Cà phê thành nội
Đi trong mưa tầm tả qua cầu
Trường Tiền mới thấy thành phố Huế buồn rầu. Mà biết Huế gần bốn chục năm rồi
có bao giờ tôi thấy Huế được vui. Sao vậy? Chắc vì Huế là chứng nhân sự tàn tạ
của một triều đại, của cả một lớp người. Mà đã tàn tạ thì làm sao còn vui được?
Lại nghĩ về tính khí trẻ con của
mình tồn tại cho tới bây giờ mà mắc cỡ. Nói vậy nghĩa là già hay tàn tạ sẽ
không còn vui tươi được? Nghĩa là nếu già háp mà còn vui tươi xí xọn làm ra vẻ
trẻ con nhí nhởn sẽ bị coi là “già mất nết”?
Đó là chuyện con người, còn
chuyện của một vùng đất thì có khi lại khác. Hà Nội đã ngàn tuổi rồi mà sao tự
nhiên bây giờ ai cũng thấy nó rộn ràng xôn xao lộn xộn quá vậy? Nhiều khi thấy
Hà Nội đang rộn ràng theo cái cách riêng của nó thì người miền khác cảm thấy
khó chịu vô cùng.
Còn Huế mới bốn trăm năm tuổi
già mà sao lại buồn rầu chán nản quá vậy? Có cái gì lấn cấn trong nỗi buồn rầu
đó? Trời mà biết được.
Ra Huế mỗi năm nhưng thấy Huế
không thay đổi lắm, Huế vẫn nghèo nghèo âm u như mấy chục năm trước. Người Huế
vẫn ăn nói chừng mực thâm trầm, luôn tỏ vẻ quí phái dù có khi đang nghèo rớt
mồng tơi, chắc có lẽ máu quí tộc máu quan lại vẫn còn chảy trong huyết quản dù
thời thế đã khác xưa nhiều lắm. Bây giờ tính chung cả xứ Bình Trị Thiên may ra
chỉ có người Quảng Bình, người Quảng Trị mới làm quan to được chớ có mấy người
Huế nội thành được làm quan. Thế nhưng khi trò chuyện, người Huế vẫn luôn cố
tạo ra một khoảng cách cao sang nào đó với người đối diện.
Nghe tôi nói vậy anh bạn người
Huế trách: Tư tưởng phân biệt vùng miền. Mấy anh người Quảng Nam hay Sài Gòn
trước giờ đâu có thích người Huế, họ nói người Huế cao ngạo thâm hiểm. Anh cũng
nghĩ vậy, có phải không?
Tôi đáp: Có lẽ tính chất
Huế và Quảng Nam khác nhau xa quá, người Quảng Nam thì bổ bã, nói chuyện phát
âm khó nghe thấy mẹ nhưng thích nói thật nhiều, khi ai tỏ vẻ khó chịu thì chửi
người đó không chơi được. Còn người Huế thì ít nói, mà hễ mở miệng thì phải văn
hoa, phải tỏ ra vẻ quí phái bề trên cho người khác sợ…
Anh bạn người Huế không thèm nói gì
thêm, chỉ cười mĩm chi.
Vượt cơn mưa buổi sáng qua cầu
Trường Tiền tôi và anh bạn vào Thành Nội uống cà phê Lục Bộ. Hội sở Lục Bộ của
thời Nguyễn ngày xưa nay được giao cho tư nhân khai thác, họ bán cà phê, các
thức uống thông thường và các sản phẩm mang chất Huế như Trà Cung Đình, Rượu
Minh Mạng, Trà Ngự, nón lá, áo dài, phấn nụ, tranh sơn mài…
Nói thực, mấy món đó người tây
du lịch cũng không chuộng mà người ta nghèo như tôi cũng chẳng dám bỏ tiền ra
mua. Thấy đồng tiền bỏ ra không đáng.
Việc bán buôn trong Lục Bộ giao
cho mấy em nữ sinh viên nhỏ tuổi không được chuyên nghiệp lắm nên quán cà phê
và các cửa hàng trưng bày trong Lục Bộ rất vắng khách, nhất là sáng hôm ấy trời
mưa dầm dề. Cà phê phẩm chất kém, đắng ngắt, không thơm tho lại cho rất ít
đường. Trà thì lạnh tanh, cung cách tiếp đãi của các em rất chậm chạp.
Anh bạn Huế hỏi tôi: Chờ cà phê
sốt ruột hử? Ở Huế người ta làm cái gì cũng phải khoan thai chớ không vội vàng
hấp tấp như ở Sài Gòn.
Anh ấy gọi cô sinh viên lại và
bảo: Anh muốn uống trà lài. Cô sinh viên nhỏ chậm chạp lấy cây dù che mưa bước
ra khoảng sân ướt hái mấy nụ lài trong tay đem vô bỏ ngay vào ấm trà lạnh ngắt.
Tôi khó chịu: Ai mà uống trà kiểu gì kỳ vậy? Nước lạnh ngắt lại cho lài tươi
vào. Anh không sợ bị đau bụng sao?
Anh bạn ấy chẳng nói gì, chỉ cười mĩm
chi.
Cà phê Huế khác cà phê Sài Gòn.
Ly cà phê đen đá là một ly thủy tinh có một chút ít cà phê pha sẵn và bỏ một
cục đá to chớ không đập vụn ra như ở Sài Gòn. Giá ly cà phê hai mươi ngàn đồng
tuy không mắc nhưng không đáng đồng tiền vì phẩm chất kém và cung cách phục vụ
của các em sinh viên cũng chán.
Các hàng hóa địa phương, rượu,
phấn nụ, bánh đậu xanh, mè xửng… bao bì không được bắt mắt, thấy nó nghèo nghèo
ướt ướt làm sao ấy, nhưng giá lại khá cao so với ngoài chợ Đông Ba. Dạo một
vòng qua mấy phòng trưng bày sản phẩm tôi thở dài nói với anh bạn: Buôn bán
kiểu này ở Sài Gòn chắc chết sớm!
Mấy em nữ sinh viên nữ bán hàng
hay phục vụ trong quán Lục Bộ tuy lễ phép nhưng không có được tác phong buôn
bán hay tác phong dịch vụ như mấy em ở Sài Gòn. Mấy em rất thờ ơ với khách,
không tha thiết mời gọi khách mua hàng. Ngồi uống cà phê, tôi thấy có mấy người
khách du lịch Tây và Việt đội mưa bước vào Lục Bộ, họ lướt sơ một vòng rồi vội
bước ra chắc vì không có ai ngỏ lời chào mời mọc.
Hỏi thăm mấy em nhỏ mới biết
sinh viên ở Huế xin đi làm thêm nhận được tiền công khá thấp. Mỗi em làm thêm
tối đa năm tiếng một ngày với giá ba mươi lăm hay bốn chục ngàn đồng một ngày
công. Chắc vì tiền công ít quá nên mấy em ấy không tha thiết lắm với chuyện bán
buôn hay phục vụ khách hàng, tôi cũng chẳng thấy người quản lý nào đốc thúc
công việc để mấy em ấy làm việc hay hơn.
Tôi hỏi mấy em phục vụ đang ngồi
tụ lại rì rầm trò chuyện trong quán vắng: Vậy một tháng trừ các ngày nghỉ ra
mỗi em nhận chưa tới một triệu đồng? Các em sinh viên ấy e dè nhìn nhau rồi trả
lời tôi: Dạ đúng vậy thầy ạ. Sinh viên tốt nghiệp các trường ở Huế lương khởi
điểm một tháng ba triệu đồng là tối đa, còn chúng em đang đi học xin đi làm
thêm một tháng được gần một triệu là tốt lắm rồi.
Tôi lại hỏi: Lương ba triệu một
tháng thì sống làm sao? Mấy em lại nói hết sức nhỏ giọng: Vẫn đủ thầy ạ. Nếu
không có gan vào Nam kiếm việc lương cao thì đành sống ở Huế với số lương ấy
rồi từ từ kiếm việc khác làm thêm để tăng thu nhập. Không nên vội vàng thầy ạ.
Đời người còn dài, sông có khúc người có lúc, làm người phải biết hy vọng thầy
ạ.
Tôi quay sang nhìn anh bạn Huế
rồi lắc đầu: Nghe mấy em đó nói vậy chớ tôi không tin là mấy em đó đang hy
vọng. Anh bạn hỏi: Sao anh không tin? Các anh người Sài Gòn thì ưa bi quan suy
luận suy diễn lung tung. Như tôi đây làm việc cho Nhà nước ở Huế gần ba chục
năm rồi mà lương cũng chưa tới chục triệu, thế mà con tôi mấy đứa có đứa nào
phải thất học đi ăn xin đâu. Vợ tôi cũng đâu có phải chạy vạy kiếm tiền nuôi
chồng nuôi con đâu. Sao anh đa nghi quá, hay là anh nghĩ tôi ăn xén ăn bớt của
cải nhà nước mới đủ sống?
Anh bạn cán bộ người Huế nói
chuyện tiền lương làm tôi nhớ tới mấy câu chuyện lương và bổng thời bao cấp của
mấy chục năm trước. Lương dù không bao nhiêu nhưng người ta vẫn sống được và
thậm chí vẫn giàu được nhờ có bổng. Chắc anh bạn của tôi bổng lớn lắm đây, còn
mấy em sinh viên nhỏ bán hàng hay bán cà phê trong Lục Bộ thì làm gì có bổng.
Tôi thở dài. Anh bạn Huế mắng
tôi: Lại thở dài, tôi chán các ông Sài Gòn thật. Mắng xong anh ấy nhoẽn miệng
cười mĩm chi một cách rất hiền hòa và quí phái.
Gọi tính tiền ba lần và chờ
khoảng mười lăm phút một em sinh viên mới chầm chậm bước ra đưa cái bill ghi
bốn chục ngàn tiền nước. Đưa một trăm ngàn chờ mãi em ấy mới đem ra sáu chục
ngàn thối lại. Tôi hỏi: Sao lâu quá vậy em? Em ấy trả lời: Sáng giờ chúng em
chưa bán được gì nên không có tiền thối lại thầy ạ.
Anh bạn đưa cho em sinh viên
tiền (pour) boire hai chục ngàn, em ấy lễ phép nhận nhưng không lấy gì làm vui
vẻ, chỉ thỏ thẻ: Chúng em cảm ơn hai thầy.
Anh bạn
nói với tôi: Tính chất Huế là như vậy đó, họ không thích nhận tiền “boire”. Mà
họ có thích họ cũng không bao giờ tỏ vẻ vui mừng quá đáng. Tôi lẩm bẩm: Lương
một ngày có ba mươi lăm ngàn, ai mà vui mừng nổi. (13-12-2016)
thuongcangthuquan
wordpress
304Đen – Llttm - MT
No comments:
Post a Comment