ĐẰNG SAU MẶT
TRĂNG
Ngọn lửa nến bé bỏng lung linh trên
bánh sinh nhật. Cháu Bồ Câu đầy tuổi, tươi cười trong tay mẹ, như muốn nhoài cả
người về phía ngọn lửa.
Ngay sau khi thổi nến, Bà nội và cả
nhà bắt đầu phút cầu nguyện trang trọng. Tất cả đều căng thẳng trước những ngày
sắp tới: Bà nội đã quyết định ở lại nhà chờ tin, nhưng Bồ Câu sẽ cùng cha mẹ và
các dì và cậu bên mẹ đi vượt biển.
Tháng 9 năm 1979, ra đi lần thứ hai,
suốt ba ngày ba đêm trên biển, Bồ Câu thật ngoan, ngồi yên trong vòng tay của
mẹ, không la khóc hay trở chướng. Sau chuyến vượt thoát đầy hung hiểm, tránh
được tàu hải tặc rượt bắt nhờ đêm tối, rồi thuyền bị chìm gần bờ biển Thái Lan,
chúng tôi may mắn được cứu vớt. Trong 10 tháng tại trại tị nạn Liem Ngot, Thái
Lan và trại Bataan, Phi Luật Tân, cháu Bồ Câu được thương yêu, vui vẻ ca hát
mừng sinh nhật hai tuổi.
Nhờ sự bảo lãnh của chị tôi và anh
rể, chúng tôi được chấp thuận cho định cư tại Hoa Kỳ. Chuyến bay tới Nam Cali
đúng vào ngày kỵ giỗ của Ba tôi: 24 tháng 7, 1980.
Bắt đầu lại cuộc sống từ hai bàn tay
trắng, nhưng với lòng hăng hái quyết chí và tự tin. Tin Ơn Trên phù hộ. Tin vào
khả năng tự lập của mình. Tin Bồ Câu rồi đây sẽ đi học và hấp thụ một nền giáo
dục tốt đẹp. Cả nhà đều cật lực làm việc. Hai chị lớn nhận hàng may tại nhà.
Các cậu em, sau giờ đến trường, cùng xúm xít phụ xỏ chỉ, đơm khuy.
Phần tôi thì vừa lãnh phần việc đi
nhận và giao hàng may, vừa đến lớp học về chuyên môn y khoa. Với vốn liếng
chuyên môn hạn hẹp và lỗi thời, để có thể bắt kịp những tiến bộ y khoa tối tân
của nước Mỹ, tôi hiểu mình phải thức khuya dậy sớm và tận lực học hỏi.
Đó là thời gian căn nhà thuê bé nhỏ
tràn ngập hạnh phúc, bé Bồ Câu lăng xăng vui đùa trong nhà và ngoài sân, được
cha mẹ, dì câu cưng chìu thương yêu. Rồi những thùng quà đầu tiên được gửi về
bên nhà ở Saigon. Tiếng máy may điện chạy hầu như liên tục, hòa với tiếng cười
đùa giữa cậu cháu, tiếng ê a tập đọc tập hát của Bồ Câu. Cháu mới 3 tuổi đã hát
múa đúng điệu, theo chương trình giáo dục con nít Big Bird trên truyền hình.
Sau khi may mắn đậu liền cả hai chứng
chỉ y khoa quan trọng gồm bằng FLEX và ECFMG, tôi tập trung lo gởi đơn xin học
thêm đến các trung tâm Giáo Dục Y Khoa, chờ cơ hội trở lại nghề y sĩ. Đúng lúc
ấy cả nhà còn có thêm tin vui, mẹ có bầu và Bồ Câu sẽ sớm có em bé.
III. Tai họa và phép lạ
Một buổi sáng cuối tháng 10, 1981,
cha mẹ đem Bồ Câu đến bệnh viện South Coast Medical Center ở thành phố Laguna
Beach cho Bác sĩ Nha Khoa bọc bảy cái răng bị siết trong cùng một lần. Bé vui
vẻ nói bye bye bố mẹ khi theo y tá vào phòng mổ.
Trước khi nha sĩ bọc răng, phải gây
mê toàn diện, thủ thuật sẽ mất khoảng một giờ rưỡi, chúng tôi được cho biết.
Chờ quá hai giờ. Rồi ba giờ. Bốn giờ. Nôn nóng hỏi thăm, chỉ được bảo phải tiếp
tục chờ.
Mãi xế chiều, một y tá đưa chúng tôi
vào phòng hồi sinh cấp cứu. Bồ Câu nằm bất động trên giường, phủ chăn trắng.
Không mở mắt, không hay biết. Bố mẹ sững sờ. Mới hồi sáng, bé tươi tỉnh, không
một lo sợ, vẩy tay bye bye cha mẹ trước khi y tá đẩy xe vào phòng mổ, mà giờ
đây như một xác không hồn. Y tá giải chỉ giải thích ngắn gọn là em bé bị phản
ứng thuốc nên tạm thời hôn mê.
Sự thật không như lời người y tá giải
thích. Qua thủ tục pháp lý, chúng tôi nhận được phó bản của toàn bộ hồ sơ chữa
trị. Riêng hồ sơ liên hệ đến giải phẫu và gây mê cho thấy chính bác sĩ gây mê
đã gây ra tai họa. Thay vì phải đặt ống bơm dưỡng khí vào phổi, ông ta đưa ống
đó vào bao tử, khiến bé hoàn toàn không nhận được dưỡng khí để thở trong 10
phút, gần như bị chết ngộp.
Hồi tưởng lại buổi sáng định mệnh ấy,
khi ngồi trong phòng chờ, tôi nghe tiếng loa loan báo “code blue” nhiều lần, cứ
ngỡ là cho ai, sau này mới biết lệnh cấp cứu đó chính là cho con mình. Đau đớn
thay. Nhờ hô hấp nhân tạo, Bồ Câu sống lại, được nuôi qua ống chuyền sữa ensure
từ mũi xuống bao tử, nhưng não bộ bị tổn thương trầm trọng.
Sau gần 2 tháng chữa trị tại Children
Hospital of Orange County với cha mẹ túc trực cạnh giường ngày đêm, bác sĩ cho
biết Bồ Câu bị chứng Cerebral Palsy – Liệt Não – nên dù sống sót nhưng cả hai
phương diện thể xác và tâm lý đều sẽ phát triển chậm (both severe physical and
mental retardation).
Vì đòi hỏi săn sóc đặc biệt, đành
phải chấp nhận chuyển bé qua một trung tâm phục hồi chức năng. trong một thời
gian vô hạn định, nhưng không có ngày nào mà chúng tôi không ghé thăm Bồ Câu,
cho dù bụng thai của vợ càng ngày càng nặng nề.
Năm 1981, Bồ Câu 3 tuổi
trở thành nạn nhân
Một ngày trời mưa sau Tết năm 1982,
khi đến thăm, vừa vào bên trong tòa nhà của trung tâm phục hồi, chúng tôi bắt
gặp trên chiếc giường đẩy, ngay giữa hành lang, một thân hình bé nhỏ đang quằn
quại trong cơn co giật. Đến gần, hình hài ấy chính là con mình, miệng nghiến
chặt trong cơn động kinh liên tục, mình mẩy ướt mèm. Ôm con mà xót xa đắng cay.
Còn cảnh cùng cực nào nào lớn hơn thử thách này, Chúa ơi! Tất cả chỉ còn một
nguyện cầu duy nhất là xin cho con mình được sống và sống chung với cha mẹ và
gia đình, chứ không trong một trung tâm chăm sóc xa lạ.
Từ đó, không ngày nào chúng tôi không
tới thăm Bồ Câu. Điều nguyện cầu cho con được sống và sống bên cha mẹ trở thành
một quyết tâm thôi thúc hai vợ chồng sát cánh, tiến hành mọi thể thức với trợ
giúp từ các cơ quan xã hội để chuẩn bị đem con về nhà.
Đứa con thứ hai ra đời ngày 10 tháng
Tư, 1982. Dù phải chịu đựng quá sức khi mang thai, nhưng cháu Bea vào đời bình
an, xinh xắn, khỏe mạnh. Ngay ngày thứ hai sau khi rời bệnh viện sản khoa,
chúng tôi đến thẳng trung tâm phục hồi, ký giấy đón Bồ Câu về nhà.
Sau tai họa, ơn trên cho chúng tôi
được hưởng nhiều phép lạ, trên cả mức chờ đợi.
Đầu tiên, là từ ngày về lại nhà, Bồ
Câu vĩnh viễn thoát khỏi chứng động kinh co giật. Con mắt bắt đầu có thần hơn
dù vẫn chưa di chuyển lên xuống qua về.
Nhờ từng được hướng dẫn và thực tập,
vợ tôi đã có thể một mình đặt ống naso–gastric tube thông từ mũi xuống bao tử
cho con trong suốt cả năm, sau đó còn tập cho Bồ Câu uống qua đường miệng, từ 1
giọt, tăng lên 2 giọt, 3 giọt rồi kiên nhẫn tập cho bé nuốt từng chút nhỏ đồ ăn
nghiền đến 1 hột cơm, 2 hột cơm.
Tiếp theo, là chỉ vài tuần sau khi có
Bồ Câu về nhà, cuối tháng Tư 1982, tôi được nhận vào làm bác sĩ tổng quát cho
bệnh viện tư Leesville General Hospital, thuộc tiểu bang Louisiana.
Leesville là một thị xã nhỏ của vùng
Southern, nơi dân bản xứ có tiếng là kỳ thị. Với tôi, thay vì tiếp tục học lên,
cơ hội trở lại hành nghề bác sĩ tại đây phù hợp hơn với hòan cảnh thực tế. Tuy
nhiên, cơ hội này cũng là một thử thách sinh tử, đòi hỏi sự bén nhậy khi định
bệnh, tận tụy khi trị liệu. Khi giao thiệp bằng tiếng Mỹ, dù chưa thể thuần
thục, vẫn cần sự chính xác, tinh tế trong ngôn từ. Đó là thời kỳ phải vừa làm
vừa học, vừa gìn giữ nhân cách của một bác sĩ người Việt duy nhất trong vùng.
Rất may mắn, chỉ một thời gian sau,
tôi chính thức được bệnh viện chấp nhận như một bác sĩ chính ngạch, tăng lương
thêm 50% cộng bonus cuối năm. Nhờ vậy, cuộc sống gia đình mau chóng được ổn
định. Số lượng bệnh nhân đến khám với tôi nhiều hơn. Trong những lần gia đình
ra bên ngoài, nhiều cư dân bản xứ dừng lại bắt tay tôi, chào hỏi vợ con tôi.
Sau trên một năm được kiên trì tập
luyện, Bồ Câu tạm thời đã có thể uống sữa, ăn cháo, ăn cơm với luôn cả rau cải
thịt cá cắt nhỏ, khi được mẹ đút vào miệng. Phản xạ nuốt tốt dần. Phép lạ lại
xẩy khi đến chúng tôi quyết định rút ống chuyền mũi – bao tử, Bồ Câu giữ khả
năng ăn, nuốt bằng miệng, thân thể dần mạnh hơn, tay chân cứng cáp dần, miệng
bắt đầu biết cười và bập bẹ ư ê như em Bea, khi hai chị em ở cạnh nhau.
Nhờ thu nhập khá dần, căn nhà mới có
phòng tập lớn với đầy đủ tiện nghi, ngày ngày luôn có người thay phiên đến nhà
làm việc, luyện tập cho Bồ Câu, nào là physical therapist, occupational
therapist, speech therapist, sức khỏe của bé hồi phục dần.
Từ tuổi Mẫu Giáo, Bồ Câu được học
chương trình giáo dục đặc biệt (Special Education), có xe đón rước tận nhà. Các
thầy cô giáo làm việc rất công tâm và tận tụy, nhiều bà giáo trong ngành Giáo
Dục Đặt Biệt thường lui tới nhà chỉ bảo, giúp đỡ. Chúng tôi luôn biết ơn họ.
Không có họ, chúng tôi không thể nào có đủ hiểu biết, trong tiến trình từng
bước giúp Bồ Câu khôi phục và phát triển chức năng. Khi nhà có hồ tắm với nước
ấm quanh năm, Bồ Câu cũng biết tỏ ra rất thích và thoải mái nằm ngửa trong phao
hoặc trên tay cha mẹ.
Gia đình đông dần với sự ra đời thêm
của 2 đứa con sinh sau. Dù bận rộn tất bật hơn, chúng tôi luôn cố gắng sinh
hoạt chung với các con, từ trong nhà cho đến ra bên ngoài, ở đâu có cha mẹ là
có đầy đủ 4 đứa con. Nếu cha không đẩy kịp xe lăn cho Bồ Câu thì Bea đẩy chị.
Nếu mẹ chưa đút kịp cho chị ăn, thì Betty lo giùm.
Dù ở nơi xa lạ, không thân thích,
không một bóng đồng hương, nhưng đúng là lời chúng tôi cầu xin cho con được
sống và sống với cha mẹ đã được bề trên lắng nghe. Các linh mục trong nhà thờ giáo
xứ đặc biệt cho phép Bồ Câu chịu phép rước lễ vỡ lòng ở tuổi 16 (first holy
communion) dù Bồ Câu không qua lớp giáo lý căn bản.
IV. Chuyện chưa từng nói về thủ đoạn
tàn ác của cộng sản
Khi tin cháu Bồ Câu gặp nạn được báo
về Saigon, măng tôi bị tai biến mạch máu não khá nặng, nhưng bà cố tập luyện
giữ gìn sức khỏe, nói muốn sang Mỹ chăm sóc cháu.
Sau khi được anh chị tôi bảo lãnh
sang Cali, vào đầu thập niên 90, Măng tôi dời qua Louisiana ở với gia đình
“thằng con út” và cháu Bồ Câu.
Trong khoảng 3-4 năm, các anh chị bên
Cali thay phiên nhau qua thăm Măng, có khi rủ nhau đi chung cho vui thêm. Anh
Vĩnh Anh cũng từ Montreal cũng qua thăm mẹ được 2 lần. Vậy là trừ ông anh lớn
Vĩnh Toàn còn ở lại Việt Nam, anh chị em tôi có nhiều dịp sum họp. Nhờ vậy,
nhiều chuyện được thổ lộ giúp tôi hiểu thêm về sự thức tỉnh của mọi người trước
sự tráo trở, tàn tệ của Cộng sản.
Đầu tiên là do anh Vĩnh Anh kể lại
chuyện chính anh vừa trải qua. Năm 1990, các thành viên chủ chốt của nhóm Việt
Kiều Yêu Nước (VKYN) tại Montreal, trong đó có ông anh tôi, được Ban Việt Kiều
của chính phủ CSVN mời về nước với mục đích, góp ý cho Đảng CSVN làm cách nào
tránh được hiện tượng Thiên An Môn /Tiamen Square xẩy ra tại Trung Quốc năm
1989, sẽ không thể xẩy ra tại Việt Nam.
Theo kế hoạch của nhóm Montreal, anh
Vĩnh Anh nằm chờ tại Saigon, 4 người kia bay ra Hà Nội; Một anh ở chờ trong
khách sạn, 3 anh còn lại vào họp, mang theo văn bản góp ý của nhóm Việt Kiều
Yêu Nước ở Montreal: bãi bỏ chế độ độc đảng, cho thành lập chế độ đa đảng càng
sớm càng tốt.
Sau hai ngày không thấy các bạn mình
trở lại khách sạn, và cũng chẳng nhận tin nhắn miệng nào, người chờ bên ngoài
khách sạn Hà Nội điện thoại báo tin cho anh tôi. Đoán chuyện không hay xẩy ra,
anh tôi tức tốc bay ra Hà Nội, đến tư gia “bác Võ Nguyên Giáp,” xin vào gặp với
tư cách là “con trai của ông Bửu Tiếp”, người thầy giáo Quốc Học Huế thời xưa.
“Bác” Võ Nguyên Giáp lắng nghe, lắc lắc đầu, rồi bảo anh tôi về chờ tại khách
sạn.
Thêm 2 ngày căng thẳng chờ đợi trong
lo âu. Bỗng trong đêm thứ hai, cả anh tôi và người bạn kia được chở vào bên
trong một cơ quan, nhìn thấy ba người bạn mình đang có mặt tại chỗ, mặt mày
người nào cũng xám xịt, căng thẳng, một người lại có băng trắng ở cổ tay. Không
dài dòng giải thích, cả 5 người được lệnh ký tên vào một tờ giấy cam kết đủ
thứ, kể cả việc không bao giờ được về lại Việt Nam.
Sau khi đồng loạt ký tên, cả 5 người
được chở thẳng ra phi trường lên chuyến bay sớm nhất về Canada. Trên máy bay,
anh tôi được các bạn cho biết, sau khi phát biểu ý kiến chủ trương đa đảng của
nhóm Việt kiều yêu nước ở Montreal, cả 3 người bị bắt, đưa ngay vào nhốt trong
một bệnh xá tâm thần. Anh bạn tổng thư ký của nhóm quá tức giận nên quyết tự
sát bằng cách rạch cứa cổ tay mình, nhưng được cứu thoát. Chính vì vậy mà chúng
mới thả cho về vì e ngại sẽ có khó khăn với bộ ngoại giao Canada.
Vậy là nhóm Việt Kiều Yêu Nước
Montreal, trước đây đã từng bị rúng động bởi hiện tượng vợ chồng Phục &
Vịnh Thủy vượt biên trở về lại Canada, nay lặng lẽ tan rã, mỗi thành viên mỗi
mang một nỗi niềm riêng.
Câu chuyện anh Vĩnh Anh và nhóm bạn
Montreal làm Măng tôi trầm ngâm rất lâu, sau đó bà mới kể lại một bí ẩn mà bà
dấu kín trong lòng từ nhiều năm.
Sau khi Ba tôi mất, suốt thời kháng
chiến chống Pháp, chi hội phụ nữ nằm vùng tại Huế cố lôi kéo Măng vào tổ chức
của họ, nhưng Măng đã nhiều lần thoái thác với lý do góa phụ bận rộn nuôi bầy
con, mươi lần bị kêu đi họp thì chỉ đến một lần cho có lệ.
Vào thời gian chia đôi đất nước của
hiệp định Geneve 1954, Măng tôi thình lình đến nơi họp, và đến trễ. Đang đứng
bên ngoài cửa căn nhà họp trong chiều tối, tình cờ Măng nghe tiếng các người
bên trong phòng đang bàn tán về mình “Thằng Tiếp không chịu ra ngoài Bắc làm
việc theo chỉ thị cấp trên, nên chúng ta đã xử lý nó rồi. Cái thứ công giáo đó
chỉ làm hư danh cách mạng thôi. Nay còn con Liễu (tên của Măng tôi), ráng chờ
coi nó có chịu tập kết hay không, rồi sẽ quyết định”. Nghe vậy, Măng tôi lạnh
cả xương sống, từ từ rời căn nhà họp không một tiếng động. Từ đó, bà dứt khoát
cắt đứt mọi liên lạc.
Khi nghe kể chuyện này, tôi hỏi Măng
phải chăng Ba chết do cộng sản ra lệnh thủ tiêu, rồi sau đó lại dàn dựng một lễ
an táng long trọng kiểu nhà nước để mà mắt thiên hạ, Măng tôi trả lời đúng như
vậy. Bà cũng xác nhận ông bà chỉ là những người quốc gia chống Pháp vì yêu
nước, chưa bao giờ là đảng viên cộng sản. Bà cói thêm, càng về sau Măng càng
nghiệm ra những giả dối của Cộng Sản và từng lo ngại khi thấy hai con trai lớn
không có kinh nghiệm này.
Nhân dịp này, tôi hỏi Măng thương đứa
con nào nhất trong nhà, Măng bảo trước đây, chính tôi là đứa Măng thương nhất,
vì tôi mồ côi cha ngay khi còn nằm trong bụng mẹ, lớn lên lại khốn đốn vì chiến
tranh, tù tội. Nhưng giờ đây, người được Măng thương nhất lại là anh Vĩnh Toàn.
Anh sinh trước tôi cả chục năm, lớn lên bên cạnh ba măng và các bạn toàn là
những người chống lại sự xâm lược của người Pháp, do đó anh dễ có cảm tình với
cuộc kháng chiến của Việt Minh. Măng tôi nói anh Vĩnh Anh và tôi, dù sao cũng đang
sống trên một đất nước tự do. Còn anh Vĩnh Toàn đã lỡ ở lại với cộng sản, lại
không hề có kinh nghiệm về họ, chắc anh sẽ là người có cuộc đời bị thua lỗ
nhất, nay lui cui sống đạm bạc một mình.
Đúng là tình mẹ bao giờ cũng đổ xuống
cho đứa con yếm thế nhất, ít hạnh phúc nhất. Tôi biết gia cảnh anh chị Vĩnh
Toàn đã ly thân từ lâu. Anh chị chỉ có một con gái duy nhất. Cháu ở với mẹ,
không có người dẫn dắt và một tai họa khủng khiếp đã xẩy ra. Năm 1987, khi đang
theo học Nha Khoa Saigon năm thứ Hai, không hiểu vì chuyện gì, cháu nhảy cầu
quyên sinh ban đêm trên sông Saigon.
Thật đau lòng khi nghe tin cháu, một
cô sinh viên trẻ đẹp, học giỏi bị đẩy tới mức tuyệt vọng đến nỗi phải tự kết
liễu cuộc sống! Cho tới nay, chính Măng tôi và anh chị em chúng tôi, vẫn không
thể hiểu được nguyên nhân đã đưa tới cái chết bi thảm của cháu.
Từ khi cả nhà đã ra hải ngoại sống,
anh Vĩnh Toàn cũng rất ít liên lạc. Bất ngờ, chúng tôi nhận được tin về anh nhờ
một lá thư khác thường do chú Bửu Phát, em của Ba tôi, gởi từ trong nước ra.
Thư cho biết có người từng là học trò của Ba tôi trước đây ở trường Quốc Học,
nay làm lớn tại Hà Nội, có ý muốn thu xếp chuyện mua bán khu nhà đất của ông
Nội tôi ở Phủ Cam. Anh Vĩnh Toàn, con trưởng của ba tôi hiện vẫn ở Đà Nẵng,
được yêu cầu đứng tên đại diện cho toàn gia đình phía các anh chị em chúng tôi,
nhưng anh thẳng thừng bác bỏ, không chịu ký tên. Vì vậy, chú Bửu Phát kêu gọi
bà con bên Mỹ ký tên ủng hộ ý kiến bán khu nhà đất của Ông Nội.
Lời kêu gọi của chú Bửu Phát dĩ nhiên
không được ai hưởng ứng. Ngay chú Bửu Bình, con trai út cưng của Ông Bà Nội,
định cư tại Dallas qua chương trình HO, cũng không màng, thì còn ai lên tiếng.
Sau năm 95, có người trong nước báo tin chú Bửu Phát đại diện gia đình đã nhận
tấm bằng tổ quốc ghi ơn cho “Liệt Sĩ Bửu Tiếp” và chưng tại nhà của Chú. Hư
thật ra sao cũng chẳng ai bận tâm.
Sau tin anh Vĩnh Toàn không chịu ký
tên bán đất tổ tiên cho quan lớn cộng sản, có thêm tin công việc y sĩ của anh
cũng không còn suông sẻ. Không hiểu vì bất mãn với chế độ hay với chính mình,
anh phải tìm quên trong rượu chè, cuộc sống càng ngày càng cô quạnh. Sau một
tai nạn lưu thông, anh suy yếu dần. Chị Mai Tâm cùng chồng về thăm anh tại Đà
Nẵng, cho biết là tuy sức khỏe suy yếu nhưng sau cùng anh đã trở lại một tín đồ
công giáo, đi lễ nhà thờ hằng tuần với vợ chồng Linh và Oanh. Oanh là bà con xa
bên Nội, đã tới ở luôn trong nhà để săn sóc anh tôi trong những năm cuối đời.
Mấy tháng trước khi hoàn toàn mất trí
nhớ và từ trần vào năm 2010, anh tôi nhận được tất cả các phép bí tích của
người công giáo từ cha chánh sở giáo xứ. Đám tang anh được làm tại nhà thờ. Rất
đơn chiếc. Không vợ con, anh chị em. Chị dâu tôi cũng qua đời chỉ một năm sau
đó.
Sau vài năm ở Louisiana với chúng
tôi, Măng tôi trở về California sống với các con gái. Thị xã Leesville là nơi
hẻo lánh, Măng tôi không có dịp gặp được người đồng hương để nói chuyện tiếng
Việt. Năm 1997, Măng bị tai biến mạch máu não trầm trọng, sau gần 7 năm được
săn sóc chu đáo tại nhà của chị tôi và chồng, măng tôi qua đời năm 2004.
V. 40 Năm, nhìn lại thấm thía nỗi đau
của những người quốc gia bị cộng sản sát hại
Dù thế nào, vẫn phải có một lần về
đứng trước mộ phần Ông Bà Nội và Ba tôi, một lần nhìn lại mảnh đất tổ tiên,
thăm lại khu vườn kỷ niệm thời thơ ấu. Đây là điều tôi hằng tự nhủ ngay khi vừa
qua tuổi hưu trí, nhưng mãi tới tháng 12 năm 2013, bốn mươi năm sau khi rời Huế
và 34 năm rời bỏ quê hương, vợ chồng chúng tôi mới có dịp về nước lần đầu.
Trên đường về Huế, chúng tôi ghé Đà
Nẵng và hẹn trước với vợ chồng Linh Oanh để nhờ đem chúng tôi đến viếng mộ của
anh Vĩnh Toàn tôi trong một nghĩa trang rộng lớn tại Hòa Vang.
Cháu gái con anh chị cũng đã được bốc
mộ rồi hỏa thiêu tại Hội An trước khi đem vào Saigon từ mươi năm trước. Chúng
tôi có đến thăm nơi cất giữ di cốt của cháu trong một ngôi chùa nhỏ nghèo nàn
tại Thủ Đức. Rất khó tìm thấy hũ tro của cháu vì nằm lẫn lộn với hàng trăm hũ,
trong một ngăn phòng chật hẹp tăm tối. Chúng tôi thắp nén hương, cầu ơn trên
cho cháu được siêu sanh tịnh độ. Trong một ngôi chùa khác tại Gia Định rộng lớn
và tân kỳ, chị dâu tôi được chôn cất riêng trong một khuôn viên đẹp đẽ sáng sủa
sang trọng. Anh, chị và cháu, cho tới phút cuối đời, vẫn ở xa cách nhau. Chúng
tôi chỉ còn biết cầu mong cho vong linh cả ba người, vợ, chồng, con được gần
gụi thương yêu nhau dù giờ đây thân xác thì ngàn trùng xa cách.
Trước ngày trở lại Huế, tôi còn gặp
thêm một điều mai mỉa: Dù đã đổi chủ từ lâu, khu đất của ông nội tôi cho tới
nay vẫn còn được mấy ông lớn cộng sản theo đuổi.
Chú Bửu Phát cũng đã mất từ lâu,
nhưng vẫn có người giao tận tay tôi tờ giấy “Tổ Quốc Ghi Công” mang tên Ba tôi
mà chú Bửu Phát từng nhận, kèm theo mảnh giấy ghi địa chỉ một ông lớn cộng sản
tại Hà Nội, nói đang chờ đợi liên lạc với tôi về chuyện giúp mua bán vườn và
nhà cửa của Ông Nội. Tôi liên tưởng ngay đến câu chuyện chú Bửu Phát từng đề
cập mấy chục năm trước, nhưng bị bỏ giở nữa chừng. Nay biết tôi về, nên phải
chăng người đó lại muốn liên lạc về chuyện cũ này. Chẳng hiểu chuyện muốn giúp
mua bán vườn đất Ông Nội tôi và chuyện cấp tấm bằng tổ quốc ghi công có liên hệ
đến nhau không?
Tôi từ chối nhận tờ giấy ghi số điện
thoại cùng tên tuổi ông ta từ tay người liên lạc.
Sau cùng, một ngày Huế mùa đông,
chúng tôi đã tới được mảnh đất tổ tiên. Khu điền trang cũ của Ông Nội tôi đã bị
chiếm đoạt, đổi chủ từ lâu. Tòa nhà ba tầng xưa trắng toát, bề thế, nay nhếch
nhác, thảm hại. Cây cối vườn xưa tươi tốt nay xơ xác điêu tàn. Khu nghĩa trang
gia đình xưa trang nghiêm, thứ tự, nay cỏ tranh rậm rạp.
Đứng trước phần mộ của Ba tôi, nay bị
chính quyền mới bắt dời đến núi Thiên Thai cùng chung với các mộ phần của đại
gia đình, ôn lại lời Măng tôi kể việc ông bị chi bộ đảng của cộng sản ra lệnh
“xử lý”, tôi thấm thía nỗi đau của những người quốc gia bị cộng sản sát hại.
Thời Việt Minh vừa nắm quyền tại Huế
năm 1946, nhiều vị nhân sĩ trí thức quốc gia một lòng vì nước cũng đã bị thủ
tiêu. Học giả Phạm Quỳnh có người con lớn là Phạm Tuyên thoát ly gia đình theo
Việt Minh. Ông Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt mang vào rừng xử tử.
Phạm Tuyên sau thành nhạc sĩ nổi
tiếng, từng kể lại là “Bác Hồ” có lần nói với ông rằng Phạm Quỳnh là một học
giả yêu nước, một nhân vật lịch sử đáng được tôn trọng. Sau 30 tháng Tư 1975,
Phạm Tuyên chính là tác giả bài ca “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!”
Trong khi ấy thì tại miền Nam, có tin người ta đã tìm được hài cốt của hai ông
Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi bị vùi chung một hố trong xó rừng gần Huế. Các dấu
hiệu từ hài cốt cho thấy hai ông bị chôn sống.
Như thời còn thơ ấu, tôi cũng đã cúi
xuống cố đọc tấm bia mộ ba tôi. Ông sinh năm 1904, bị “xử lý” năm 1946, lúc
khởi đầu những tháng ngày tao loạn. Đó cũng là năm sinh của tôi, đứa con được
ông hiện hồn về trong mơ vuốt vuốt cái đầu nó. Từ đó, biết bao nhiêu tang
thương dâu bể. Măng tôi, cô nữ sinh Đồng Khánh 14 tuổi mê ông thầy giáo độc
thân, ôm truyền đơn của Tân Việt Cách Mệnh Đảng vô trường học năm 1927, nay
cũng không còn nữa. Sau gần 60 năm ở góa nuôi con, Bà đã mãn phần tại
California đúng năm 90 tuổi.
Trong khi ấy thì cả nước Việt Nam, số
phận không khác vườn nhà ông nội tôi là bao. Mảnh đất tổ tiên bị cướp đoạt, mồ
mả ông cha bị đào bới.
Hơn một thế hệ cùng thời với cha tôi
đã trở thành dĩ vãng. Những người từng kề cận ông thời tuổi trẻ như Giáo sư
Đặng Thái Mai hay cậu học trò Quốc học Võ (Nguyên) Giáp cũng đã không còn nữa,
nhưng đất nước thì vẫn tiếp tục bị hủy hoại bởi cái chế độ phi nhân mà họ từng
phục vụ.
Ngày tôi trở lại Huế, cuối tháng 12
năm 2013, cũng là lúc nhà nước cộng sản vừa rềnh rang quốc táng Võ Nguyên Giáp,
chết trước đó vài tháng. Còn nhớ, trang nhà của đài BBC Luân Đôn thời ấy có bài
viết về ông, nói là từ lâu Đại tướng Giáp đã bị phe cánh trong Đảng loại bỏ,
tước hết mọi chức vụ, tư dinh bị đặt trong tình trạng quản chế, mọi việc đi
lại, gặp gỡ, ăn nói, đều phải theo lệnh. Vậy mà khi ông mất hồi tháng Mười,
2013, hai tháng trước khi chúng tôi đi Việt Nam, vẫn rềnh rang đánh bóng tuyên
truyền.
Sự tráo trở, tàn bạo của cộng sản đã
đẩy nhiều thế hệ vào cảnh tương tàn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Ba tôi
bị thủ tiêu, như bao người quốc gia khác, như những bà con Huế bị tàn sát thời
Tết Mậu Thân, đều là nạn nhân của cộng sản.
Nhiều thế hệ đã và sẽ còn tiếp tục đi
qua, kể cả thế hệ chúng tôi. Nhiều tội ác đã bị khuất lấp hoặc sẽ được quên đi.
Nhưng quên không có nghĩa là tha thứ, vì tha thứ là quyền của những người đã
chết, những nạn nhân cộng sản.
VI.
Bằng cái biết hạn hẹp của mình, tôi
đã cố sơ lược truyện “truyện trăm năm” của gia tộc từ những năm 20 của thế kỷ
trước. Nhưng lịch sử cũng như chuyện “Đằng Sau Mặt Trăng” hẳn nhiên còn nhiều
tầng bí ẩn, khuất lấp.
Xin được trở lại với phần đời bé nhỏ
của gia đình chúng tôi.
Theo dòng thời gian, khi gia đình di
chuyển về Nam Cali, Bồ Câu vừa bước qua tuổi teen. Biết chào hello, biết nói
vài chữ bằng song ngữ, biết đòi hỏi, biết hỷ nộ ái ố, biết đi chập chững với
walker, biết ăn bốc và tự xúc ăn bằng muỗng, uống với ống hút…Tuy nhiên vẫn
hoàn toàn không tự lập được trong vấn đề vệ sinh cá nhân, đánh răng rửa mặt,
tắm rửa, thay áo quần, vào giường, ra khỏi giường… Tất cả đều cần sự trợ giúp.
Sau khi được “cho” tốt nghiệp trung
học ở tuổi 22, Bồ Câu được gởi đến Vocational Visions, là một trung tâm giáo
dục giúp đỡ người khuyết tật lớn tuổi, dưới sự quản trị của Orange County
Regional Center (OCRC). Có xe bus sáng chở đi chiều chở về. Tại trung tâm, có
ngày Bồ Câu ở chơi tại chỗ, có ngày được xe chở đi ra bên ngoài, gọi là
community trips, đôi khi hai ba lần mỗi tuần. Cứ mỗi năm, có cuộc họp giữa cha
mẹ với cán sự xã hội đại diện OCRC và đại diện Vocational Visions để đánh giá
tiến triển của Bồ Câu trong năm qua và chọn phương án cho năm tới. Qua đó,
chúng tôi được biết chỉ riêng OCRC đã chi tiêu khoảng 38 ngàn đô cho sinh hoạt
và di chuyển của Bồ Câu mỗi năm. Ngoài ra, còn nhiều phúc lợi xã hội khác, khi
Bồ Câu được ưu tiên cấp thẻ Medicare, nhưng chỉ sau khi mẹ Bồ Câu chính thức
nhận an sinh xã hội khi về hưu.
Nhìn lại, dù là nơi tối tân như Hoa
Kỳ, tai nạn do sự lầm lẫn, sai sót trong ngành y, đặc biệt trong khoa gây mê mà
nạn nhân thường là các em bé 3, 4 tuổi như Bồ Câu, là chuyện cho tới nay vẫn
không thể tránh khỏi. Nhưng bù lại, hệ thống phúc lợi xã hội của nước Mỹ trong
việc chăm sóc luôn vận hành hữu hiệu. Nhờ vậy, trên 56 triệu người bị khuyết
tật, gồm đủ loại, chiếm 19 phần trăm dân số nước Mỹ, không ngừng được trợ giúp.
Chúng tôi luôn biết ơn và vinh dự
được chu toàn bổn phận của một công dân Mỹ.
Life is a miracle by itself.
(Sự sống tự nó là phép lạ).
‘Cô học trò Bồ Câu 41 tuổi
nay là niềm vui cho cha mẹ trong tuổi già… Tạ ơn trên cho con được sống và sống
bên cha mẹ.’
Sau tai nạn năm 1982, các bác sĩ
chuyên môn cho biết trường hợp của Bồ Câu sẽ sống không quá 25 tuổi. Bây giờ
cháu đã gần 41 tuổi.
Các em Bồ Câu nay đã lần lượt xa nhà,
Bồ Câu tiếp tục làm nhân, nhụy trong gia đình còn lại ba mống với nhau. Cô học
trò Bồ Câu 41 tuổi nay là niềm vui cho cha mẹ trong tuổi già, khi vẫn còn có
một đứa con trong nhà để coi ngó, săn sóc, vui chơi, đi đâu cũng có nhau.
Đêm đêm, chúng tôi vẫn cùng nhau cầu
nguyện, tạ ơn trên cho con được sống và sống bên cha mẹ, như điều từng nguyện
ước. Xin được kết bằng lời hát tạ ơn:
“Người đưa tay nâng con dậy
cho con đứng lại trên đỉnh núi
Người đưa con ra đại dương,
giúp con vượt giông bão trùng khơi
Con mạnh lại khi tựa vào vai Người,
để từ đó vượt lên hơn cả chính mình…”
(Josh
Groban – You Raise Me Up
Vĩnh Chánh
Người chuyển bài – HHM -USA