BÌNH
BÀI THƠ HOÀNG HẠC LÂU CỦA THÔI HIỆU VỚI BẢN DỊCH CỦA HƯƠNG LỆ OANH
Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu
(崔顥), ông là một
nhà thơ danh tiếng thời nhà Đường. Tương truyền rằng, Lý Bạch (cũng là một nhà
thơ nổi tiếng cùng thời với Thôi Hiệu) khi đến Hoàng Hạc Lâu định làm thơ cảm
tác, đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.
Dịch nghĩa:
Trước
mắt thấy cảnh không tả được
Vì
Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu.
[Chú thích: "Theo giáo sư Wei Shang đại học
Colombia thì Lý Bạch bị ám ảnh bởi bài thơ tuyệt tác của Thôi Hiệu làm ở lầu
Hoàng Hạc mà đành im lặng mặc dù không nói ra nhưng trong lòng không phục, Lý Bạch
không thể bình tâm trước sự kiện nầy nên ông đã gián tiếp ngấm ngầm tạo ra một
cuộc đối thoại với Thôi Hiệu bằng cách sáng tác những bài thơ tương tự đề cập đến
Lầu Hoàng Hạc với ý và cách dùng luật tương tự Hoàng Hạc Lâu như: Anh Vũ Châu,
Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng, Đăng Kim Phụng Hoàng
Đài"].
Sau đây là nguyên tác bài thơ Hoàng Hạc
Lâu của Thôi Hiệu:
Chữ
Hán: Hán Việt
黃鶴樓
Hoàng Hạc Lâu
此地空餘黃鶴樓 Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
黃鶴一去不復返 Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
白雲千載空悠悠 Bạch vân thiên tải không du du
晴川歷歷漢陽樹 Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
芳草萋萋鸚鵡洲 Phương thảo thê thê Anh Vũ[2] châu
日暮鄉關何處是 Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁. Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(崔顥/ 704-754) (Thôi Hiệu)
Dịch nghĩa:
Lầu
Hoàng Hạc
Ngày
xưa, người tiên đã cưỡi hạc vàng bay đi mất rồi,
Nơi
đây, còn trơ lầu Hoàng Hạc trống vắng.
Hạc
vàng một khi bay đi thì không trở lại nữa,
Mây
trắng ngàn năm vẫn dằng dặc trên không.
Mặt
sông lúc trời tạnh, phản chiếu vẻ sáng của cây cối vùng
Hán
Dương,
(Cũng
thấy) cỏ thơm trên bãi Anh Vũ tốt tươi mơn mởn.
Chiều
tối, nhìn mãi mà chẳng thấy quê nhà nơi
đâu?
Chỉ
có khói tỏa trên sông khiến buồn lòng người!
Chú thích từ ngữ:
Hoàng Hạc Lâu:(黃鶴樓) là tên một ngôi lầu danh tiếng ở Trung Quốc, tọa
lạc tại quận Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc trên núi đá nổi cao của dòng sông Trường
Giang. Lầu nầy là một trong những kiến trúc nổi tiếng của Trung Quốc . Trong thời
kỳ chính biến loạn binh, Hoàng Hạc Lâu bị hủy hoại tất cả 12 lần . Truyền thuyết
cho rằng tiên ông Phí Văn Vi thường cỡi hạc vàng ngao du nơi đây . Một hôm tiên
ông cỡi hạc bay ngang qua Vũ Hán rồi dừng lại trên Đồi Rắn để ngắm cảnh, một
bên là Trường Giang bên kia là Ngũ Hồ . Sau nầy từ nơi ấy người ta xây lên một
ngọn tháp đặt tên là Hoàng Hạc Lâu . Đây là một thắng cảnh tuyệt đẹp, bao la
hùng vĩ, thơ mộng . Lầu được bao phủ bởi một lớp sương mù mờ ảo làm tăng thêm vẻ
đẹp và sự hấp dẫn, các tao nhân mặc khách thuờng viếng nơi nầy để đề thơ, ngắm
cảnh trong đó có Thôi Hiệu và Đỗ Phủ .
Tích nhân (昔人): Theo Lục Du trong Nhập
Thục ký, quyển 5 thì Phí Văn Vi thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở Hoàng Hạc
lâu.
Du du: dài dằng dặc , mãi mãi.
Lịch lịch (歷歷): vẻ sáng đẹp rực rỡ.
Hán Dương: là một quận của Vũ Hán, thủ phủ tỉnh
Hồ Bắc. Hán Dương nằm về phía tây nam của Vũ Hán, đông giáp Trường Giang, nhìn
sang Vũ Xương, có 2 cầu Trường Giang, Vũ Hán nối liền nhau. Phía bắc giáp Hán
Giang và Hán Khẩu . Tại quận nầy có các hồ nước: Nguyệt Hồ, Liên Hoa Hồ và các
núi Quy Sơn, Phượng Hoàng.
Anh vũ (鸚鵡): Khu bãi bến khúc sông
thuộc Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc. Chữ khứ 去: bấy lâu nay, theo wikipedia, ta vẫn hay đọc với thanh Trắc (dấu sắc).
Có nhiều người đã cho là một bài thơ luật Đường 'phá thể', hoặc 'lạc vận'...Lại
có nhiều người cố dịch ra quốc ngữ (abc) bằng cách dùng thinh trắc ở câu Phá
(câu thứ nhất).
Chữ khứ 去: thời của Thôi Hiệu, hay
vùng miền của ông có khi đọc ra là"khâu" hoặc "khu". Trong
Hán Việt Từ điển - Thiều Chửu (trang 76) cũng cho biết như thế:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khu/khâu
Thử địa không dư hoàng hạc lâu.
Bản dịch của Hương Lệ Oanh:
LẦU HOÀNG HẠC
Người xưa cưỡi hạc bay khuất bóng,
Hoàng Hạc lầu trơ ở chốn nầy.
Biền biệt hạc vàng không trở lại,
Ngàn năm mây trắng hững hờ bay.
Hán Dương sông tạnh trông cây rõ,
Anh Vũ cỏ hương tốt mọc dầy.
Chiều xuống quê nhà đâu chẳng thấy!
Khói vương trên sóng gợi sầu tây.
(Hương Lệ Oanh)
Tiểu sử tác giả Thôi Hiệu (704-754): người Biện Châu, tỉnh
Hà Nam, là một hiện tượng lạ trong thơ Đường, đậu tiến sĩ niên hiệu Khai Nguyên
(725, đời Đường Huyền Tông) làm tới chức Tư huân viên ngoại lang . Thơ Thôi Hiệu
phóng túng, tao nhã, mà gợi cảm sâu xa. Ông sáng tác không nhiều, còn lại hơn
40 bài. Hai bài nổi tiếng của ông là khúc nhạc phủ Trường ca hành và bài thơ
Hoàng Hạc Lâu đã đưa ông đến đỉnh vinh quang sáng chói của nghệ thuật thơ Đường
mà tên tuổi ông cũng được lưu danh thiên cổ .
Phân tích và những lời bình :
Bài thơ Hoàng Hạc Lâu viết theo thể thất ngôn
bát cú, thể hiện tâm trạng u hoài, nỗi lòng thầm kín của tác giả về nhân tình
thế thái về sự được mất trước thời thế tác giả đang sống . Thôi Hiệu sống từ thời
Khai Nguyên Đường Huyền Tông, đất nước thanh bình thạnh trị, kinh tế phát triển,
cuộc sống người dân được ấm no, nhưng đến khi Đường Minh Hoàng lên kế vị thì đất
nước Trung Hoa đi vào thời kỳ suy thoái, dân tình khổ sở lầm than . Triều đình
là giai cấp thống trị, vua quan lo ăn chơi xa hoa trụy lạc, trong triều thì rối
ren lục đục, bên ngoài thì mặc cho dân tình đói khổ. Chính những hình ảnh nầy
đã gây xúc động mạnh mẽ trong lòng tác giả, tạo cảm hứng nguồn thơ khiến tác
già viết lên lời thơ đầy truyền cảm Hoàng Hạc Lâu !
Lời thơ thật trầm buồn, chậm rãi như tiếc nuối
cho một cái gì đã mất. Âm vang trải dài trên từng câu từng chữ vừa tha thiết êm
đềm vừa ngậm ngùi luyến tiếc, như đang cứa miết vào tim người đọc vậy.
Câu đầu mở ra một viễn cảnh êm đềm, nhàn nhã
trong lòng người du khách, thể hiện sự trống vắng, hụt hẫng trong tâm hồn (Người
xưa cưỡi hạc bay khuất bóng). Nguồn cảm
hứng khơi lên từ huyền thoại về một tiên ông cỡi hạc vàng dạo chơi, ngắm cảnh, khiến
tác giả xúc động khi đến thăm nơi nầy. Hình ảnh nầy xưa kia tựơng trưng cho một
đất nước thanh bình, dân tình ấm no hạnh phúc. Kiến trúc công phu độc đáo của lầu
khiến ta nhớ tới một thời vàng son chói lọi của một dân tộc từng hiện hữu nơi
đây. Nhưng nay bất ngờ (câu thứ hai) một hình ảnh khác tương phản với hình ảnh
trên đó là cảnh tiêu điều hoang vắng. Lời thơ trầm lắng khiến lòng ta chùng xuống
nghe lạc lõng chơi vơi. Lầu đứng trơ trụi giữa khung trời vắng lặng lạ thường,
nghe thương cảm biết chừng nào ! Ngày xưa rực rỡ bao nhiêu thí nay hoang tàn đổ
nát bấy nhiêu. Biện pháp tu từ so sánh có tính cách đối lập, đối lập giữa cũ và
mới, đối lập rực rỡ /điêu tàn, lộng lẫy/trơ trụi, được/mất v.v. được tác giả sử
dụng một cách cách triệt để phát huy tối
đa tác dụng của nó khiến cho người đọc thêm bùi ngùi xót xa lẫn luyến tiếc:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
(Thôi Hiệu)
Người xưa cưỡi hạc bay khuất bóng,
Hoàng Hạc lầu trơ ở chốn nầy.
Hoàng Hạc lầu trơ ở chốn nầy.
(HLO)
Tiên ông, ngày ấy cưỡi hạc vàng đậu lại trên lầu
cao, bây giờ thì hạc vàng bay xa khuất bóng về phía chân trời , để lại lầu trơ
một cảnh điêu tàn . Từ "trơ" trong bản dịch thay thế cho từ: trống vắng,
trống không, trơ trụi của bản gốc ( "không" dư hoàng hạc lâu) là tĩnh từ diễn tả trạng thái, tính chất của lầu
hoàng được sử dụng thật hay, đặc sắc .
Chính hình ảnh lầu "trơ" ( bản dịch) đã gây thêm cảm xúc dạt dào
trong lòng người đọc bằng những ý tưởng được diễn tả rất xác thực, cô đọng, khẳng
định sự nuối tiếc và chua xót khôn nguôi:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
(Thôi Hiệu)
Biền biệt hạc vàng không trở lại,
Ngàn năm mây trắng hững hờ bay.
Ngàn năm mây trắng hững hờ bay.
(HLO)
Câu thơ "Biền biệt hạc vàng không trở lại"
như một lời khẳng định. Sự không trở lại của hạc vàng ngụ ý thời vàng son một
khi đã tàn lụi tan biến thì không sao phục hưng lại được. Thôi Hiệu thương tiếc
triều đại Đường Huyền Tông, một thời thái bình thạnh trị nay không còn nữa, ông
tiếc nuối vì hiện tại nó trở nên tiêu điều hoang phế đến não lòng! Trong khi đó
trên trời, mây trắng vẫn lững lờ trôi, trôi mãi ngàn năm, bất chấp tình huống xảy
ra bên lầu Hoàng Hạc, về nơi phương trời vô định . Hình ảnh mây bay vô tình nầy
tạo nên sự tương phản với nỗi đau trong lòng tác giả khiến lòng ông như bị
chùng xuống, nặng trĩu đau thương . Hai câu thơ nầy nóí lên lòng hoài niệm
thương tiếc cho những cái đã qua, đã mất, càng nghĩ càng xót xa đau lòng ! Bằng
vài nét chấm phá, Thôi Hiệụ đã khéo léo đưa ta về chốn xưa bằng những nỗi niềm
luyến tiếc cứ chồng chất làm nặng trĩu trái tim, chứa đầy u uất thầm kín về thế
thái nhân tình về tang thương đất nước . Động từ "phản" (返) (trở lại; bất phục phản: không trở lại) nhấn mạnh sự mất mát, luyên tiếc, xót xa của
thi nhân.
Ta lại
thấy một biện pháp tu từ về điệp ngữ . Thơ Đường rất kỵ việc lập đi lập lại một
từ hay môt ngữ trong 3 câu liên tiếp. Ở đây Thôi Hiệu đã "phá cách" bằng
cách lập lại ba lần điệp ngữ với dụng ý
sâu xa, cân nhắc cẩn thận chứ không phải vô tình . Hạc vàng trở lại trong tâm hồn
người đọc, làm rộn lên niềm khắc khoải ưu tư, sau đó hoàng hạc bay đi mất khiến
ta ngỡ ngàng, hụt hẫng, tiếc nuối khôn nguôi .
Chỉ trong 3 câu thơ ở phần đầu mà điệp từ
"Hoàng Hạc" xuất hiện 3 lần cùng lúc với mây trắng bay lơ lững trên
trời tạo thành một cảnh sắc hài hòa làm tăng thêm vẻ đẹp của lầu hoàng hạc cũng
tô điểm thêm nét đẹp mỹ lệ cho bài thơ. Riêng điệp từ "khứ" được lập lại hai
lần trong câu 1 và 3, để nhấn mạnh ý "một đi không trở lại" rất hay,
tuyệt vời! Đặc biệt câu thứ 3 "Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản" tác
giả xử dụng liên tiếp 6 thanh trắc, mạnh tay "phá cách" luật thơ Đường
truyền thống làm cho lời thơ như bị nghẹn lại, phản ảnh cảm giác nghẹn ngào, ngẩn
ngơ, tức tưởi, nuối tiếc . Đúng theo luật thì chữ thứ 4 "khứ" phải
thanh bằng, nhưng tác giả lại dùng trắc. Không những phá cách ở câu 3 mà tác giả
còn mạnh dạn phá luật ngay từ câu đầu khiến độc giả ngỡ ngàng, choáng váng,
nhưng khi đọc kỹ lại thấy hay ! (Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ). Toàn bài thơ
là luật bằng vần bằng mà chữ "khứ" lại vần trắc và chữ "hạc"
cũng trắc; chữ thứ tư "thừa" theo lẽ trắc lại bằng! Tác giả còn dùng
cách hòa thanh phối trí giữa các vần điệu và âm thanh tạo nên nhiều cảm xúc mạnh
mẽ cho người đọc
Hai câu luận :
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
(Thôi Hiệu)
Hán Dương sông tạnh trông cây rõ,
Anh Vũ cỏ hương tốt mọc dầy.
(HLO)
Hán Dương, Anh Vũ là hai địa điểm của Lầu Hoàng
Hạc, đó là những thắng cảnh rất đẹp, hoang sơ giữa khung trời lồng lộng mây bay
sớm chiều. Xa xa lúc trời quang mây tạnh, phản chiếu vẻ sáng của cây cối vùng
Hán Dương . Gần hơn là cỏ thơm mơn mởn ở bãi Anh Vũ đang khoe màu sắc xanh tươi
.
Cảnh vắng lặng đìu hiu khiến lòng người thêm buồn,
nhớ, sầu, thương . Hai câu thơ vừa tả cảnh vừa ngụ tình thật khéo léo, đặc sắc,
thi vị ! Cảnh xa cảnh gần được lồng vào
tình cảm vừa mông lung vừa trầm lắng . Những cặp từ láy: lịch lịch, thê thê là
những nét vẽ tinh tế, khắc họa rõ nét hồn thơ thật sinh động, cảnh đẹp thiên
nhiên hòa quyện với lòng người tạo thành một tổng thể hoàn hảo .
Hai câu kết của bài thơ mới thật là xuất sắc, cô đọng trong một chữ
"sầu" . Câu thơ có nhịp điệu chậm dần, trầm lắng thich hợp với tình
buồn, nhịp thơ thay đổi đột ngột từ 4/3 truyền thống trở thành 2/2/1/2 trong bản
gốc và cũng đúng cho bản dịch, khiến nỗi buồn như khắc sâu vào tim, kéo dài vô
tận ! Màu sắc của thơ Đường được sáng tỏa
trong 2 câu kết nầy . Trước cảnh trời chiều vắng lặng, nhìn về quê cũ bất chợt
trong lòng tác giả dâng lên mãnh liệt nỗi buồn nhớ nhà khôn xiết . Nỗi nhớ nhà
cuồn cuộn như sóng Tràng Giang dâng lên bát ngát che khuất cả quê nhà, không biết
phương nao mà tìm . Xin trích 4 câu thơ nói lên tâm sự nầy của nhà thơ Huy Cận
để chúng ta cảm thông nỗi buồn của người xưa:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng Giang / Huy Cận)
Ta còn bắt gặp trong lòng tác giả rộn lên niềm
thương nỗi nhớ như có tiếng sóng trong lòng . Tiếng sóng ở đây là tiếng thổn thức
của nhịp đập con tim, muốn tuôn tràn . Tiếng sóng nầy có khác tiếng sóng lòng của
nhà thơ Thâm Tâm trong bài Tống Biệt Hành hay không, xin trích ra đây để độc giả
so sánh:
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong!
Đọc hết 2 câu kết của bài Hoàng Hạc Lâu, ta thấy
lòng chùng xuống xuống rồi dãn ra như trút hết niềm tâm sự nhưng lại cứa vào tim ta làm hằn lên nỗi nhớ quê hương,
nhớ nhà:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Thôi Hiệu)
Chiều xuống quê nhà đâu chẳng thấy!
Khói vương trên sóng gợi sầu tây.
(HLO)
Bài
thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đã ghi một dấu ấn tuyệt đẹp, góp phần nâng cao
nghệ thuật sáng tác thơ Đường lên một tầm vóc mới cao hơn có tính cách đột phá sáng tạo
trong cách dùng từ ngữ kể cả "phá
cách" trong thơ cổ điển Đường thi. Bài thơ gieo vào lòng người mộ điệu thơ văn nhất là
thơ Đường những cảm xúc rất thật làm trăn trở biết bao con tim khi đọc bài thơ
bất hủ nầy.
Nhận xét về phép đối gây nhiều thắc mắc
và tranh luận:
Trong thơ Đường
luật khó nhất là phép đối. Các thi nhân Việt Nam thuộc lớp tiền bối đã sử dụng
phép đối rất tài tình, điêu luyện, già dặn như Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân
Hương, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến v.v.
Thử xem Thôi
Hiệu đã "đối" như thế nào qua bài thơ Hoàng Hạc Lâu?
Xét cặp thực (3&4):
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,Bạch vân thiên tải không du du.
Xét vế thứ hai của mỗi câu:
"bất phục phản" (không trở lại) không
đối chỉnh với "không du du"
(vẫn bay bay, hững hờ trôi)
Cặp luận (5&6):
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Hai câu nầy thoạt nhìn, đối rất chỉnh nhưng xem
kỹ thì "Tình xuyên" đối không chỉnh với "Phương thảo" về
thanh (Tình" thanh bằng, nếu trắc như "Tỉnh" thì đúng luật,"Tỉnh
xuyên" đối rất chỉnh với "Phương thảo". Suy cho cùng thì đây
không phải là một lỗi đáng kể vì tác giả đã áp dụng "luật tùy chọn":
nhất, tam, ngũ bất luận!
Những nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đã phân tách
và gọi hiện tượng trên là "song hành đối và không đối". Nhà thơ trong
lúc cảm hứng đã phá luật, múa bút một mạch cho ý thơ tuôn tràn lai láng một
cách tự nhiên mà tạo ra cái gọi là "tự đối tự phi đối", làm cho bài
thơ tự nó có một sự lôi cuốn hấp dẫn lạ lùng.
Dịch thơ :
Đôi điều về dịch thuật:
Bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được
"thiên hạ" dịch ra quốc âm không biết bao nhiêu lần . Vì là một bài
thơ hay, mặc dù phát xuất từ Trung Quốc, nhưng tình cảm trong thơ lại gần gũi
với người Việt Nam nên được người Việt ưa chuộng. Cho tới nay không biết có bao
nhiêu người đã dịch bài thơ nầy ? Cả trăm, cả ngàn hay chục ngàn...chưa có
thống kê cụ thể . Tại sao có nhiều người dịch như vậy ? Câu trả lời là vì thơ
hay, vì người dịch trước còn thiếu sót chỗ nào đó mà kẻ đi sau muốn lấp đầy chỗ
trống đó cho tròn nghĩa nên cũng muốn dịch thử xem sao . Càng muốn lấp đầy thì
lỗ trống càng trống thêm ở chỗ khác, cứ thế mà tiếp tục mãi chưa biết bao giờ
mới dứt, nhờ vậy mà chúng ta mới có dịp thưởng thức những bản dịch khác nhau,
đem lại nguồn cảm hứng vô biên cho người đọc lẫn người dịch .
Liên hệ giữa thơ và nhạc:
Trong thơ phải có nhạc thì
thơ mới hay, ngược lại trong nhạc cũng phải có hơi thơ thì bản nhạc mới có hồn:
khi ca lên nghe réo rắc du dương hoặc sầu vương man mác khiến người nghe cảm
động.
Bài Hoàng Hạc Lâu còn
được các nhạc sĩ Việt Nam đón nhận rất nhiệt tình bằng cách phổ nhạc bài
thơ hoặc sáng tác hẳn một bài khác dựa vào ý chính của bài Hoàng Hạc Lâu. Nhạc
sĩ Thanh Trang phổ nhạc bài thơ dịch của Tản Đà, nhạc sĩ Cung Tiến
phổ nhạc bài thơ dịch của Vũ Hoàng Chương qua tiếng hát của Hương
Lan, Quỳnh Giao; nhạc sĩ Mai Đức Vinh phổ nhạc bài thơ dịch của Hải
Đà. Bản nhạc Màu Hoa Bí sáng tác của Võ Đông Điền dựa vào ý bài thơ Hoàng Hạc
Lâu của Thôi Hiệu được nhiều ca sĩ nổi tiếng trình bày: Như Quỳnh, Hương Lan, Thanh
Tuyền, gây nhiều xúc động, nhận được nhiều lời khen là một trong những bài hay
nhất.
Xét bản dịch của thi hữu Hương Lệ Oanh, tôi có
vài ghi nhận sau đây :
Tác giả trong những lần sinh hoạt xướng họa thơ Đường trong nhóm "Vườn Thơ
Hương Xưa" đã "trình làng" cho nhóm bài dịch nầy, lúc đó có vài
người phê bình là bài thơ phạm luật, sai vần . Cá nhân tôi cho rằng ông tổ Thôi
Hiệu sai luật có sao đâu? miễn bài thơ đạt được ý chính ( mặc dù thơ Đường đòi
hỏi luật lệ nghiêm nhặt) và đọc lên nghe truyền cảm . Trong tinh thần đó tôi đưa bản dịch vào bài bình . Bản dịch thật nhẹ
nhàng trầm bổng theo cung bậc và nhạc điệu bản gốc, đặc biệt dịch sát nghĩa và
sát cả những chỗ sai niêm luật bằng trắc, thử đọc lại hai câu đề:
Người xưa cưỡi hạc bay khuất bóng,
Hoàng Hạc lầu trơ ở chốn nầy.
Hoàng Hạc lầu trơ ở chốn nầy.
Bài phỏng dịch Hoàng Hạc Lâu của Hương Lệ
Oanh, thật truyền cảm, tác giả bắt chước
sư tổ Thôi Hiệu, phá cách ngay câu đầu, cố ý làm sai luật để gây chú ý nơi
người đọc ! Mời các bạn thưởng thức :
(Bản dịch của Hương Lệ Oanh, được ghi lại
trong phần đầu của bài bình ở trên)
Toàn bài thơ là luật bằng vần bằng mà tác
giả đi vần trắc ở cuối câu 1 (câu 1 niêm với câu 8), đồng thời sử dụng chữ thứ
6 "khuất" cũng vần trắc mà theo lẽ phải bằng . Chữ "khuất" nghĩa
rất hay, là tĩnh từ chỉ sự không trông thấy nữa vì bị che
lấp hay mất dạng vì bị vướng ngăn sau một vật gì. Từ "khuất" kết hợp
với động từ "bay" tạo thành động từ ghép chính phụ, trong đó từ tố
"khuất" bổ nghĩa cho "bay". Những từ nầy kết hợp với một số
từ khác làm thành cụm từ " Cưỡi hạc bay khuất bóng " chỉ sự bay mất của chim hoàng hạc mà cũng chỉ
sự sụp đổ của một triều đại . Một màu vàng chớp lên trên trời rồi vụt tắt, cánh
chim hoàng hạc bay đi không bao giờ trở lại, nó đã vĩnh viễn ra đi rồi... còn
chăng là ảo ảnh trong tâm tưởng của kiếp nhân sinh mà thôi!
Những ưu điềm khác về mặt nghệ thuật dùng
chữ đã được trình bày trong phần phân tích ở trên .
Về tứ thơ thì HLO đã trình bày rất súc
tích, cô đọng bởi không khí mang mang trong cảnh sương mờ bao phủ khắp lầu
Hoàng Hạc làm tăng thêm tình cảm ray rức bơ vơ của thân phận con người giữa một
không gian của buổi trời chiều tắt nắng làm mờ cả lối về, không biết quê nhà
nơi đâu ! Cảnh và tình nầy được HLO trình bày một cách nhẹ nhàng cô đọng bằng
những vần thơ gợi cảm khiến lâng lâng lòng người nhất là 2 câu kết của bài thơ:
Chiều xuống quê nhà đâu chẳng thấy!
Khói vương trên sóng gợi sầu tây.
Khói vương trên sóng gợi sầu tây.
Dịch thơ / Nguyễn Cang
Hoàng Hạc còn trơ ở chốn nầy
Vàng hạc một đi không trở lại
Ngàn năm mây trắng lững lờ bay
Hán Dương trời tạnh cây lồng bóng
Anh Vũ cỏ non mọc ngập đầy
Chiều xuống nhìn quê nào có thấy
Chỉ còn khói tỏa khiến buồn lây .
No comments:
Post a Comment