Người bạn văn trẻ tuổi của cha tôi
Tưởng nhớ cha
kính yêu và bạn bè quý trọng của đời ông
Nào, uống đi thằng em, cả ba anh em cùng nâng cốc. Chiêu hớp rượu đầy
khoan khoái, rồi anh giới thiệu:
– Đây là anh Bính, bạn anh thời lính chiến. Còn đây chính là thằng em
mấy lần tao nói chuyện với mày, con anh nhà thơ trào phúng Dương Quân, vừa mới
mất cách đây mấy tháng. Anh hất mặt về phía tôi.
Anh Bính nối lời:
– Anh Hòa Vang có hứa thế nào cũng đưa anh đến hầu chuyện bố em, không
ngờ ông cụ mất đột ngột quá, tiếc thật.
Căn phòng nhỏ của nhà anh nằm trong ngõ ở phố Quang Trung, nơi chỉ có ba
anh em ngồi với nhau chiều nay. Biết tôi đang chờ, anh lại đưa cốc rượu lên
ngang mặt khum tay mời, mời giống kiểu cách anh em Lưu – Quan -Trương gặp nhau
kết nghĩa vườn đào trong phim Tam Quốc Diễn Nghĩa của Tàu đang trình chiếu trên
màn hình nhỏ TV- Hà Nội dịp này.
Hớp một ngụm nữa rồi anh nheo nheo mắt hóm hỉnh nhìn ra cửa chậm rãi kể:
– Thế nào mà chiều hôm ấy lại có mặt đông đủ các lão tướng trào phúng ở
trước cửa báo Văn Nghệ – Trần Quốc Toản đến thế. Người thì đến tìm bạn, người
thì đến nộp bài, người lại đến giao dịch, người đến lĩnh nhuận bút… Anh gặp
Dương Quân tiên sinh (anh gọi cha tôi như vậy) đang mở khóa chiếc xe đạp Thống
Nhất đã cũ, rõ ràng mắt ông nhìn mình mà lại thấy chào Tú Sót.
Anh Tú Sót đứng phía sau cười chào lại. Mình đến gần hơn chào ông. À, à…
chào Hòa Vang. Từ trong tòa báo đi ra thấy có cả ông họa sĩ thiếu tá quân đội
Nguyễn Nghiêm, anh Hoàng Tiến rồi Võ Thanh An, Ngô Linh Ngọc, Thôi Sơn, Lã
Vọng, đông lắm… Sau đó còn có thêm mấy người nữa, đến cả chục người có dư. Thực
ra mình là hậu sinh, không biết họ chỉ qua anh Dương Quân giới thiệu. Một cụ
nhiều tuổi nhất hôm đó cũng có mặt cụ Đồ Phồn, anh vẫn nhớ. Mọi người nhìn sang
hai quán nước nằm sát nhau bên đường đã thấy đông và nhiều khách lạ.
Anh Tú Sót chủ động rủ cả hội hơn chục người về chỗ anh ở góc 64 phố Bà
Triệu – Nhà xuất bản Thanh Niên, cũng gần đấy có ông chủ quán nước người quen.
Cái quán nước thụt vào bên trong hàng rào nên trông kín đáo lắm. Ông chủ quán
nước lại là người thích văn nghệ nên khi nhìn thấy Tú Sót dẫn bạn tới thì ông
hiểu ngay.
May lúc đó chỉ có hai người khách lạ cũng vừa xong, đứng dậy trả tiền
thuốc, nước, nên cả hội ngồi vào vừa đủ, muốn nữa cũng không có ghế ngồi. Chính
vì thế nên đám văn nghệ nói năng thoải mái, không phải giữ ý tứ vì khi đó nói
gì cũng sợ lắm, nhỡ có thằng công an chìm nào ở bên cạnh thì phiền hà to. Ông
chủ quán nhìn Tú Sót hiểu ý, lấy dưới gầm bàn chai rượu nút vỏ chuối, rót vào
chén cho đủ mọi thành viên. Tất cả đều nâng chạm cốc hớp một ngụm đầu khai vị
cay cay. Bỗng có người nổi hứng đọc:
– Muốn vui thì đọc Đồ Phồn
Về nhà lại giở cái l^n ra mân.
Cụ Đồ Phồn trợn mắt, tất cả cười ầm nhưng có người bảo phải sửa lại vì ở
đây chứ không phải ở nhà, nghe nó sái lắm và thế là người kia bảo thì sửa lại
thế này:
– Khao – thì để bác Đồ PhồnXem ai cao thấp giở l^n ra thi.
Cụ Đồ Phồn lại trợn cười khần khật, réo:
– Tớ đếch đủ tiền khao các cậu đâu đấy, nếu ai muốn “khảo” thì được, tớ
sẽ trả lời. Mọi người ồn ào sôi nổi vì câu thơ được chỉnh rất đúng. Chả là cụ
Đồ Phồn viết cuốn sách có nhan đề: Khao. Mọi người lại tranh luận ầm ĩ. Một lúc
sau có giọng đọc nghe buồn buồn:– Chân quê với chả chân thôn
Bính ơi Bính chết chẳng l^n nào đưa.
Lại cười rì rầm lại nâng cốc:
– Được đấy, được đấy… Nguyễn Bính chết vào đêm ba mươi tết cũng thảm, ở
nhà một người bạn yêu thơ, thôn quê Hà Nam heo hút của thời chiến tranh loạn
lạc nào có ai biết ngoài chủ nhà. Nguyễn Bính cũng có tập thơ: Chân Quê. Tất cả
mọi người bàn luận sôi nổi, người uống, người rít thuốc lào, người hút thuốc lá
khói bay mù mịt. Bỗng anh Bính ngửa cổ cười hớ hớ hớ, tôi và anh Hòa Vang tưởng
anh Bính ngấm rượu. Thế là có điềm gở đến với Bính này rồi đấy? Hớ hớ hớ…
Anh Hòa Vang tiếp tục: Lại có tiếng đọc ra:– Dám từng vượt cả Côn Lôn.
Cớ sao đời Quán như l^n giang mai.
Tất cả cười rôm rả, hay lắm, hay lắm là vì anh Phùng Quán có cuốn: Vượt
Côn Đảo mà Côn Đảo thời Pháp thuộc còn gọi là Côn Lôn. Thời Nhân văn – Giai
phẩm năm 1958, anh ấy khốn khổ khốn nạn. Bao nhiêu năm phải câu cá trộm ở hồ
Tây để kiếm sống.
Lại ồn ào, lại uống, lại nói, lại cười… rồi một người chậm rãi:– Trần Dần tưởng đã bị chôn
Mưa sa cờ đỏ có l^n gì đâu.
Mọi người lại cười vang, nhớ Trần Dần đã từng bị đập vì bài thơ “Ta Nhất
Định Thắng” có câu:
Tôi bước đikhông thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên mầu cờ đỏ
Trần Dần đã từng cứa cổ tự tử mà không chết, thật tội nghiệp đấy cũng là
cái số anh ấy, giời chưa bắt đi.
Họa sĩ Nguyễn Nghiêm ngồi nghiêm nghị nhất trong góc khuất nhưng đôi mắt
anh nhìn tinh lanh lắm. Bỗng có ai đó phát hiện anh đã gỡ bỏ quân hàm thiếu tá
cất đi lúc nào, chắc nghĩ bất tiện ở cái nơi tuềnh toàng như thế này. Người đó
đọc luôn:
– Tên Nghiêm nên chẳng thích ồn.
Vẽ bọn lãnh đạo mặt l^n giống nhau.
Lại cười, lại ầm ầm, lại nâng cốc, uống uống. Có lẽ chính những bức biếm
họa của Nguyễn Nghiêm đăng trên các báo làm ngứa mắt bọn nó nên nhiều năm vẫn
chỉ đeo hàm thiếu tá. Ông chủ quán cười vui lây với cả hội nhưng không quên
châm rượu cho các thành viên. Ai cũng có vẻ suy nghĩ, im ắng một lúc, bỗng một
người nữa xuất thơ tiếp:Vẽ bọn lãnh đạo mặt l^n giống nhau.
– Bên kia sông Đuống hoàng hôn.
Hai lần Cầm bị bọn l^n cùm chân.
Cười vui như hội, rượu vào lời ra, càng lúc càng rôm rả. Ai cũng biết
bài thơ “Bên Kia Sông Đuống” nổi tiếng của Hoàng Cầm nhưng ít ai biết ông đã có
tới hai lần bị bắt giam vì nghiệp thơ của mình. Bỗng có người nhìn thấy họa sĩ
Tạ Lựu dắt xe đạp từ góc phố Hàm Long băng qua đường Bà Triệu nên vẫy tay gọi
vào. Tạ Lựu giọng bực tức:Hai lần Cầm bị bọn l^n cùm chân.
– Mẹ kiếp số c*t, dắt bộ mãi từ Ngô Quyền về đây (nhà Tạ Lựu ở 59 phía
Trần Hưng Đạo – góc Bà Triệu sát đó). Thường thì nhiều hàng bơm vá xe lắm mà
nay nhìn chả thấy một ai.
– Ông có biết sắp đến ngày lễ lớn bọn công an nó đi dẹp vỉa hè không? À,
thảo nào. Dựa xe đấy, thôi ngồi uống đi.
Ông chủ quán bối rối đứng dậy chạy vào sân lấy cái xô to ra úp ngược đặt
tờ báo lên bảo:
– Anh ngồi tạm vậy chứ hết ghế mất rồi.
Tạ Lựu vui vẻ ngồi nhập hội. Có tay trạc tuổi như anh, đưa cốc rượu tới
cho Tạ Lựu và chạm vào cốc của mình đọc luôn:
– Phòng ở bé giống tổ chồn.Vẽ cảnh xã hội như l^n đảo điên.
Tạ Lựu cười sánh cả rượu ra ngoài. Giỏi, giỏi. Mọi người cùng nâng cốc
với Tạ Lựu. Vừa im bặt thì lại có ngay một giọng đọc khác cất lên:
– Thơ tình chỉ hít với hônThực tình Diệu có cái l^n nào theo
Ơ, ơ hơ, hi hi hi… Này, này các anh ơi, hình như cái “cục quí” của bác
Xuân Diệu “đổi giới” thế nào ấy nhỉ, chắc bác Diệu nhà mình có vấn đề. Có, có,
có một người phụ nữ đã theo rồi lại không theo nữa. Có sinh sôi nảy nở được đâu
mà quí? Thích bọn cùng giới mới chịu. Ai đó trả lời rồi lại cười ầm ĩ.
Một người cứ nhấp rượu và rít thuốc lào từ đầu đến giờ, cười hùa mà
không lên tiếng. Đó chính là Dương Quân tiên sinh. Ai đấy nói khích:
– Nghe tiếng Dương Quân* chửi kinh mạn lắm mà, chửi bọn chúng bao nhiêu
năm trời mới nên nông nỗi này, thân tàn ma dại, nay ngồi đây được uống, được
chửi mà không nghe lời nào của Dương Quân? Ai lại cứ đưa cái bọn mặt l^n lên
báo mà phệt túi bụi bảo sao chúng nó chịu được, thế thì Dương Quân nghe đây:
– Quân chửi chẳng giữ miệng mồm.Đxo thằng lãnh đạo mặt l^n nào ưa.
Lúc này tất cả cùng reo cười khoái trá vì ai cũng ngấm men rượu và ai
cũng bốc như ai. Hơn nữa câu thơ chọc đúng vào nỗi đau của ông. Ông nhả hết
khói thuốc lào rồi chắp tay về phía người đọc, chắc ít tuổi hơn:
– Tụi bay mới là bậc (maitre) thầy của tao.
Đưa một ngụm rượu nữa vào miệng rồi đặt chén xuống, thong thả Dương Quân
kể:
– Bữa trước tôi sang nhà ông Phái (họa sĩ Bùi Xuân Phái) để bảo ông ấy,
tụi báo Lao Động chê bức tranh “Bến Cá Đà Nẵng” của ông nên nó không đăng. Nói
cho ông biết ông ấy khỏi mong, chắc lại hết tiền uống rượu rồi.
Thằng Phương bảo:
– Bố cháu vừa có khách rủ đi đâu không biết hay chiều xong việc cơ quan
chú tới, từ báo Lao Động của chú sang Thuốc Bắc nhà cháu đây có một đoạn chưa
đầy năm phút. Tôi quay về tới đầu phố Hàng Thiếc gặp mấy tay trẻ mời vào uống
nước. Nghe các cậu ngồi phía trong đang tranh cãi chuyện gì đó hăng lắm, cứ
tướng Giáp thế này tướng Giáp thế kia… bập bõm câu được câu chăng, mình cố lắng
nghe rồi có một cậu đọc rất rành mạch nhưng…
Một người nói vẻ sốt ruột:
– Nhưng sao thì Dương Quân cứ đọc lên.– Nhưng người trong thơ cậu trẻ này đọc lại không dính dáng tới nghề nghiệp tụi mình.
– Thì cứ đọc đi miễn là dính đến l^n.
Lại cười ầm ầm… Dương Quân chậm rãi tưởng đọc rồi lại chưa đọc vội mà bật lửa châm thuốc lào. Ai đó càu nhàu:
– Gặp mấy ông đồ Nghệ trào phúng nói chuyện nghe tức anh ách, lâu thấy
mồ.
Nhả xong khói thuốc, Dương Quân mới chầm chậm … Nó là thế này, tôi xin
đọc lại lời của anh bạn trẻ:– Giáp xưa đánh Pháp công đồn.
Nay về tiếp tục lấp l^n chị em.
Cả hội cười ầm ầm. Đúng, vì năm đó Tướng Giáp được đảng, chính phủ và
nhà nước phân công làm Trưởng ban Sinh đẻ có Kế hoạch. Dẫu vậy nhưng vẫn có đâu
đấy ánh mắt trong đám rượu nhìn Dương Quân ngờ vực. Dương Quân mặt tỉnh bơ đưa
chén lên nhấp tiếp một ngụm lấy làm khoan khoái lắm.
Tất nhiên sau đó cuộc vui còn ầm ĩ mãi đến mờ tối mới kết thúc. Kết quả
ai cũng giỏi như ai. Được ông chủ quán tỏ ra rất hiếu khách và thỏa mãn, ông
không tính tiền từng cốc rượu như khách thường mà giơ lên ba vỏ chai không cho
mọi người thấy. Ông chỉ tính tiền hai chai và chục đĩa lạc thôi, coi như là góp
vui với hội. Ý còn cảm ơn vì với ông nó là dịp may hiếm có trong đời mà ông
được gặp.
Tôi xin lỗi anh cắt ngang:
– Nhưng câu thơ đó là của người khác chứ bố em chỉ đọc lại thôi.– Ừ, thì bọn anh nghe tiên sinh nói thế và cũng chỉ biết thế.
– Anh Bính lại cười hớ hớ hớ. Bính tớ hôm nay không góp gì mà được uống
rượu, được nghe toàn bộ câu chuyện của các đại ca văn nghệ sĩ thi thơ về l^n
thì lãi to. Hớ hớ hớ.
Chia tay Hòa Vang và người bạn lính của anh, tôi về. Khi dắt xe ra ngõ
anh nói với theo:– Đấy là chuyện trực tiếp anh được tham dự, chứ anh còn nghe nhiều chuyện nữa nói về Dương Quân tiên sinh lắm. Anh sẽ kể cho thằng em dịp khác, đi đâu tiện thì nhớ ghé vào anh nhé, chú mày đừng có câu nệ gì.
Anh nhà văn Hòa Vang kết bạn với cha tôi thật muộn màng, tính ra chỉ vào
mấy năm cuối đời ông. Anh có kiểu nói chuyện rất…”quấy đảo” hài hước. Có lẽ vậy
mà anh ngồi nói chuyện với cha tôi nghe chừng hợp gu, cùng cạ lắm. Đúng lý tôi
phải gọi anh bằng chú vì anh gọi cha tôi bằng anh. Anh bằng tuổi chị cả tôi nên
anh bảo:
– Thôi cứ gọi anh như thế cho trẻ trung thân mật. Nếu đến anh chơi, con
anh lại gọi các em bằng anh như thế là hòa. Mỗi lần đến chơi thăm cha tôi, bao
giờ anh cũng chắp hai tay trước bụng:
– Em chào chị, em chào tiên sinh.
Và khi về thì đi giật lùi ra cửa. Cái cung cách ấy làm mẹ tôi ngượng
ngùng, bà bảo:
– Chú đến chơi với anh chị cứ bình thường thôi. Anh chị sống rất bình
dân, làm như thế anh chị phải tội mà thấy khó coi, khó nói lắm.
Nói thì nói vậy nhưng khi anh Hòa Vang về, mẹ tôi bảo với các con:– Đấy, các con phải học chú ấy, người đâu mà lễ độ, khiêm nhường đến thế.
Hơn ba mươi lăm năm đã qua, hình ảnh anh đến chơi với cha tôi vẫn in như
ngày nào. Tôi không ngờ câu chuyện anh kể cho tôi và anh Bính nghe hôm đó lại
là lần cuối cùng ngồi với anh. Sau đấy tôi ra nước ngoài, cuộc sống ngổn ngang
bộn bề, vật lộn mưu sinh thường nhật, thành ra gần hai mươi năm sau, năm 2008,
tôi mới trở về quê hương.
Người đầu tiên tôi đến thăm chính là anh, nhà văn Hòa Vang. Tên thật của
anh cha mẹ đặt là Nguyễn Mạnh Hùng. Lấy bút danh Hòa Vang để lưu kỷ niệm ân
nghĩa ngày quân ngũ còn nằm ẩn náu trong Quảng Trị khốc liệt, năm 1970-1972,
một bà mẹ quê ở Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, về làm dâu đất Quảng Trị, tận tình
chăm sóc cưu mang nuôi giấu anh. Lạ một
điều vì mẹ cũng có hai người con trai đăng lính nhưng họ lại ở bên kia chiến
tuyến phía Việt Nam Cộng hòa. Một người mẹ miền Nam của “ngụy quân ngụy quyền”
nhân hậu biết bao.
Xuất ngũ trở về, anh làm thầy giáo, cầm phấn viết bảng trước khi cầm bút
viết văn. Năm (1991) đoạt giải nhì truyện “Nhân sứ” trong cuộc thi truyện ngắn
của tuần báo Văn Nghệ. Sau đó anh ra được mấy cuốn tiểu thuyết: Tai quỷ (1993),
Hiện tượng Hveya (1998), Năm tháng và mẹ (2006), Hai tập truyện ngắn: Sự tích
ngày đẹp trời (1996), Hạt bụi người bay ngược (2005).
Thằng em kết nghĩa Lê Chí Nguyện mua một bó hoa huệ thật đẹp, bảo tôi
cầm và chở tôi đến không phải thăm anh mà là thắp hương cho anh. Vẫn ngõ, nhà
số 5 phố Quang Trung. Vợ anh, chị Lan đôi vai gầy guộc, người mảnh dẻ nhỏ nhắn,
nói nhỏ nhẹ, yếu ớt, nhìn tội tội. Tiếp chúng tôi trong căn phòng đã từng cùng
anh ngồi uống rượu nhiều năm về trước. Hai anh em xin phép chị cho được thắp
hương khấn anh.
Hòa Vang mất năm 2006. Nhìn bức ảnh chân dung vẫn lộ nét hóm hỉnh thuở
nào. Tôi tiếc anh không sống thêm để viết tiếp những truyện ngắn cho đời và kể
cho tôi nghe chuyện anh được biết về người cha kính yêu của tôi như anh đã hứa.
Năm trước, cô em gái họ Hoàng Hoa đang giảng dạy ở một trường Nghệ An
gọi điện nói chuyện với tôi. Cô bức xúc việc Tập đoàn Formosa đang ngày đêm xả
khói, xả thải gây ô nhiễm khắp vùng trời, vùng biển Hà Tĩnh, mặc dù bị phản đối
quyết liệt của người dân cả nước. Nhất là dân miền Trung nhưng họ đã bị hàng
mấy nghìn công an kéo về, đứng án dầy đặc đường quốc lộ 1 Bắc – Nam, đàn áp
nặng nề, đánh đập dã man, bắt giam, bỏ tù vô lối người dân lương thiện. Cả một
tập đoàn lãnh đạo cộng sản quỳ gối trước lũ giặc Tàu khựa thâm hiểm độc ác. Tôi
càu nhàu:
– Mới bốn giờ sáng ở Đức mà đã gọi điện sang nheo nhéo, nheo nhéo, đang
còn ngủ…
– À, em xin lỗi, em cứ tưởng như bên Việt Nam mình chín giờ sáng rồi anh
ạ.
Nghe giọng nói, tôi hiểu cô rất hờn căm, tức giận. Cô đổ hết lên đầu tôi
một thôi, một hồi, cứ như tôi là thủ phạm gây ra thảm họa Formosa cho đất nước
này.
– Dân Việt mình lạ lắm anh ạ, ai
lại cứ nhè thằng Võ Kim Cự mà chửi, thực ra nó chỉ là con ruồi hôi trong một
đàn ruồi bẩn thỉu. Trên nó còn có những con nhặng tởm lợm hơn trăm nghìn lần Võ
Kim Cự. Những con nhặng chuyên hút cả phân lẫn c*t của dân (em xin lỗi). Nếu
thằng bố nó không đồng ý thì thằng con Võ Kim Cự nào dám ký cho đám Formosa vào
giết hại môi trường và cuộc sống an lành người dân Việt Nam. Chúng tung hỏa mù
như con mụ Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân lẻo mồm: Nào là đã thi hành
khai trừ đảng, khai trừ quyền hạn chức vụ, khai trừ đại biểu Quốc hội… đối với
Cự. Gã Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lẻo mép: Chính phủ xử lý nghiêm túc kỷ luật
thích đáng đối với hành vi sai phạm của Cự, đã cho Võ Kim Cự về hưu. Nhưng khi
dân chúng kéo nhau đi biểu tình, đòi đuổi Formosa khỏi đất nước này thì chúng
lại đánh đập dân dã man, bỏ tù dân tàn bạo oan trái, vu cho dân phản động, thế
lực thù địch, diễn biến hòa bình, trở cờ úp quạt… Một cái đảng đểu cáng đến thế
là cùng. Tiền hậu bất nhất, giấu đầu hở đít, bịt đít lộ lông.
Rồi những chuyện tồi tệ đồi bại xảy ra trong ngành giáo dục sư phạm của
cô, cái ngành trăm năm “trồng người” xã hội chủ nghĩa cho tổ quốc hóa rồng hóa
rồ trong tương lai. Cho lớp người thành tài hóa tai trong hiện tại. Ông Bộ
trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ nói ngọng líu ngọng lô, đọc tiếng Anh thì ồ ồ
như bò giống. Bảo từ chức thì còn lâu, bảo từ trần thì đợi đấy. Rồi câu chuyện
có liên quan đến bộ môn giảng dạy của cô, nào là lịch sử chống giặc phương Bắc
hàng nghìn năm nhưng đến bây giờ cứ xóa dần, bỏ dần, sai lệch dần, thật đê tiện
hèn mạt. Thằng Tàu dã tâm thôn tính mình từ bao đời nay mà mình vẫn cứ phải giả
ngây giả ngô cười như thằng ngố lên vũ trụ:
– Cơm thì độn sắn khoai mìMày lên vũ trụ làm gì Phạm Tuân.
Nào là lịch sử đuổi Nhật đánh Pháp chống Mỹ. Rồi vai trò của tướng Võ
Nguyên Giáp cầm quân, (sau về cầm quần chị em) làm nên một Điện Biên Phủ đưa cả
dân tộc sang bước ngoặt mới. Nhân nói về tướng Giáp tôi cắt nghĩa cô và vui
miệng kể lại sơ sơ câu chuyện trên, rồi đọc thơ nói về tướng Giáp của dân Hà
Nội như thế… Nghe xong cô cười khúc khích. Hay quá nhỉ, cô gợi ý:
– Tại sao anh lại không viết ra cho mọi người biết? Em mà viết được thì
em đã viết rồi. Cũng đáng để cho thiên hạ biết chuyện này lắm chứ anh, nó có
can chi đâu nếu không muốn nói là thi vị.
Trước khi chào cô tắt máy bỏ cái Nokia vào túi, tôi vẫn nghe tiếng bên
kia giọng cô cười khúc khích.
______
* Sinh thời cha tôi không thích chụp ảnh, ngược lại ông được bạn bè ký
họa rất nhiều như bác Bùi Xuân Phái, bác Văn Cao, chú Tạ Lựu, chú Nguyễn
Nghiêm, chú Mạnh Kiểm… mỗi khi ngồi uống rượu với nhau. Chỉ duy nhất có ảnh
chân dung bán thân do báo Lao Động đưa lên giới thiệu một trang thơ cho ông vào
dịp xuân Giáp Tý năm 1984, nhân bài thơ thứ năm trăm của ông viết.
Gần đây vào mấy trang báo xem thấy có ảnh Dương Quân thời trẻ, Dương
Quân lúc già bụng phệ. Bài viết về cha tôi thì đúng, nhưng hai tấm hình đưa vào
bài không phải cha tôi, thật buồn. Tôi đã tìm cách liên hệ với các báo đó mà
không được. Vậy nếu đọc được tin này của tôi mong quý báo gỡ bỏ hai tấm hình
“Dương Quân giả” trên. Xin chân thành cảm ơn.
Dương Tự Lập
28-5-2019
304Đen – Llttm - TD
No comments:
Post a Comment