Trời vừa hừng
sáng là khu rừng bắt đầu huyên náo. Từ sáu tháng nay, trước sự xâm chiếm của lớp
người “tay rìu” bao nhiêu chim cò, rắn, rít, khỉ, chồn, heo rừng phải nhượng bộ
rút lui.
Bọn tay rìu
vào rừng kinh ngang kinh dọc dưới sự điều khiển của cặp rằng. Tất cả cặp rằng đều
do một ông “chủ đường” chỉ huy. Ðường có nghĩa là con kinh lớn tập trung bao
nhiêu củi đã cưa sẵn thành từng khúc hai tấc rưỡi hoặc một thước. Muốn có một
đường củi như vậy phải là tay rất có thế lực đối với nhà cầm quyền thực dân thời
bấy giờ.
Họ đấu giá một
lô rừng cúp, loại rừng mà nhà nước cho phép khai thác cứ hai mươi hoặc hai mươi
lăm năm một lần.
Sau khi đấu
giá được, việc cấp bách nhứt là mộ nhân công (tay rìu) vì chung quanh khu rừng
nói trên rất ít dân cư. Phải có nhân công thật nhiều mới khai thác xong đúng thời
gian cam kết với nhà nước. Vì vậy, người chủ đường phải mộ nhiều nhân công từ Cần
Thơ, Hà Tiên, Long Xuyên… đem xuống tận cái lô rừng cúp rạch Thứ Sáu, làng Ðông
Thái, tỉnh Rạch Giá này.
o0o
Anh Tư Bình
Thủy tốc nóp, ngồi dậy. Anh ngáp dài, nhìn rừng, nhìn nước rồi từ từ ngả lưng
xuống với ý định dỗ lại giấc ngủ, bụng nghĩ thầm:
-Làm thêm
đôi ba thước củi cũng chưa đủ trả nợ. Không khéo, lại lao lực sanh bịnh tim, bịnh
phổi mà mang khốn…
Cum! Cum!
Cum!
Tiếng búa bổ
vào gốc tràm bắt đầu vang lên từ đầu đến cuối rừng nghe còn nhặt hơn tiếng mõ
thầy chùa tụng kinh.
Ðùng! Ðùng!
Ðùng!
Từng thân
cây ngã xuống liên hồi mặt nước rung chuyển, sóng gợn lên chạy dài, vỗ vào vách
chòi của anh nghe lát chát.
Các “tay
rìu” bắt đầu nói chuyện cho qua cơn mệt nhọc. Anh Tư Bình Thủy nghiêng tai vào
đầu nóp, lắng nghe tỏ rõ từng tiếng một:
-Rừng này gốc
của ông Gia Long. Hồi xưa Gia Long cũng như mình…
Ðó là giọng
của Hai Cờ Ðỏ. Gọi là Cờ Ðor không phải vì cầm cờ Cộng sản đi biểu tình, nhưng
vì quê quán anh này ở Cờ Ðỏ – một địa phương thuộc đồn điền của Tây “Êmory.”
Anh có giấy chứng nhận riêng biệt của hãng Tây. Theo lời anh khoe khoang thì giấy
đó mạnh hơn giấy thuế thân, bảo đảm không sợ bất cứ một thầy hương quản nào. Giọng
Hai Cờ Ðỏ nói sang sảng:
-Ðố các cha
vậy chớ rừng này hồi đời xưa có vua Gia Long đi ngang qua không?
Có tiếng cãi
lại:
-Túng tiền
thì lại đây, tôi cho mượn đỡ vài cắc, chớ đừng nói dóc. Nói phải có sách, mách
phải có chứng…
-Dân ở Cờ Ðỏ
không bao giờ nói dóc. Ðể tôi nói lại. Số là xưa kia… Gia Long bị Tây Sơn rượt,
ngài phải dùng ghe biển mà chạy từ Cà Mau ra Phú Quốc. Chiếc ghe của ngài gọi
là long thuyền… Ngài đứng trước mũi ghe, ngóng vào bờ mến tiếc lắm, vì ngài muốn
làm vua ở đất liền chớ nào có mộng làm chúa ở cù lao…
Ai nấy nhốn
nháo lên:
-Nghe lòng
vòng quá. Nói cho lẹ thử coi… Muỗi cắn gần chết đây nè? Bà con nào cho tôi mượn
bếp un, quạt khói lên dùm…
-Tôi nói ông
Gia Long ngóng vô bờ, dòm dáo dác cái cụm rừng của tụi mình đương đứng bây giờ.
Rồi ổng day qua nói với đình thần tả hữu:”Sơn bất cao, thủy bất thâm, phù sa
chi địa nhơn tác bất thành tu hú giả. Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá, cao phi
viễn tẩu giả nan tàng…”
-Cắt nghĩa
cho mau. Ở đây ai mà biết chữ nho.
Hai Cờ Ðỏ cười
dòn:
-Câu đó ngụ
ý về địa lý. Gia Long nói xứ Nam Kỳ này không có núi cao, không có sông sâu.
Còn đất phù sa thì dở quá, vô dụng. Ðến đỗi móc đất lên nắn con tú hú để thổi
cũng không kêu. Ðó là “bất thành tu hú giả.” Duy có hai nghề phá sơn lâm đâm Hà
Bá là dễ làm ăn. Nhưng lưới trời lồng lộng không ai chạy khỏi: phá rừng, chài
cá khiến con người phải nghèo mạt…
Cả bọn cười
vang lên:
-Hay! Hay!
Bây giờ tới phiên ông Tư Châu Xương nói cho anh em nghe một chuyện khác.
Nghe đến tên
ông Châu Xương, anh Tư Bình Thủy chợt sáng mắt lên. Ông này nước da đen ngăm, mặt
mày hung tợn nhưng lòng dạ thiệt thà. Trong số tay rìu quen biết chỉ có ông là
tử tế với anh nhứt. Bằng cớ là hôm trước lúc anh đau rét suốt ba, bốn ngày, ông
cho đứa con gái lại nấu cháo và cho tiền để mua mấy chai thuốc phát lãnh hoàn.
Cô gái ấy tên là Mịn, tuy đen đúa nhưng có duyên. Lúc ban đầu Mịn kêu bằng chú.
Anh phải đính chánh lại rằng tuổi anh còn nhỏ, mới có hăm ba vì quá lăn lóc với
sanh kế nên mau già đó thôi.
Sau rốt, Mịn
chịu gọi anh bằng anh, Mịn săn sóc châu đáo lắm, nhiều đêm ngồi quạt khói un muỗi
cho anh đến quá mười giờ đêm mà không về. Những đêm về khuya đó, anh không bao
giờ nghe tiếng ông Tư Châu Xương rầy con gái. Trái lại, có đêm nhiều khi cô Mịn
bơi xuồng đến thăm anh một lần thứ hai.
-Ba của em sợ
anh đắng miệng, biểu em đem qua anh điếu thuốc rê này. Ba nói hễ khi nào anh
hút thấy ngon là trong mình bớt đau.
Ðêm thanh vắng,
giữa tứ bề rừng bụi, anh Tư lúc ấy thấy vui sướng không cùng. Anh cố tình nói một
câu để dọ thử tấm lòng cô Mịn:
-Làm ơn thì
làm ơn cho trót. Không lẽ tôi phải bước xuống sàn lại đằng bếp un để châm thuốc
hút. Nhờ em đốt dùm.
Mịn e thẹn:
-Hồi giờ, em
đâu biết đốt thuốc. Hay là em gắp cục than cho anh.
-Tội nghiệp.
Bộ cô muốn đốt tôi luôn sao? Có gì là đắng. Cô cứ ngậm vô miệng, hút một hơi
cha cháy trước.
Và Mịn đã
ngoan ngoãn nghe lời của anh. Ðiếu thuốc rê hôm đó ngon làm sao!
Cô Mịn đã xuống
về từ lâu mà anh còn ngồi đó, tiếc cái tàn thuốc đã cháy tới da tay, tâm trí mơ
màng nhớ đến đôi mắt của Mịn, đôi mắt đen như nước rừng, có đôi vì sao chiếu xuống
ngời lên lấp lánh…
Ông Tư Châu
Xương bắt đầu kể chuyện. Anh Tư Bình Thủy lập tức ngồi dậy. Nghe có tiếng cưa củi,
anh đoán chắc hôm nay thế nào cũng có cô Mịn đến giúp cha.
Ông nói:
-Hai Cờ Ðỏ
nói dứt cái sấm truyền của vua Gia Long. Bây giờ tôi xin nói tiếp về lúc Tây
qua đánh thành Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ. Tôi cắt nghĩa tại sao lính Tây có
mang mỏ neo ở bâu nói, tại sao trên đồng bạc trắng của Tây có chạm hình người
đàn bà…
“Năm đó, Tây
kéo tàu binh tới bến Long Hồ. Tụi nó bắn súng lên. Bên này, binh của An Nam
mình lập tức nã đại bác thần công xuống. Hai bên kịch chiến khá lâu. Lính Tây
chết nhiều quá. Quan đề đốc của Tây ra lịnh kéo neo rút lui về Mỹ Tho.
Thừa cơ, bên
mình bắn súng như mưa bấc. Lính thủy Tây ráng sức kéo neo nhưng không xuể. Vì vậy,
tàu chạy thối lui không được. Dè đâu, lúc đó trên tàu Tây một con đầm xuất hiện
ra, tay cầm cờ phất tới. Ðó là vợ của quan đề đốc đứng ra thay chồng để xua
binh đổ bộ lần thứ hai. Nhờ vậy, Tây thắng, chiếm thành Long Hồ. Sau đó, tụi nó
nhớ ơn cái mỏ neo với con đầm nên mới ra lịnh ghi lại kỷ niệm… Bởi vậy, đàn ông
nhiều khi cần có đàn bà giúp mới làm được việc lớn. Và ở đời, nhiều khi cái
chuyện rủi ro như cái mỏ neo nọ lại biến thành dịp may…”
Ông Tư Châu
Xương dứt lời, ai nấy cười vang. Có người chêm vô một câu:
-Bây giờ tới
phía Tư Bình Thủy. Tư Bình Thủy đâu rồi? Nó mê ông lắm đó ông Tư.
Anh Tư ngồi
trong này nín khe, lắng nghe ngoài rừng thiên hạ gọi anh ngày một gấp!
-Ðâu rồi?
Hay là thua bài cào hồi tối rồi ngã luôn. Hồi tối, tôi thua hai chục đồng, nó
thua có năm đồng, nhằm nhè gì. Ông Tư Châu Xương đâu? Kêu… thằng rể của ông thức
dậy coi…
Anh Tư Bình
Thủy lắng nghe chờ sự phản ứng của ông Tư Châu Xương. Nhưng êm tịnh, chập sau,
thấy Hai Cờ Ðỏ chống xuồng tới chòi. Anh giả vờ như ngủ mới thức dậy mà nói:
-Bữa nay bịnh
quá, tôi muốn ngủ luôn. Kêu ra có chuyện gì không?
-Ra rừng rồi
hãy biết. Ông già vợ của mầy chờ ở ngoải.
-Ðừng nói bậy,
ông bắt lỗi thì sao?
-Cam đoan
không bắt lỗi. Thằng Tư mâỳ biết không? Hồi nãy ông nói: đàn ông cần có đàn bà
mới lập sự nghiệp được. Chắc là ổng muốn mở hơi gả con gái cho thằng Tư mầy.
Anh Tư Bình
Thủy lội xuống rừng. Nước rừng quá lạnh, ngập khỏi lưng quần, khiến anh tỉnh
táo lại. Anh cầm búa lội qua gốc tràm gần đó. Nể lời yêu cầu của người chung
quanh, anh không thể chối từ:
-Tôi chỉ biết
bài thơ ông Tiều. Bà con có đọc Lục Vân Tiên đều biết. Tôi không muốn nói ra vì
nó chua chát quá. Tay rìu đời nay là ông Tiều đời xưa đầu thai lại chớ gì…
Tiều rằng:
Vốn lão tinh thông,
Một mình thơ thẩn non lòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gia mặc lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quí mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.
Giọng của Tư
Bình Thủy khá trong trẻo nên hấp dẫn được người nghe. Mặc dầu đó là tâm sự của
người xưa nhưng những người lưu lạc ngày nay cũng nhờ đó mà sống lại đôi phút
giây mát mẻ, thơ mộng. Họ im lặng nhìn nhau, chờ đợi lời bình luận sôi nổi. Cô
Mịn liếc qua Tư Bình Thủy như khâm phục, hãnh diện.
Nhưng từ
trong rừng, kìa tên cặp rằng Be chống xuồng ló ra. Hắn mặc áo bành tô vàng, miệng
ngậm ống vố, hất hàm lên:
-Ê Tư Bình
Thủy nói dóc cái gì đó? Thằng này bữa nay bày đặt o mèo nữa hả? Thi phú của mầy
ăn nhập vào đâu?
Tư Bình Thủy
trợn mắt nhìn cặp rằng Be. Hắn nhếch mép:
-Nói chơi
không được nữa hả? Tao cho mầy hay: Cô Mịn muốn có hạnh phúc thì hãy tìm một
người giống như tao. Cô sẽ có áo bông quần lãnh.
Rồi hắn day
lại cô Mịn mà cười:
-Phải vậy
không cô Mịn? Cưa củi làm chi mà áo rách vai, rách ngực. Người ta thấy da, thấy
thịt của cô kìa… Cô dòm lại coi… trắng xát.
Nhanh như chớp,
Tư Bình Thủy xách búa lội nước đùng đùng lại gần xuồng cặp rằng Be mà chửi:
-Ỷ làm cặp rằng
hả? Ðồ tục tỉu! Tao chém mầy!
Cái chuyện cầm
búa hăm he chém người như thế ra rất thường giữa cuộc làm ăn hỗn độn này. Ông
Châu Xương, ông Hai Cờ Ðỏ thấy chưa cần can thiệp, vì ông biết cái tật xỏ lá của
cặp rằng Be. Ðúng vậy, hắn vội vã chống xuồng ra xa rồi dừng lại, nói vài câu để
cứu vớt thể diện:
-Bà con ơi!
Thằng con nít thất học này làm gì mà biết thi phú, kinh sử. Nó nói dóc.
Tư Bình Thủy
nói lớn:
-Thằng nào
nói dóc? Chú mầy mới là thằng nói dóc. Hồi qua Bình Thủy rủ tao xuống đây, mầy
nói ở dưới này sướng lắm. Sao mầy không nói ở dưới này muỗi mòng đỉa vắt nước
ngập ngang lưng quần, nhà cửa không có. Mầy lại còn bày đặt chứa bài cào lấy
xâu. Mồ hôi nước nắt của dân tứ xứ bị mầy cướp ráo.
Cặp rằng Be
đành đuối lý, chống xuồng đi. Hắn nói với lại:
-Tao cho Tây
hay. Nó vô bắn nát óc mầy. Xứ này, xứ của tây mầy biết chưa?
“Xứ này, xứ
của Tây.” Mấy tiếng đó khiến cho ai nấy cười rộ lên, cười chua chát thiếu điều
ra nước mắt. Gió rừng ngừng lại. Nước rừng bừng tỉnh soi rõ từng lá cây, dáng
người. Chập sau, ông Tư Châu Xương nói ôn tồn:
-Mình dốt
nát không biết tích Gia Long tẩu quốc, tích Tây đánh thành Long Hồ, nhưng chắc
chắn mình không bao giờ nói một câu quá trật lất như thằng cặp rằng đó. Hơi đâu
mà phiền, Tư Bình Thủy ơi! Trăm sự chỉ vì sinh kế. Ông Tiều này xưa nào có lúc
rảnh rang tâm trí. Hồi nãy đọc thơ Lục Vân Tiên, cháu quên mấy câu trước: Mình
rằng: đây đó hỏi han, xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau. Nhưng ông Tiều không
được rảnh: Tiều rằng: chẳng dám nói lâu, bởi vì còn phải vào rừng đốn củi bán hầu
chợ phiên.
Trăm sự cũng
bởi đồng tiền. Bây giờ, mưu kế hay nhứt là tối nay cháu lại nhà bác. Bác chỉ
cho ni tấc từng cây cột, cây kèo. Mình nến thừa dịp này mà ăn cắp… của Tây một
bộ cột. Cứ đốn sẵn, nhận lấp dưới sình. Hôm nào thuận lợi, mình sẽ lưu đi. Mai
kia mốt lại, cuộc phá sơn lâm này mãn, chắc chắn thế nào mình cũng lời được một
cái sườn nhà. Cháu chịu vậy không?
Anh Tư Bình
Thủy liếc sang cô Mịn rồi cúi đầu trả lời nhỏ:
-Dạ, bác
thương con cháu. Con cháu đội ơn bác không hết chớ có dám cãi lại bao giờ.
Sơn Nam

No comments:
Post a Comment