nhân vật trong Truyện Kiều, người mà từ đó chúng ta rút ra được một “chân lý” rất là…đau lòng cho giới mày râu: mê gái và dại gái.
( Ranh ngôn: “ Điểm mạnh của phái yếu là biết đánh vào… yếu điểm ( ???) của phái mạnh”. ).
    Khi Từ Hải dấy binh nổi loạn, lập riêng cho chính mình một vương quốc thì triều đình mới cử quan tổng đốc Hồ Tôn Hiến để dụ hàng. Đây là người đã tốt nghiệp được cái bằng về… Master of psychology với điểm ra trường Tối Ưu nên rất hiểu rành về tâm lý qua hai nhận định sau:
– Mấy bà có mấy ai là không thích bạc vàng châu báu.
– Muốn được việc gì, không cần gặp ông chồng, chỉ cần đi… cửa sau để hối lộ bà vợ là xong ngay:
“ Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung.
Biết Từ là đấng anh hùng,
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Đóng quân làm chước chiêu an,
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.”

Và đúng như dự đoán của Hồ Tôn Hiến, Từ Hải tuy là một trang dũng tướng :
“ Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai? “
    Tiếc thay tự cổ chí kim bao giờ cũng vậy, anh hùng cũng không thoát khỏi cửa ải mỹ nhân nên Từ Hải đã nghe theo lời của Thúy Kiều mà ra hàng:
“ Nghe lời nàng nói mặn mà,
Thế công Từ mới trở ra thế hàng.”
    Những tưởng triều đình sẽ phong cho chức tước nào ngờ Hồ Tôn Hiến, phản bội lời hứa cho quân phục kích và giết chết Từ Hải:
“ Từ công hờ hững biết đâu,
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
Hồ công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
Đương khi bất ý chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh liều giữa trận tiền,
Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!”
    Từ Hải bị loạn tiễn mà chết nhưng có điều lạ là không té quỵ xuống mà chết như những người thường mà là chết đứng:
“ Khí thiêng khi đã về thần,
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.”
Từ Hải chết đứng.
    Cho mãi tới bây giờ trong giới Y khoa vẫn chưa giải thích được trường hợp nầy. Một giả thuyết có thể đưa ra là : Từ Hải uất ức vì bị gạt nên lâm vào tình trạng máu nhồi lên não (cerebral infarction) nhiều và lẹ quá nên làm vỡ các mạch máu, đưa đến tình trạng tứ chi bại liệt, tê cứng cả người nên không… té xuống.
Nhưng theo người viết ghi nhận thân người Từ Hải còn đứng được là một phần nhờ vào… cây thương mà ổng đang chống ( Vững như kiềng… ba chân thì làm sao té xuống được ). Thúy Kiều chạy lại ôm Từ Hải mà khóc. Theo sách vở thì lạ thay, sau đó khi Thúy Kiều bỏ Từ Hải ra thì cái xác mới chịu… ngã xuống:
“ Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.”
Sự kiện nầy có thể được giải thích một cách dễ dàng: cây thương không còn nữa. Thúy Kiều ôm xác Từ Hải mà khóc.
Người Á Đông bao giờ cũng thích những câu chuyện có hậu ( happy ending ). Đại thi hào Nguyễn Du cũng không thoát khỏi cái ngoại lệ đó: sau khi Từ Hải bị chết, Thúy Kiều bị bắt ép gã cho một tên thổ quan.
    Nàng tủi nhục gieo mình xuống sông Tiền Đường để quyên sinh nhưng may mắn được sư Giác Duyên cứu mạng. Phần Kim Trọng sau khi thọ tang người chú xong, trở về lấy Thúy Vân nhưng vẫn một lòng tìm kiếm Thúy Kiều. Gia đình Vương viên ngoại tưởng rằng Kiều đã chết nên lập đàn cầu siêu. Tình cờ sư Giác Duyên đi qua thấy được và cuối cùng Thúy Kiều về đoàn tụ với gia đình. Anh chàng KimTrọng nầy tính “hoa thơm đánh cả cụm, cô em cô chị ta…lụm cả hai “, muốn kết nghĩa vợ chồng với Thúy Kiều nhưng nàng chỉ xin đổi tình yêu thành tình bạn:

“ Chàng dù nghĩ đến tình xa,
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.”
    Trong tác phẫm Đoạn Trường Tân Thanh, cụ Nguyễn Du muốn để lại cho người đời một bài học về “tài” và “mệnh”:
“ Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”
Người Trung Hoa thì cũng cùng một ý tưởng đó:
“ Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh.
Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt”
    Dân Việt Nam thì tánh tình mộc mạc, chất phác, ăn nói dễ hiểu, ngắn gọn, không cần màu mè gì cả:
“ Nhất lì (có “tâm”, có lòng), nhì… đẹp trai ( còn hơn là có tướng mạo bên ngoài) ”
     Đại tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du có đến 3254 câu thơ. Với sự hiểu biết rất là hạn hẹp của người viết nên chắc chắn là sẽ còn rất nhiều “bệnh lý” hay “triệu chứng lâm sàng” mà mình không thấy được. Nếu các “đọc…giả” có tìm ra thì xin cứ tự nhiên bổ túc vào cho đầy đủ hơn.
    Cuối cùng, tác giả cũng xin mượn hai câu cuối của Truyện Kiều như cụ Nguyễn Du để kết thúc cho bài viết nầy:
“ Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.

Nguyên Thủy (St.)