Đà Lạt, những mùi hương cũ
Ngày đầu tiên đặt chân trở lại Đà Lạt đã
khiến chúng tôi phải đối mặt với những đổi thay chóng mặt của thành phố cao
nguyên này. Cái cảm giác tức thì của tôi lúc ấy, tôi còn nhớ, là một sự ngỡ
ngàng đến mức gần như thất vọng. Đà Lạt thay đổi nhiều quá, diêm dúa quá tôi
không còn nhận ra một Đà Lạt đồi núi, thông ngàn mộc mạc, gần gũi của mình ngày
nào. Đà Lạt bây giở trông đã giống như bất kỳ một thành phố, tỉnh lỵ nào trên
khắp cả nước, cũng nhà nối nhà cao thấp nhấp nhô lộn xộn, cũng đường sá chật
chội chen chúc, xô bồ, cũng khách sạn, nhà nghỉ mở cửa 24/24. Đêm nằm trong
phòng tôi cứ ngỡ mình vẫn đang còn ở Sài Gòn bởi tiếng xe gắn máy chạy ngoài
đường không một giây phút nào dừng. Có lẽ Đà Lạt chỉ còn khác Sài Gòn duy nhất
ở cái không khí lạnh về đêm. Sự ngu dốt, thói hám lợi du nhập từ những miền đất
nào đã đổ xô đến đây bức tử Đà Lạt. Ác cảm về ngành du lịch Việt Nam trong tôi
vốn đã có sẵn nay càng kiên cố hơn bao giờ hết.
Đà Lạt hiện thời đã chẳng còn gì, có lẽ chỉ
còn mỗi cái tên. Mấy ngày ngắn ngủi ấy chúng tôi chỉ muốn đi tìm lại một Đà Lạt
cũ.
Đà Lạt cũ bây giờ chỉ còn ở những cái ngõ
nhỏ, những con đường liêu xiêu, những cuộc đời cố cựu. Buổi sáng đầu tiên sau
khi nếm mùi vị thất bại từ một bữa điểm tâm trên con phố lớn, buổi sáng hôm sau
chúng tôi tìm đến gánh hàng bánh ướt thịt nướng ở trong cái ngõ có những bậc
thang nhỏ dẫn lên chợ Hòa Bình. Ngõ nhỏ, cái gánh bánh ướt khiêm tốn và người
bán hàng, một chị phụ nữ ngoài năm mươi, người nhỏ bé ít nói nhưng có nụ cười
thật hiền. Chị là người Đà Lạt gốc, ngồi bán với gánh hàng ấy từ năm 1977, tính
ra cũng đã ngoài bốn mươi năm. Chúng tôi ngồi ăn trên chiếc ghế nhựa thấp, xì
xụp cùng với mọi người trong không khí tươi mát của một buổi sáng sớm se lạnh.
Tôi vừa ăn vừa nhẩm tính, khi ra ngồi ở cái góc này bán hàng, chị chỉ khoảng
chừng mười ba, mười bốn tuổi. Hẳn vào cái năm 1975 với số tuổi ấy chị cũng đủ ý
thức để ít nhiều cảm nhận được những biến động kinh hoàng mà cả dân tộc phải
oằn mình cam chịu. Sau mấy lần khẩn khoản đề nghị, chị vẫn không cho chúng tôi
biết tên mà chỉ đồng ý cho chụp tấm ảnh lưu niệm. Anh bạn tôi đã bấm nhiều lần
ở những góc khác nhau. Trước khi đi, nhìn quanh một lượt, tôi thấy khách đến ăn
đều là những thanh niên còn rất trẻ. Có lẽ họ chẳng hề biết gì về một Đà Lạt cũ
để có thể hiểu được câu chuyện của chúng tôi và chia sẻ nỗi niềm của những con
người phải lưu lạc trên chính mảnh đất quê hương của mình.
Chúng tôi còn gặp một vài người nữa, những
phụ nữ bán hàng ăn ở Bùi Thị Xuân, ở Đoàn Thị Điểm. Ai nấy cũng đều có thâm
niên bán hàng hơn ba mươi năm. Hơn ba mươi năm, có người những năm mươi năm, mà
vẫn quẩn quanh với một gánh hàng còm cõi giữa một thành phố bỗng chốc giàu có
lên một cách hoang dại, bất thường. Đến đâu, gặp ai cũng đều nghe bàn tán về
chuyện đất đai, nhà cửa. Cơn sốt đất ở Đà Lạt cũng sôi sục từng ngày. Quảng cáo
rao bán nhà, bán đất được nhìn thấy khắp nơi, từ trung tâm Đà Lạt ra đến Phi
Nôm. Những người ở tận đâu đâu đến Đà Lạt thu gom đất đai, nhà cửa và đẩy những
người Đà Lạt trôi dạt. Cơn sốt làm giàu nhanh chóng bằng mọi giá đã giết chết
Đà Lạt, giết chết chính con người.
Ngoài những con người chăm chút các món ăn
truyền thống đã góp phần giữ lại một chân dung đặc sắc của Đà Lạt ấy, chuyến đi
còn cho chúng tôi gặp gỡ một vài trong số có lẽ không còn nhiều những gương mặt
của một Đà Lạt cố cựu khác, mà thời gian quá ngắn không thể gặp được hết, như
ca sĩ Thu Minh và nhà thơ Nguyễn Dương Quang, những nghệ sĩ tận tụy giữ ngọn
lửa tinh thần, cốt cách của một thời. Gặp gỡ để rồi lo lắng, không biết rồi
những đốm lửa hát hiu ấy sẽ còn le lói được bao lâu trước cơn lốc hung bạo quét
sạch mọi giá trị cao cả của văn minh nhân loại.
Thật may mắn, mấy ngày ở Đà Lạt đã không
đến nỗi quá tang thương nhờ có chuyến lang thang ra đến Lạc Dương. Ở đó, vẫn
đồi thông cao vút, vẫn con đường e ấp cong cong uốn lượn, vẫn gió ngàn đìu hiu.
Buổi chiều sau cơn mưa rào, nắng trong veo, con đường bỗng duyên dáng và quyến
rũ lạ thường. Chúng tôi đã không thể ngăn mình buột miệng thốt lên tiếng kêu
vui mừng rỡ. Đà Lạt đây rồi! Giá như có một chòm mây lững thững hay một cuộn
sương mù trôi lạc vào trong cửa xe lúc bấy giờ, có lẽ chúng tôi sẽ biến thành
một Từ Thức lạc cõi thiên thai. Cả bọn đều đã lê la nhiều nơi chốn ở nước người
nhưng thảy đều nhìn nhận chỉ có mỗi quê hương mình mới đẹp thật sự, đẹp hết
lòng, đẹp thắt con tim, đẹp tận ruột gan.
Buổi sáng cuối cùng ở Đà Lạt chúng tôi đến
Trại Mát bằng xe lửa. Chọn đi xe lửa là để có dịp trở lại thăm nhà ga Đà Lạt
với con đường sắt răng cưa và một Trại Mát quen thuộc. Chưa đi nhưng
trong lòng đã đinh ninh sẽ không còn được thấy lại hình ảnh của hàng chục năm
về trước nữa, bởi những hủy diệt tàn khốc do con người không ngừng gây ra cho
thành phố này.
Quả thật, nhà ga xe lửa vẫn còn đó, nhưng
chỉ là một cái xác ngơ ngác. Cái nhà ga của Pháp xây dựng từ năm 1932 trên
tuyến đường sắt nối liền Phan Rang- Tháp Chàm dài trên 80 km để vận chuyển hành
khách và hàng hóa một thời nhộn nhịp ấy, bây giờ chỉ để phục vụ khách du lịch
trên đoạn đường ngắn 7 km đưa đến Trại Mát với cái đầu máy cổ. Tôi nhắm mắt
hình dung lại một thời kỳ lịch sử không xa lắm của Đà Lạt, hẳn còn hoang sơ
nhưng đầy thơ mộng, lãng mạn mà bâng khuâng, tiếc thương cho những cái đẹp đẽ
nhất của đất nước này chỉ trong vòng bốn mươi năm đã bị tận diệt hoàn toàn.
Bên trong nhà ga người ta bày bán mấy bộ
bàn ghế chế tác thô kệch, quê mùa bằng những súc gỗ lớn. Có lẽ cái bộ bàn ghế ấy nếu đặt trong khung cảnh gian nhà của một gã
trọc phú nhà quê mới nổi thì sẽ thích hợp, còn ở nhà ga này nó chỉ có phô
bày trước xã hội một cách thách thức, ngạo nghễ tội ác hủy hoại núi rừng. Nhưng
không chỉ có mỗi bộ bàn ghế, người ta còn bày bán la liệt từ trong nhà ga ra
đến sân ga nào túi xách, chai lọ cùng với những món đồ xanh xanh đỏ đỏ không dễ
gọi tên. Giá như người ta biến không gian bên trong nhà ga thành một không gian
bảo tàng trưng bày di tích, hiện vật giới thiệu cho khách du lịch về lịch sử
đường sắt Đà Lạt thì địa điểm du lịch này sẽ có giá trị biết nhường nào. Nhưng
biết làm sao được, cả nước Việt Nam bây
giờ chẳng khác nào một quán hàng xén khổng lồ, ô trọc.
Ở Trại Mát một người bạn cố gắng đi tìm lại
tượng Phật Quan Âm nhỏ, nơi người vợ quá cố của anh đã đứng cạnh để anh chụp
tấm ảnh cách đây hơn hai mươi bốn năm. Cái tấm ảnh ấy vẫn còn đặt trên bàn thờ
nhưng tượng Phật thì không còn ở chỗ cũ nữa. Hỏi thăm, người ta cứ chỉ hết chỗ
này lại đến chỗ khác. Chúng tôi theo chân anh đi tìm, qua những xóm nhỏ, qua
những lối đi ngoằn ngoèo, cuối cùng chỉ để nhận lấy những ngậm ngùi, thất vọng.
Sắp đến giờ tàu chạy. Chúng tôi phải trở
lại nhà ga.
Chúng tôi phải trở lại Sài Gòn.
Đà Lạt, c’est fini.
Vũ Thành Sơn
304Đen
– llttm - OVV
No comments:
Post a Comment