Một Phần Của Tuổi Đời
Tôi ngồi lặng im trên cái ghế, kê gần tủ
thờ ông bà giữa nhà, nghe ba tôi kể lại câu chuyện mà tôi muốn biết của mười
bảy năm trước đây. Giọng ông trầm trầm, mẹ tôi ngồi trên bộ ván gỏ nung bên
cạnh, đăm chiêu nhìn không thêm không bớt lời nào. Mới xế trưa mà ễnh ương đã
kêu dài ngoài đám ruộng sau vườn, cây bưởi góc sân rụng đầy hoa trắng. Tách
nước trà cạn dần theo từng lời ông nói.
- "sau
khi đứa con đầu của ba mẹ bị bệnh chết trên tay của mẹ con trên đường từ Gò Dầu
xuống Sàigòn vào bệnh viện. Mẹ con buồn bả như người mất hồn, ba quyết định đi
xin con nuôi. Nghe vài người quen chỉ, ba lên Tây Ninh, tìm trúng nơi nhà cô tư
Hòa. Ba kể lại chuyện và cuối cùng cô tư đồng ý cho con làm con nuôi. Gia cảnh
cô tư hay mẹ ruột của con lúc đó có vẻ thiếu thốn. Ba nhận ẳm con về, gởi lại
cho cô tư số tiền 600 đồng thời đó, số tiền này tuy không nhiều, nhưng trong
thời buổi đó tiền có giá lắm. Lương công nhân chắc chừng hai ba chục gì đó một
tháng. Hôm đó cả nhà mẹ ruột con khóc sướt mướt. Ba có hứa với cô tư khi con 20
tuổi, vào đại học ba sẽ cho con biết chuyện này, giờ thì con hỏi, thôi cũng đến
lúc con cũng cần biết, đó chuyện là như vậy..".
Ba tôi ngưng ở đó, mẹ tôi kéo vạt áo bà ba
xám lên lau mắt. Cả ba người chúng tôi lặng thinh, tôi cúi đầu khóc rấm rứt,
không dám ngước nhìn lên như một tên tội đồ phạm thượng. Mẹ tôi bước xuống ván,
chậm rải đi về phía bên hông tủ thờ, mở cái hộp thiếc củ lấy ra một tấm hình
đen trắng, giấy in đã ngả sang màu vàng đục, bà đến gần đưa cho tôi, tấm hình
chụp lúc tôi vừa về nhà ông bà, tròn ba tuổi. Bà vuốt đầu tôi nhè nhẹ:
-
Chuyện gì mặc chuyện gì, con lúc nào cũng là con dễ thương của ba mẹ.
Tôi
không kềm lòng được nữa, òa lên khóc nức nở, ba tôi vẫn ngồi yên trên bộ ván:
-
Chuyện là vậy đó, bây giờ tùy ở con, hồi nhỏ ba mẹ thương con bao nhiêu thì bây
giờ ba mẹ cũng vẩn thương con bấy nhiêu. Cả đời này con vẫn là con của ba của
mẹ.
Nghe ba tôi nói đến đây, mẹ tôi cũng kềm
lòng không nổi, bà nắm tay tôi khóc ròng. Tiếng ễnh ương vẫn còn kéo dài ngoài
ruộng, trời sắp về chiều. Anh năm Thương tay xách đục cá từ phía sau vườn bước
vào, mẹ tôi một lần nữa kéo vạt áo lên lau mắt. Ba tôi lúc bây giờ mới bước
xuống ván, anh năm Thương không để ý gì, nhìn tôi cười thoải mái hỏi:
-
Mai chừng nào em đi?
-
Dạ chắc độ chín mười giờ. Tôi trả lời mà
không nhìn anh vì tôi vẫn còn thúc
thích.
Anh
năm đi ra rồi, tôi đưa tấm hình lại cho bà, tôi nắm tay mẹ tôi:
-
Con xin lổi ba mẹ là đã hỏi chuyện này làm ba mẹ buồn, ba mẹ suốt đời vẫn là ba
mẹ của con, không ai có thể thay thế được.
Ba
tôi bưng tách nước trà lên uống một hơi rồi cười thật tươi dù nụ cười không
thành tiếng. Nhà tôi ăn cơm chiều trể hơn ngày thường, dù chị năm Thương thúc
hối ba lần bảy lượt, chị cứ sợ để lâu mấy con cá lóc mà anh năm bắt về từ xế
trưa không còn tươi ngon nữa. Tôi thao thức một mình trong bóng đêm, cố dặn
lòng đứng để con sông đời mình có ngỏ rẽ. Tôi chợt mình thức giấc, có tiếng ba
tôi tằng hắng ngoài sân sau, trời đã hơn sáu giờ sáng. Ở một góc nào đó cạnh bờ
rào, tiếng dế gáy vang rân. Hình như đêm qua không có tiếng súng.
Rồi
cũng như mọi lần, ba mẹ tôi đưa tôi ra bến tàu, trên sông sương mù giăng kín,
mẹ tôi cũng dúi vào tay tôi thêm vài trăm bạc. Tàu ra khỏi bờ, nhìn bóng ông bà
mờ mờ trong màn sương, nước mắt tôi ứa ra dù tôi chưa bật thành tiếng khóc.
Sàigòn mấy ngày nay không thấy mưa, nắng
nóng chang chang, đường phố mịt mù bụi.
Vài hôm nữa thì trời vào hạ, chiến trận ngày càng tăng dần, không thấy dấu hiệu
gì giảm bớt. Đám bạn ngày xưa giờ đã chết cho chiến trường gần phân nửa, cộng
sản Bắc quân công khai dùng đất Lào và Cam Bốt mở đường, đấp chiến khu xua quân
vào Nam, phụ tay với quân Việt Cộng nhất định chiếm miền nam cho bằng được dưới
sự hổ trợ đắc lực của Trung Cộng, Liên Xô và khối công sản Đông Âu. Miền Nam ra
sức cố thủ nhưng cũng đành mất một số đất thuộc mấy tỉnh Bình Long, Quảng Đức,
dọc theo biên giới. Nghĩa trang có thêm nhiều bia mộ mới, trắng một màu vôi.
Chiếc xe tang, khăn sô góa phụ, khan tắng con thơ giờ trở thành cái gì quen
thuộc trên đường phố Sàigòn hay con lộ đất ngoại ô. Trong cái không khí ngột
ngạt của cuộc chiến không hẹn ngày an bình, Sàigòn vẫn vội vàng sống, dù người
đã nhập cuộc hay kẻ còn đứng bên lề. Đôi lần tôi chợt nhớ đến Tường, nhớ cái kỷ
niệm vui buồn bất chợt của những ngày mới tập làm thơ thương vay khóc mướn,
những ngày chập chửng yêu, chạy xe honda lên xuống qua lại nhà ai đó không dám
vào, không dám ngỏ, những ngày hai thằng ngồi yên lặng cả giờ đồng hồ trên đồi,
nhìn trời xa xa mơ một ngày mai công thành danh toại. Gần một năm trời, tôi
chưa nhận được là thư nào của hắn, nhưng tôi luôn mong Tường ở đó được bình an.
Chuyện Tường yêu Chiêu làm tôi lo nhiều hơn là buồn, sợ một ngày nào đó, chúng
tôi sẽ mất nhau vì định mạng trớ trêu này. Tôi hối tiếc là đã không nói thật
cho Tường biết, giờ thì muộn mất rồi.
Chiều thứ sáu, sau giờ học cuối, Tùng qua
phòng thí nghiệm tìm kiếm gì đó, buồn quá, tôi đón xe buýt ra chợ Sài Gòn. Đi
lòng vòng cũng không thấy gì vui, tôi bỏ đến ngồi uống cà phê tại quán vắng bên
lề đường Lê Thánh Tôn, nhìn kẻ qua người lại trong cái nắng chiều thoi thóp đổ
dài theo từng chiếc lá me bay. Chợt dưng tôi nhớ Bến Cầu vô hạn, nhớ cái giọng
trầm trầm mà ba tôi đã kể lại chuyện của mười mấy năm xưa, để trả lời cho câu
tôi hỏi, nhớ tấm hình đen trắng chụp ngày tôi mới lên ba mà mẹ tôi đã nâng niu
như bảo vật trong suốt hai mươi năm trời. Tôi nuốt chửng ngụm cà phê thật nhanh
để lòng mình không kịp khóc, nhưng đôi giọt còn đọng lại trên môi nghe như mằn
mặn. Trả tiền xong, vừa lửng thửng định băng qua đường, thì gặp Thảo Ly và Xưa
từ hướng tòa đô chánh đi tới. Hai cô cùng thốt lên một lượt:
-
Ủa Anh Ngữ, làm gì ở đây có một mình vậy?
Tôi
gật đầu chào, chưa trả lời thì Xưa tiếp lời:
-
Chiêu đang ở tiệm bà chị, tụi em cũng từ đàng đó lại, định đi kiếm chè bánh lọt
về ăn.
Tôi
thật sự không thấy vui trong lòng nhưng cũng ráng gượng cười:
-
Mấy cô hết giờ sớm vậy sao?
-
Có anh đây, thôi mình trở lại tiệm gặp Chiêu đi, rồi tính đi đâu thì đi, như
vậy vui hơn. Thảo Ly nhanh nhẩu nói.
Hai cô nàng bỏ đi trước, tôi chầm chậm theo
sau. Phố đông người và lá me vẫn cứ lả tả rơi. Về đến tiệm, tôi chỉ kịp chào bà
chị thì Chiêu đã nắm tay tôi đi ra, Thảo Ly và Xưa tủm tỉm cười đứng trước cửa
chờ. Hai ba người khách bước vào, bà chị đành nhìn theo mà không nói thêm gì
được. Băng qua mấy cái quán nhạc trên đường Nguyễn Huệ, tôi đứng lại chờ ba cô
nàng đi lại chổ giữ xe gắn máy lấy xe. Từ đầu này nhìn về bến Bạch Đằng, phía
bên kia sông Sài gòn chiều bắt đầu xuống thấp dần, mây lưa thưa từng cụm tím
ngắt. Theo lời đề nghị của Xưa, bọn tôi lái xe honda ra Phú Lâm ăn hủ tiếu Nam
Vang Kim Tháp. Quán đông nghẹt người, chúng tôi chọn cái bàn ngoài mái hiên,
nhìn ra quốc lộ bốn đi miền Tây. Gió chiều thổi ngược về thơm mùi rạ khô của
mấy cánh đồng chạy dọc theo đường làm tôi chợt nhớ nhà quá, tôi ngồi trầm ngâm
nhìn xa xa không biết là từ nảy giờ ba cô nàng cũng đang nhìn tôi dò xét. Tôi
quên mất cái cười mà tôi có thường ngày, cái chuyện của đêm nào ở Bến Cầu đã
làm cho hồn tôi cứ ray rứt. Chiêu ngài ngại nhìn tôi, trong khi chờ người bán
hàng bưng hủ tiếu tới :
-
Anh Ngữ hôm nay sao thấy buồn vậy? Tụi em có làm gì để anh giận không?
Thảo
Ly vừa đó thêm vào :
-
Thật tình mà nói, em để ý thấy anh hơi là lạ từ khi về tới tiệm của chị hai
kìa!
Tôi
cố vui đáp lời :
-
Đâu có gì đâu. Tôi ngưng ở đó, không dám nói gì thêm vì mắt tôi đã rươm rướm
đỏ.
Cả
ba cô, ai nấy đều ngồi lặng thinh, chờ người bán hàng bưng mấy tô hủ tiếu tới
xong rồi bỏ đi, tôi đành xuống giọng vì không thể dằn lòng khi nhìn Chiêu buồn
rười rượi.
-
Thôi mình ăn xong đã, anh cũng có chút buồn, ăn đi rồi anh nói cho nghe.
Cả
ba cô cùng thở phào một lượt. Mặt trời chỉ còn ửng đỏ hơn phân nửa ở phía bên
kia cánh đồng. Gió thổi nhẹ vào mái hiên quán ăn, bắt đầu lành lạnh.
Người bán hàng một lần nữa bỏ đi sau khi
đặt ly cà phê sửa đá trên bàn. Tôi bưng ly lên uống vài ngụm nhỏ, mùi thơm cà
phê làm tôi có phần tỉnh táo và dễ chịu. Ba cô nghiêm nét mặt chờ. Tôi chậm rải
kể lại câu chuyện đời mình, chuyện của một thằng bé bị cho đi từ năm mới lên ba
và cho đến hơn mười mấy năm sau mới biết sự thật. Tôi kết thúc ở đoạn ba mẹ tôi
đưa ra cầu tàu Bến Cầu, môi tôi mằn mặn, không ai nói lời nào. Lờ mờ qua ánh
đèn điện vừa lên, Chiêu ôm mặt khóc rấm rức, Thảo Ly không khác gì Xưa, mắt hai
cô đỏ hoe, chúng tôi cùng nhìn một phía ngoài quốc lộ, giờ này đường vắng tanh.
Bất chợt mưa về ngang hết sức tình cờ, một cơn mưa lẻ loi trái mùa.
Trên đường về, không ai nói câu nào, Tùng
đứng lang thang trước cửa vẫy tay chào. Chiêu đi rồi, Tùng nhìn tôi ngài ngại.
Phố bắt đầu vào đêm, phía nhà bên cạnh có tiếng đứa con gái quen hát nho nhỏ
bài tình ca nào đó.
Trích từ truyện dài “Bất Chợt Thu Về Đầu Hạ”
No comments:
Post a Comment